Trang chủ » Nữ Công Gia Chánh » Kỹ Thuật » Nguyên-Tắc về Việc Viết Chữ Hoa trong Tiếng Việt—Khải Chính Phạm Kim Thư

Nguyên-Tắc về Việc Viết Chữ Hoa trong Tiếng Việt—Khải Chính Phạm Kim Thư

Thư viện

MỤC LỤC

Khi viết Việt-văn, ngoài việc áp-dụng cho đúng về cú-pháp, văn-pháp, tiến- trình viết văn, nguyên-tắc sử-dụng các dấu chấm câu hay các dấu của câu văn, và cách đánh dấu các chữ Việt, các nhà văn còn phải áp-dụng cho đúng những nguyên-tắc về việc viết chữ hoa thì bài văn mới có giá-trị cả về nội-dung lẫn hình-thức.
Để giúp các bạn trẻ học-hỏi về cách viết văn tiếng Việt cho đúng, chúng tôi đã trình-bày và phổ-biến những bài viết về cú-pháp tiếng Việt, văn-pháp tiếng Việt và tiến-trình viết văn, cách sử-dụng nguyên-âm “i” và “y,” cùng cách đánh dấu các chữ Việt. Sau đây chúng tôi xin trình bày nguyên-tắc về việc viết chữ hoa trong tiếng Việt.

 I. Nguyên-Tắc về Việc Viết Chữ Hoa trong Tiếng Việt Theo ngữ-pháp tiếng Việt, các danh-từ và các chữ trong những trường-hợp sau đây phải được viết hoa:

           1. Viết Hoa Các Danh-Từ Riêng
a- Các danh-từ riêng liên-quan đến tên người phải được viết hoa: Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Du, và Trần Trọng San, v.v.
Ghi-Chú:
* Ở Việt-Nam trước đây, nhất là vào khoảng từ năm 1925 đến năm 1975, các nhà văn thường dùng gạch nối (gạch ngang) để viết tên người, các danh-từ riêng khác, và các danh-từ kép: Dương-Quảng-Hàm, Phan-Bội-Châu, Việt-Nam Tiểu-Học Tùng-Thư, Việt-Nam Văn-Học Sử-Yếu, Thu-Giang Nguyễn-Duy-Cần, Cái Cười của Thánh-Nhân, chính-trị, và phong-tục, v.v.
Hiện nay một số đông các nhà văn cũng dùng gạch nối (gạch ngang) để viết các danh-từ kép và tên người: phụ-âm, nguyên-âm, giađdình, học-đường, Hoa-Hoàng-Lan, vĩ-cầm, và Phạm Quang-Vinh, v.v. Nếu dùng gạch nối (gạch ngang) ở giữa các danh-từ kép và danh-từ riêng, đó là điều rất hợp-tình hơ.p-lý. Tuy-nhiên, nếu không dùng gạch nối thì cũng không sao vì chúng ta chưa có hàn-lâm-viện để quy-định các tiêu-chuẩn về việc sử-dụng Việt-Ngữ. Hàn-lâm-viện (academy) là một cơ-quan chính-thức do chính-phủ của một nước thành-lập ra để nghiên-cứu về văn-chương, khoa-học, hay mỹ- thuật, v.v.
* Trong trường-hợp tên người là tên kép thì cả tên họ và tên kép đều phải được viết hoa: Phạm Trung-Hậu, Phạm thị Thanh-Bình, và Phạm Tường-Lân, v.v.
* Về cách đặt tên người, người Việt mình thường dùng chữ lót như chữ “văn” để chỉ phái-nam và chữ “thị” để chỉ phái-nữ. Hai chữ này thường không được viết hoa: Nguyễn thị Loan, Bùi văn Hùng. Tuy-nhiên, trong trường-hợp chữ “văn” hay chữ “thị” đi kèm với các chữ khác làm thành danh-từ kép như  “văn-minh” và “thị-uy” v.v. mà tên người lại được đặt với các danh-từ kép này thì chữ “văn” và chữ “thị” phải được viết hoa: Phạm Văn-Minh, Nguyễn Thị-Uy.
* Ngày nay, tất cả mọi chữ trong tên người đều được viết hoa như các trường-hợp của các tên sau đây: Nguyễn Văn Ngọc, Vũ Văn Thảo, Nguyễn Văn Khôn, và Nguyễn Thị Hồng, v.v. Viết hoa các chữ trong tên người Việt kiểu này rất phù-hợp với cách viết hoa tên của người Bắc-Mỹ hiện nay, tức là chữ nào của tên người cũng được viết hoa kể cả khi viết tắt.

b- Các danh-từ riêng về địa-lý liên-quan đến năm châu bốn bể, các quốc-gia, các phần của nước, các tỉnh, các thành-phố hay đô-thị, các phố-phường, xóm làng, thôn-xã, các con sông, các dãy núi, các hồ, các cầu, tên các tươ.ngđdài, và tên các cây tháp, v.v. cần phải được viết hoa: Châu Á (Á-Châu), Nam-Hải, Việt-Nam, Miền Nam, Nam-Việt, Miền Trung, Trung-Việt, Miền Bắc, Bắc-Việt, Cần-Thơ, Sài-Gòn, Phố Hàng-Đào, Xóm Bồ-Đề, Làng Quần-Phương-Đông, Huyện Hải-Hậu, Tỉnh Nam-Định, Sông Cửu-Long, Cửu-Long Giang, Núi Tản-Viên, Hồ Hoàn-Kiếm, Cầu Ông-Lãnh, Chợ Lương, Cầu Ngói, Tượng-Đài Đức Phù-Đổng Thiên-Vương, Tượng-Đài Chiến-Sĩ Việt-Mỹ, Tháp Chàm, Trường Trung-Học Phan Bội-Châu, và Xa-Lộ Biên-Hòa,v.v.
Ghi-Chú:
* Nếu các danh-từ chỉ phương-hướng được dùng để chỉ phương-hướng không thôi thì chúng không được viết hoa: Anh ta đi về hướng nam. Nếu danh-từ chỉ phương- hướng được dùng để chỉ miền đặc-biệt của một nước như trên đã nói thì phải viết hoa: Tôi ở Miền Nam.

c- Các danh-từ riêng liên quan đến tổ-chức xã-hội, các cơ-quan chính-phủ, các trường học, các chợ-búa, các tổ-chức thương-mại hay các tiệm buôn, các chùa-chiền, các nhà thờ, các đảng-phái hay tổ-chức chính-trị, các sắc-dân, các năm âm-lịch, các ngày lễ tết, và các trận-chiến, v.v. cần phải được viết hoa: Hội Cựu Học-Sinh Trưng-Vương, Bộ Quốc-Gia GiáoĐục, Nha Sư -Phạm, Trường Cao-Đẳng Sư-Phạm Sài-Gòn, Trường Trung-Học Phan Bội-Châu, Chợ Lương, Yiễm-Yiễm Thư-Quán, Chùa Hương, Nhà Thờ Bùi-Chu, Đảng Cần-Lao Nhân-Vị, Đảng Dân-Chủ, Đảng Tự-Do, Mường, Mán, Quý-Mùi, Da Đỏ, Tết Nguyên-Đán, Thế-Chiến Thứ Hai, v. v.
d- Các chữ viết tắt của danh-từ riêng hay danh-từ chung đứng trước danh-từ riêng để bổ nghĩa cho danh-từ riêng đều phải được viết hoa: VNCH (Viê.t-Nam Cộng-Hòa), QLVNCH (Quân-Lực Viê.t-Nam Cộng- Hòa), VBVNHN (Văn-Bút Viê.t-Nam Hải-Ngoại), QĐ3 (Quân-Đoàn 3), GS Doãn Quốc-Sỹ, LS Hoàng Duy Hùng, VH Trần Thy Vân, v.v. (GS: Giáo-Sư; LS: Luật-Sư, VH: Văn Hữu).
Thường thường các chữ viết tắt phải có dấu chấm đứng ngay sau chữ đó (L.S., G.S., V.H.).  Tuy nhiên, riêng các chữ viết tắt ở trên đã từng được viết như thế từ trước tới nay và được mọi người công-nhận.

           2. Viết Hoa Những Danh-Từ Chung trong Trường-Hợp Đặc-Biệt
a- Khi các danh-từ chung đứng ở vi.-trí trọng-yếu trước danh-từ riêng hay đứng một mình ở vị-trí của danh-từ riêng để vói về chức-tước, việc tôn-sùng các bậc vua chúa thần-thánh, và nghề-nghiệp cao-cấp:
Đức Thánh Trần, Đức Chúa Giê-Su, Đức Phật Thích-Ca, Tổng-Thống Ngô-Đình Diệm; Ngô-Đình Diệm, Tổng-Thống của Việt-Nam Cộng-Hòa; Hòa-Thượng Thích-Tâm-Châu; Đại-Tá Hồ Ngọc Cẩn; Bác-Sĩ Phạm Quang-Khải; Giáo-Sư Doãn Quốc-Sỹ; Tổng-Thống đã đến rồi; thưa Gíao-Sư, kính thưa Đại-Tá, v.v.
Ghi-Chú:
Khi các danh-từ chung như “tổng-thống,” “đại-tá,” “bác-sĩ,” “giáo-sư,” “hòa-thượng,” v.v. không đi chung với danh-từ riêng thì những danh-từ này không được viết hoa: Hồi trước nắm 1975, anh ta là một đại-tá. Con trai út của gia-đình ấy là bác-sĩ. Ông ta là một giáo-sư rất lỗi-lạc. Vị tổng-thống đầu tiên của nước ta là Tổng-Thống Ngô-Đình Diệm. Vị hòa-thượng là vị ở bậc trên cả trong chùa.

b- Viết hoa những danh-từ chung nói về thân-nhân trong gia đình (ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, cô, dì, chú, bác, cậu, mợ, v.v.) khi những danh-từ này đứng trước tên riêng hay đứng một mình ở vị-trí của tên riêng :
Cậu Oánh; Anh Phạm Trung-Hậu; lá thư này của Má; Chị Thu- Hương; Ông đi chơi với Ba rồi; v.v.
Ghi-Chú:
Nếu các danh-từ chung này không đứng trước danh-từ riêng hoặc đứng trước sở-hữu từ: “của tôi,”  “của anh,” và “của chị,” v.v. thì chúng không được viết hoa: các anh, các chị, ông của tôi, anh của tôi, chị của anh, ba của chị, cậu của tôi, v.v.

           3.Viết Hoa Các Chữ của Tựa-Đề Các Cuốn Sách, Các Tờ Báo, Bài Văn,   Bài Thơ, và Tiểu-Đề của Từng Đoạn Văn trong Một Bài Văn, v.v. :
           Dòng Mực Hưng-Quốc (tác-phẩm của Lê Bá Kông); Sức Khỏe và Đời Sống (tác-phẩm của Bác-Sĩ Nguyễn Ý Đức); Án-Tích Cộng-Sản Viê.t-Nam (tác-phẩm của Sử-Gia Trần Gia Phụng); Công Việc Họ Trịnh Làm ở Đất Bắc (Chương V), Việc Giao-Thiệp với Nhà Thanh (tiểu-đề số 1), Việt-Nam Sử-Lược (tác-phẩm của Sử-Gia Trần Trọng Kim); Pháp-Âm (tâ.p-san do Hòa-Thượng Thích-Tâm-Châu làm chủ- nhiệm); Chủ-Nghĩa Sát-Nhân (tên bài thơ của Ý Nga), Trái Đắng Quê-Nhà (thi-phẩm của Ý Nga); v.v.
Ghi-Chú:
* Trên đây là cách viết hoa về các tựa-đề cùng tiểu-đề được áp-dụng ngay trên các cuốn sách hay tờ báo. Tuy-nhiên, nếu chúng ta viết bài tham-luận mà đề-cập đến những tài-liệu của các tác-phẩm hay báo-chí để dẫn chứng thì tên sách hay tên tờ báo không những phải được viết hoa mà còn phải được viết nghiêng (khi đánh máy) hay gạch dưới (khi viết tay): Dòng Mực Hưng-Quốc, Dòng Mực Hưng-Quốc; Trái Đắng Quê Nhà, Trái Đắng Quê Nhà; Pháp Âm; v.v.
* Nếu trong các tư.ađdề hay tiểuđdề này có các giới-từ (với, tại, ở, trong, của, v.v.) và liên-từ (và, hoặc, hay, nhưng, v,v,) thì các giới-từ hay liên-từ này không được viết hoa: Công-Việc Họ Trịnh Làm ở Đất Bắc, Việc Giao-Thiệp với Nhà Thanh.
* Đối với các bài văn hay bài thơ trong sách hay báo-chí mà ta dùng để tham- khảo thì khi đề-cập tới, ta không những phải viết hoa mà còn phải dùng dấu ngoặc kép (” “) nữa:  Bài “Vụ Án Điển-Hình của Chế-Độ Độc-Tài Không Luật-Lệ,” trang 217, trong tác-phẩm Án-Tích Cộng-Sản Việt-Nam của Sử-Gia Trần Gia Phụng. Bài “Công Việc Họ Trịnh Làm ở Đất Bắc,” trang 51, trong tác-phẩm Việt-Nam Sử-Lược, Quyển II, của Sử-Gia Trần Trọng Kim. Bài thơ “Nghĩ Đến Quê-Hương,” trang 12, trong thi-phẩm Trái Đắng Quê Nhà của Nữ Thi-Sĩ Ý Nga.

4- Viết Hoa Chữ Đầu Tiên của Mỗi Câu Văn
Phải viết hoa chữ đầu tiên của mỗi câu văn của mình, chữ đầu tiên của câu văn được trích trong tác-phẩm của người khác dù là câu này được viết giữa câu văn của mình, và chữ đầu tiên của mỗi câu thơ dù là ở cuối câu thơ trên có dấu phảy (phết):
– Từ khi khai-thiên lập-địa đến này, không có loài vật nào độc-ác bằng bọn Việt-Minh, tức là bọn Cộng-Sản Việt-Nam.
– Toàn-dân đã có câu ca-dao như sau:
“Từ khi có đất có trời,
“Không gì độc-ác bằng loài Việt-Minh.”
– Bạn tôi bảo tôi rằng: “Chúng ta đều được mời đi tham-dự buổi nói chuyện của Ông Ernie Eves, Thủ-Trưởng Tỉnh-Bang Ontario, vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 12-9-2003 tại London, Ontario.”

 II. Các Lỗi-Lầm Mà Một Số Nhà Văn Đã và Đang Mắc Phải về Việc Viết Chữ   Hoa hay Không Viết Chữ Hoa.

  1. Thời xưa, đối với các danh-từ riêng về địa-lý, người ta chỉ viết hoa chữ cái của danh-từ đầu tiên mà thôi, chữ thứ hai không được viết hoa như: Việt-nam, Cửu-long, Thái-bình, Vĩnh-long, Vân-nam, Vân -đồn, Tây-ban-nha. Cách viết này không thích-hợp với ngữ-pháp tiếng Việt về cách viết hoa các danh-từ riêng. Các chữ trong những danh-từ địa-lý này đều phải được viết hoa thì mới đúng: Việt-Nam, Cửu-Long, Thái-Bình, Vĩnh-Long, Vân-Nam, Tây-Ban-Nha.
    2. Đa-số người cầm bút thường có thói quen không viết hoa các danh-từ chung đứng trước các danh-từ riêng như: sông Cửu-Long, núi Tản-Viên, phố HàngĐDào, trường trung-học Phan Bô.i-Châu, xa-lộ Biên-Hòa, thủđdô Sài-Gòn, v.v. Cách viết này không đúng với nguyên-tắc viết hoa các danh-từ riêng. Khi những danh-từ chung đi với danh-từ riêng để bổ-nghĩa cho danh-từ riêng thì tất cả các danh-từ này đều phải được viết hoa: Sông Cửu-Long, Núi Tản-Viên, Phố Hàng-Đào, Trường Trung-Học Phan Bội-Châu, Xa-Lộ Biên-Hòa, Thủ-Đô Sài-Gòn, v.v.
    3. Trong một vài tác-phẩm được xuất-bản vào năm 1971, một số tác-giả viết danh-từ riêng về tên người bằng cách chỉ viết hoa chữ đầu (họ) và chữ cuối cùng của tên. Các chữ đứng ở giữa của tên dù là một phần của tên kép cũng đều không được viết hoa. Họ viết những tên kép này có khi có gạch nối có khi không và chỉ viết hoa chữ đầu hay chữ thứ hai của tên kép này mà thôi:  Lê Thái-hậu, Lê Thái-tổ, Lý Thần-tông, Lý Anh-tông, Nguyễn thành Ý, Nguyễn quang Hiển, Phan quí Hữu, v.v. Cách viết này không đúng với nguyên-tắc viết chữ hoa về tên riêng của người vì các chữ trong danh-từ riêng về tên người đều phải được viết hoa, nhất là các tên kép. Các danh-từ riêng về tên người ở trên phải được viết lại như sau mới đúng: Lê Thái-Hậu, Lê Thái-Tổ, Lý  Thần-Tông, Lý Anh-Tông, Nguyễn Thành-Ý, Nguyễn Quang-Hiển, Phan Quí-Hữu.
    4. Hiện nay, trong một số báo-chí và sách-vở, người ta không viết hoa cả tựa-đề bài thơ hay bài văn lẫn tên tác-giả của bài thơ hay bài văn đó. Cách viết này trái với nguyên-tắc viết hoa các danh-từ riêng về tên người và về tựa-đề các bài thơ hay bài văn. Tên tác-giả dĩ-nhiên phải được viết hoa, nếu không viết hoa thì đó là sự sai-lầm nghiêm-trọng vì vừa trái nguyên tắc vừa phạm tội vô-lễ. Sởđĩ tư.ađdề của các bài văn hay bài thơ phải được viết hoa là vì chúng là danh-từ riêng, tức là tên riêng của bài thơ hay bài văn. Đã là tên riêng thì phải được viết hoa, nếu không viết hoa thì đó là sự sai-lầm
    trầm-tro.ng.
    5. Trong quá-khứ cũng như hiện-tại đã có người viết hoa những danh-từ chung một cách vô lý như sau: “dung Da So truoc, roi dung Luat Le Sau de bat phe Thieu so phai phuc tung.” Điều này chứng-tỏ tác-giả của câu văn này không biết nguyên-tắc về cách viết chữ hoa và cách dùng kỹ-thuật để nhấn mạnh các chữ hay ý- kiến cho bạn đọc chú-ý.
    Khi viết văn, muốn nhấn mạnh những chữ thuộc loại danh-từ chung thì ta không được viết hoa những chữ đó mà nên để những chữ đó trong dấu “ngoặc kép,” nên gạch dưới các chữ đó, nên viết nghiêng các chữ đó, hay nên viết nét đậm cho các chữ  đó. Nếu viết hoa những chữ đó là ta đã làm điều sai lầm. Khi những chữ mà ta muốn nhấn mạnh lại là danh-từ riêng thì ta vừa phải viết hoa những chữ đó vừa viết đậm nét, viết chữ nghiêng, hay gạch dưới các chữ đó. Câu văn có các danh-từ chung  được viết hoa ở trên phải được sửa lại như sau mới đúng: “… dùng đa-số trước rồi dùng luật-lệ sau để bắt phe thiểu-số phải phục-tùng.”

     III. Kết-Luận
    Nguyên-tắc viết chữ hoa trong tiếng Việt hết sức rõ-ràng và dễ nhớ. Tuy-nhiên, đã viết văn thì thế nào cũng có khi mắc lỗi-lầm không những về việc viết chữ hoa mà còn vướng phải các lỗi-lầm khác nữa. Việc mắc lỗi trong khi viết văn là chuyện bình-thường. Khi viết văn, bất cứ ai cũng có lỗi, không nhiều thì ít. Tuy-nhiên, các nhà văn càng có kinh-nghiệm viết văn thì lỗi càng ít.
    Vấn-đề chính-yếu là sau khi viết xong bài nào, chúng ta phải đọc đi đọc lại càng nhiều lần càng tốt để sửa-chữa, tu-chính, hay nhuận-sắc bài viết của mình. Nếu có thể, nên nhờ người có kinh-nghiệm viết văn và có kiến-văn về đề-tài của bài mình viết để họ đọc giùm và sửa bài đó cho mình. Có như thế thì các lỗi sẽ bớt đi chứ chưa chắc đã sửa hết được. Chính vì thế mà có nhiều nhà văn đã dành rất nhiều thì giờ để sửa-chữa tác-phẩm của họ đến cả chục lần trước khi cho xuất-bản nên tác-phẩm của họ có rất ít lỗi chứ không phải hoàn-toàn không có lỗi. Tuy đã được sửa đi sửa lại mà tác-phẩm vẫn còn có lỗi, đó là chuyện bình-thường vì con người có thất-tình nhục-dục nên việc mắc lỗi-lầm là lẽ dĩ-nhiên.
    Chính vì lỗi-lầm ai cũng có thể mắc phải nên một trường học ở Canada đã công-khai phổ-biến cho ho.c-sinh các tài-liệu về “Rights” (Quyền-Lợi) và “Responsibilities” (Trách-Nhiệm) mà trong đó có hai câu như sau: “I have the right to make mistakes” (Tôi có quyền làm điều sai-lầm) và ” I have a responsibility to respect the rights of others to make mistakes” (Tôi có trách-nhiệm tôn-trọng quyền của người khác làm điều sai-lầm). Thấy điều kỳ-cục này, tôi đã viết thư cho nhà trường đó để phản đối việc này với đại-ý là lỗi-lầm thì ai cũng có thể mắc phải nhưng chỉ do vô-tình hay sơ-ý mà thôi. Nếu chấp-nhận có quyền làm lầm lỗi, tức là biết đó là điều sai lầm mà vẫn còn cố tình làm, và chấp nhận quyền làm điều sai lầm của người khác thì có nghĩa là nhà trường đã khuyến-khích  học-sinh cứ việc nói bậy, làm bậy, và viết bậy. Như thế thì việc này có tính cách phản giáođục. Họ không viết thư trả lời tôi mà chỉ gọi điện-thoại cho tôi để cám ơn và nói là lời góp ý của tôi rất hữu-lý.
    Điều quan-trọng là khi ta mắc lỗi mà có người góp ý sửa cho mình thì mình phải vui vẻ đón nhận để nghiên-cứu lại. Những nhà văn chân-chính bao giờ cũng vui vẻ đón nhận sự góp ý của đô.c-giả để cứu-xét lại bài của mình. Nếu lời góp ý đúng, ta phải viết thư cảm ơn họ, nếu họ góp ý sai thì ta cũng phải giải-thích một cách lịch-sự và lễ-độ cho họ hiểu rõ chứ không được chửi-bới người ta. Khi người ta có lòng tốt chỉ bảo điều lầm-lẫn của mình mà mình lại vì tự-ái chửi-bới người ta thì mình là loại người vô-lễ, vô-liêm-sỉ, và là hạng tiểu-nhân.
    Tóm lại, muốn viết văn cho giỏi, ta phải luôn-luôn nghiên-cứu và học-hỏi những điều mình chưa rõ để viết cho đúng cho hay vì biển học mênh-mông mà trí người có hạn. Vả lại, người xưa cũng nói rằng: “Người ta thông-minh thánh-trí đến đâu cũng không sao biết cho hết mọi sự-vật được.” Chính vì thế, chúng ta phải luôn-luôn tìm hiểu, nghiên-cứu, và ho.c-hỏi thêm để làm cho kiến-văn của mình càng ngày càng uyên-thâm và kỹ-thuật viết văn càng ngày càng tinh-nhuệ.

    Canada, 2003

Quốc Kỳ

%d người thích bài này: