Tình Cha—Khuyết Danh
Dòng nước mắt một đời không luống cạn
Giọt mồ hôi năm tháng chẳng hề vơi
Đó tình cha muôn thuở vốn không lời
Trong lặng lẽ, âm thầm như chiếc lá.
Buồn hay vui Cha cũng cam để dạ
Khóc hay cười Cha để cả trong tim
Như đại dương, lòng biển cả lặng im
Trong sâu thẳm tiềm tàng nhiều bí ẩn.
Công dưỡng dục suốt một đời lận đận
Nghĩa sinh thành vương vấn cả trăm năm
Bên đời con, Cha một bóng âm thầm
Luôn che chở bằng bóng râm mát dịu.
Tấm lòng cha một đời con đâu hiểu
Bởi tình Cha luôn lắng dịu ngọt ngào
Tuy giá băng nhưng sâu thẳm dạt dào
Cho mà chẳng mong chút nào đền đáp.
Rồi mai kia trên đường đời muôn dặm
Con mới hay sâu thẳm tấm lòng Cha
Luôn bao la và cũng rất mặn mà
Tình Cha đó, ngàn năm vang vọng mãi
Khuyết danh
Người Thương Binh Uống Rượu Bên Giòng Sông—Thái Tú Hạp
Rượu uống bao nhiêu chiều rồi nhỉ
Chỉ thấy giòng sông đỏ dáng trời
Chỉ thấy lòng ta mưa chẳng tạnh
Sóng sầu nghiêng ngả mảnh hồn trôi
Bạn cứ đi. Đừng quên người ở lại
Ta một mình. Sống được với quê hương
Như mãnh thú khép mình trong phố nhỏ
Đốt hết tuổi đời nghiệt ngã đau thương
Bao lần bên giòng sông soi mặt
Thoáng nhớ mây trời đỉnh Chu Phong
An Lộc – Khe Sanh – Đèo Lao Bảo
Tử sinh ta xem nhẹ như không
Ngày tháng rong chơi lửa reo đầu đạn
Ta giờ lạc mất những đường chim
Ngồi lại bên giòng u uất sử
Uống giọt cuối cùng máu rỉ từ tim
Chia với cỏ cây nỗi niềm tri kỷ
Nhân gian chừng như lãng quên ta
Chiều uống rượu bên giòng sông tủi nhục
Hát một mình bài hát cũ: Quốc Ca
Bao năm thấu triệt đời hư huyễn
Tâm động hồi chuông nhung nhớ quê
Tưởng đến ngày mai. Thầm ước nguyện
Giòng sông thắp nắng đón nhau về
Lâu quá hai phương trời cách biệt
Bạn hiền nay đã giạt về đâu!
Phố cũ chiều trôi đời nhạt nắng
Trong gió vọng nghe tiếng hát sầu?!…
Hạc Xưa Về Khép Cánh Tà―Nguyễn Thị Hải Hà
Hạc ít khi xuất hiện trong văn học Tây phương; tuy vậy, thường được nhắc đến trong huyền thoại và tôn giáo. Khi Odysseus và Diomedes mang con ngựa gỗ Trojan đánh chiếm thành Troy thành công, nữ thần Athena gửi chim hạc đi khắp nơi để báo tin mừng. Hình dáng mảnh mai, bước đi khoan thai, và cái vẻ đơn độc của loài hạc luôn được khen tặng là biểu tượng cho nét quý phái, thanh lịch, và tự do; một vẻ đẹp tự nhiên của đất trời.

Thuở xưa người Ai Cập thờ thần Benu. Tiếng kêu của Benu đánh dấu sự khai thiên lập địa và một ngày nào đó, tiếng của Benu cũng sẽ báo hiệu ngày tận thế. Hình tượng hay tranh vẽ cho thấy Benu giống như con hạc. Người La Mã tin rằng hạc là biểu tượng của sự tái sinh. Ovid, nhà thơ La Mã sinh năm 43 trước Công Nguyên và mất năm 17 (hay 18), giải thích rằng Ardae, thành phố nhỏ phía Nam La Mã, bị tướng Aeneas của quân đội thành Troy, san thành bình địa. Giữa hoang tàn đổ nát có con chim màu xám tro xuất hiện. Con chim có hình dáng mảnh khảnh cổ cao và chân dài, giang cánh đôi cánh rộng ngửa cổ thoát ra một tràng âm thanh áo não. Người Anh gọi loài chim này là Ardea Cinerea có nghĩa là con hạc màu tro. Hình ảnh và tiếng kêu của chim hạc được xem là điềm lành.
Tôi từng nghĩ rằng hạc là loại chim chỉ có trong tôn giáo, huyền thoại, thi ca, và âm nhạc. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy hạc tận mắt. Tôi chỉ thấy hạc qua tranh vẽ, chim hạc ngậm tràng hạt bay đi về hướng nào đó, chắc là Thiên Thai hay Bồng Lai tiên cảnh.
Không biết tôi gặp con hạc nào trước. Hạc trong cái hạc bay lên vút tận trời (1) hay hai con hạc trắng bay về, về Bồng Lai (2). Dù sao, tôi cũng biết thêm một điều, hạc là loài chim màu trắng. Theo tranh vẽ, hạc có mỏ dài, cổ cong, cẳng cao, trông giống như con cò.
Năm 2007, về thăm Việt Nam tôi thấy tượng chim hạc trong vài đền thờ. Hạc rất cao lớn và dưới chân là con rùa nhỏ xíu. Tôi thắc mắc. Phải chăng người mình dùng hạc, để thay thế phụng của người Trung quốc, làm biểu tượng của sự trường thọ. Tôi tự hỏi vì sao một loài chim quý ở cõi tiên lại được đặt bên cạnh rùa, một loài vật của hạ giới. Hạc và rùa có lẽ cùng hiện diện ở chùa và đền thờ rất nhiều nên ca dao Việt Nam có hai câu:
Cảm thương con hạc ở chùa
Muốn bay da diết có rùa giữ chân
Tôi gặp hạc nhiều hơn trong thi ca Việt Nam. Chim hạc có màu trắng. Nhà thơ Phạm Thiên Thư nói thế.
Anh nằm gối cỏ chờ hoa
Áo em bạch hạc la đà thái hư (Phạm Thiên Thư)
Tôi biết bạch hạc là hạc trắng, nhưng la đà thái hư là gì và tại sao lại la đà thái hư? Tôi không hiểu hết nhưng đọc hai câu thơ vẫn cảm thấy hay hay, ngồ ngộ, vương vấn mùi hương Phật giáo.
Tuổi đời thêm một chút, tôi gặp con hạc vàng, qua bài thơ của Thôi Hiệu. Con hạc vàng này không có thật. Có người vào một quán bên sông uống rượu mà không có tiền trả. Ông ta vẽ một con hạc màu vàng trên tường của quán để trừ nợ. Sau khi ông đi rồi, có con hoàng hạc xuất hiện múa và hót cho khách trong quán thưởng thức. Khách đến mỗi ngày một đông, chủ quán mỗi ngày một giàu. Quán xây thêm mấy tầng lầu lộng lẫy đặt tên Hoàng Hạc Lâu.
Rồi một ngày, hoàng hạc biến mất nhưng thi nhân vẫn tìm đến ngắm cảnh đẹp và uống rượu. Thôi Hiệu đến đề bài thơ lên vách. Lý Bạch đến sau đọc bài thơ của Thôi Hiệu ngậm ngùi than rằng vì bài thơ Hoàng Hạc Lâu quá hay nên ông không dám đề thơ. Câu thơ về con hạc vàng được thi sĩ Vũ Hoàng Chương phóng bút thành Vàng tung cánh hạc đi đi mất. Trắng một màu mây vạn vạn đời. Tuy nhiên, bài thơ lưu danh muôn thuở không phải chỉ do phong cảnh mà vì nó nói lên nỗi lòng của người ly hương, cho dù có đứng trước rừng cây đẹp hay bãi cỏ xanh của xứ người thì nhìn khói chiều trên sông nước lòng vẫn bâng khuâng nhớ về quê cũ.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai (Tản Đà)
Ngoài bài thơ Tống Biệt, Tản Đà cũng nhắc đến hạc trong một bài thơ khác:
Trông khắp trần gian hết thú chơi
Thèm trông con hạc nó lên trời.
Hạc kia bay bổng tuyệt vời
Hỏi thăm cung Nguyệt cho người trọ không?
Câu chuyện hoàng hạc múa hát làm vui tửu khách khiến tôi nghĩ rằng tiếng hót của con hạc phải hay. Nhà thơ Nguyễn Du so sánh tiếng đàn của Kiều với tiếng hạc qua mấy câu thơ.
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.

Cổ tích của Ai Cập và La Mã đều có nói đến tiếng kêu của loài hạc. Dù hạc và tiếng kêu của hạc là điềm lành, biểu tượng của sự tái sinh, nhưng các nhà viết cổ tích Ai Cập và La Mã đều nói rằng tiếng kêu của hạc nghe chát chúa và áo não. Bạn có bao giờ được nghe tiếng hạc? Việt Nam có một tuồng cải lương có tựa Tiếng Hạc Trong Trăng nói về tình yêu của một cô gái mù. Trang phục của diễn viên trong vở tuồng này thấp thoáng nét của trang phục Nhật Bản. Tên vở tuồng cải lương và câu thơ của Nguyễn Du khiến tôi tưởng tượng tiếng hạc nghe chắc phải hay, thơ mộng, và lãng mạn. Chắc chắn phải ngược lại với miêu tả của các nhà văn cổ tích Ai Cập và La Mã.
Biết hạc màu trắng, giọng hạc trong, nhưng hạc có phải là loài chim có thật? Nó ra làm sao? Mấy mươi năm trong đời, tôi chỉ biết vài loại chim như chim sẻ, con cò, và một vài loại chim khác qua mấy câu ca dao:
Cái cò, cái vạc, cái nông.
Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò.
Nghe câu hát vai em gầy guộc nhỏ, như cánh vạc về chốn xa xôi, tôi cho rằng con vạc cũng là con hạc. Hai câu ca dao nói trên khiến tôi đoán rằng con hạc có thể là loài chim có thật, và loài chim này sống ở nông thôn như con cò chứ không phải ở Thiên Thai. Nhà thơ Nguyễn Trãi có bài thơ:
Cò nằm hạc lặn nên bầy bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con
Mãi đến năm 2012 khi hiking trong rừng thường xuyên, tôi mới biết hạc là loài chim có thật. Hạc thường tìm thức ăn ở đầm lầy, bờ sông, những nơi nước không sâu lắm. Nó không bay lên đáp xuống thoăn thoắt như các loại chim nhỏ, chỉ đủng đỉnh từng bước một và có thể đứng ở một chỗ rất lâu. Hạc thường đi kiếm ăn một mình và ở nó luôn toát ra một vẻ cô độc. Nhà thơ Nhật Bản Shiki bắt được nét cô độc của hạc trong bài haiku, bản tiếng Anh của R. H. Blyth.
Rose-mallows are blooming;
The widowed heron
Of the old pond.
Shiki
Dâm bụt nở rộ
Con hạc góa bụa
Bên hồ cũ xưa
(NTHH dịch)
Khi lớp lông mềm bên trong bị ướt, hạc giang cánh ra thật rộng để phơi, nhưng đôi ba lần tôi thấy con hạc xám lật ngửa hai cánh ra trước ngực như một người áo lam đứng vòng tay ngang rốn, tôi tưởng lầm nó bị gãy cánh. Tìm trên mạng biết nó lật ngửa cánh phơi cho khô, ngực tôi đỡ thắc thỏm. Chim hạc phơi cánh thì thấy rồi còn con hạc khép cánh tà của Phạm Thiên Thư ra làm sao?
Hạc xưa về khép cánh tà
Tiếng rơi thành hạt mưa sa tần ngần.
Không biết. Nhưng câu thơ bổng trầm gợi trong tôi một vẻ đẹp chỉ có trong thi ca. Tiếng hạc đọng lại thành những giọt mưa và rơi xuống. Nhẹ nhàng. Trầm ngâm. Câu thơ khiến tôi, một người không biết làm thơ, suy nghĩ. Thơ là như vậy. Những con chữ được ghép lại một cách vần điệu, âm thanh trầm bổng, chứa đựng một hình ảnh đẹp của thiên nhiên, của kiều nữ. Người đọc không cần hiểu hết nghĩa của từng chữ từng câu. Chỉ cần cảm nhận được, dù một cách mơ hồ, cái đẹp của bài thơ.

Hạc tiếng Anh là crane thuộc nhóm Gruidae, người miền Bắc gọi là con sếu. Vạc tiếng Anh là heron thuộc nhóm Ardeidae còn được gọi là con diệc. Ardea Cinerea con chim màu xám tro xuất hiện ở cổ thành Ardae đổ nát của La Mã là con heron. Bạn hãy để ý cái nguồn gốc Ardea. Trước kia các nhà điểu học đã xếp vạc và hạc vào nhóm Ardeidae. Cò thuộc về nhóm Ciconiidae. Hạc, vạc, và cò có nét giống nhau ở chỗ cổ cong và cẳng cao. Hạc, vạc, và cò (stork) đều là loại chim to.
Người ta tôn kính hạc có thể tại vì vóc dáng to lớn của hạc. Người xưa hay thờ những con vật có thể làm người ta sợ hãi. Khi Huy Cận viết Lòng anh mở với quạt này, trăm con chim mộng về bay đầu giường, tôi chắc chắn trăm con chim mộng này không phải là chim hạc. Nếu là hạc thì người ta phải dời cái giường ra giữa đồng mới đủ chỗ cho trăm con. Và người em nào đó nằm trên giường chắc là sợ mất vía với trăm con hạc đập cánh phần phật.
Ở đường trail Delaware và Raritan, dọc theo sông Millstone và Raritan, có loại vạc xám người Mỹ gọi là great blue heron để phân biệt với heron có hình dáng nhỏ hơn. Rất có thể Ardea Cinerea, trong huyền thoại La Mã, là great blue heron. Người Mỹ dùng chữ blue để miêu tả loạt màu từ xanh đậm cho tới xanh nhạt cho tới xám nhạt. Vạc trắng egret hơi nhỏ hơn loài vạc xám. Hạc và rùa thường đậu và nằm trên những gốc cây dọc bờ sông. Điêu khắc gia Việt Nam có lẽ đã mang hình ảnh này vào chùa và đền thờ qua những bức tượng.

Con hạc trắng (sếu) mãi đến bây giờ tôi cũng chỉ nhìn thấy qua phim ảnh. Ở Hokkaido có loại sếu trắng đầu đỏ nổi tiếng bay múa rất đẹp trong mùa gọi tình. Tôi chỉ được thấy tận mắt loại hạc – sandhill crane, màu xám nhạt nhỏ hơn con vạc xám – great blue heron cỡ một chín một mười, và trên má có màu đỏ. Mùa Đông, loại hạc này thiên di ngang New Jersey. Tôi gặp một đàn mười con đậu trên đồng cỏ khô.
Tôi cũng nhận ra một điều; tiếng hạc không hay, không êm ái du dương, như tôi tưởng tượng. Thỉnh thoảng tôi vô tình đến gần chỗ hạc đang đứng, khiến nó hoảng sợ vụt bay, để rơi lại trong thinh không một chuỗi âm thanh arck… arck… arck nghe chát chúa. Nguyễn Du bảo là trong, có lẽ là trong trẻo hay trong vắt, nhưng trong trẻo đâu có nghĩa là thanh tao dịu dàng. Bảo đảm, trong đêm, dù bạn đang ngủ nằm mơ cũng có thể bị tiếng hạc đánh thức nhưng không phải tiếng chim như trong mấy câu thơ của Phạm Thiên Thư.
Đôi uyên ương trắng bay rồi
Tiếng kêu tha thiết bên trời chớm đông.
Kể ra cũng khó phân biệt con vạc và con hạc. Có người quan sát bảo rằng con vạc khi bay rụt cổ lại, còn hạc thì giương cổ ra. Tôi đã nhầm lẫn vạc với hạc. Lần đầu tiên khi gặp great blue heron, tôi đã gọi nó là con hạc xám thay vì vạc xám. Bài văn này không là bài nghiên cứu khoa học về chim, nên sự phân loại chính xác giữa vạc và hạc, tôi mong là có thể bỏ qua. Con hạc trong bài này là con vạc – heron chứ không phải là con sếu – crane. Mong độc giả tha lỗi.
Nguyễn Thị Hải Hà
Những Anh Hùng Vô Danh Đồn Dak Seang—Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Với lối viết dí dỏm, ngôn từ bình dân, hành văn mạch lạc, bố cục hấp dẫn, Lê Xuân Nhị cho ta sống lại những giây phút hào hùng của người chiến sĩ QLVNCH…
“Thành kính tưởng niệm các chiến sĩ Địa Phương Quân anh dũng đồn Dak Seang”

“Đường ra trận mùa này đẹp lắm,” Đại úy Ngọc thòng một câu đùa trong chiếc Phi Cơ L19 ở cao độ 8 ngàn bộ, hôm chúng tôi cất cánh từ Nha Trang đi Kontum với hành trang cho 15 ngày biệt phái. Đồng ý đó là một câu đùa, nhưng tôi không cười được chút nào cả vì lòng tôi đang héo hon như cái vỏ xe bị xì lốp.
Đang vui vẻ với đám bạn bè từ Ban-Mê-Thuột về Nha Trang nghỉ mát, ngày nào cũng sáng tiểu yến với cà phê, phở, thuốc lá 3 số 5. Chiều đại yến với la de, nem nướng, sò huyết mà phải khăn gói quả mướp ra đi như thế này thì thật là đau khổ vô cùng, lại mới bị Thủy giận, tôi chưa có dịp làm hòa. Tính vốn lo xa, tôi đâm ra hãi. Đi biền biệt 15 ngày mà không từ giã em được, em tưởng mình… rớt máy bay chết rồi bèn đi cặp thằng khác thì hết một đời trai. Cứ tưởng tượng cái cảnh Thủy cặp tay một thằng chết tiệt nào đó đi coi hát bóng, đi nhảy đầm vung vít là tôi cảm thấy… hết muốn bay bổng. Đời phi công sao khổ thế nầy, tôi than thở. Có lẽ thấy được những cái vẻ đau khổ khó chịu trên khuôn mặt thằng Thiếu úy trẻ, anh Ngọc cười.
Nhìn thấy cái bản mặt táo bón của chú mầy tao nhớ đến cái thuở huy hoàng của những ngày… chưa lấy vợ.
Tôi phản đối “ở Phi Đoàn 114 mà không biết phản đối thì chẳng bao giờ lớn được.” Chưa lấy vợ thì khổ bỏ xừ đi chứ huy hoàng gì anh? Bị đào hành lên hành xuống, quay vòng vòng như con mắm có gì mà huy hoàng.
Lại còn phải đi biệt phái lâu ngày như thế này, xác thân ở nơi tiền tuyến không sợ mất mà chỉ sợ… mất đào ở nhà.
Đại úy Ngọc bật cười lên khoái chí.
Hậu sinh… chẳng biết mẹ gì cả. Mày lấy vợ đi rồi mới thấy cái giá trị của những ngày biệt phái. Này nhé, ở nhà với vợ, có thằng chó nào dám ti teo, đi phải thưa về phải trình, tiền bạc phải “báo cáo”đầy đủ.
Ấy là chưa nói đến chuyện ở gần mặt trời thì phải sống có qui củ, có nề nếp, gặp xếp từ xa là phải cung tay chào rôm rốp. Thằng nào cũng muốn kiếm thêm tí điểm thì phải biết điếu đóm, v…v… Đi biệt phái, nói một cách văn chương, đó là “những ngày nghỉ mát” vì thứ nhất mình thoát khỏi vòng cương tỏa… bà tư lệnh, muốn làm gì thì làm, gặp bất kỳ cô thôn nữ yêu kiều nào cũng có quyền đấu tưới hột sen, muốn khoe mình chưa vợ hay vợ… mới chết thì đó là quyền của mình. Các cô thôn nữ vốn dễ dãi và cả tin, chẳng ai thèm kiểm chứng hay thắc mắc lôi thôi. Thứ hai, đi biệt phái, cuộc sống không gò bó như ở phi đoàn. Mình tự chỉ huy lấy, đời sống thoải mái hơn, chỉ làm sao đừng bê trễ công việc, thứ ba, làm việc trực tiếp với bộ binh có nhiều cái thú.
Mười tám tuổi bỏ nhà đăng lính đâu phải để suốt ngày dòm ba cái đồng hồ phi cơ rồi cứ hết cất cánh rồi hạ cánh. Phải có “Action” phải có đánh bomb, có ăn pháo kích, v…v…
Nghe anh Ngọc thuyết một lúc là tôi đã thấy xiêu lòng. Mẹ, tôi đâu biết là lấy vợ sẽ khổ như thế này. Sống bị kềm kẹp vậy chả trách gì ông nào cũng có vẻ chán đời. Anh Ngọc cảm thấy hình như tôi đã thấm ý, nên kết luận.
– Đó là những cái khác nhau giữa hai thế hệ, Thế hệ chưa vợ và thế hệ có vợ. Bây giờ nhìn lại mấy chú, anh thấy tiếc hùi hụi.
Rồi hứng tình, anh chơi thêm hai câu thơ, giọng vịt cồ nghe không có tính chất… văn học chút nào hết.
Tình chỉ đẹp khi còn dang dở,
Đời hết vui khi đã vẹn câu thề.
Sau hai câu thơ là một chuỗi cười hì hì nghe rất ngứa lỗ tai. Men rượu của buổi tiệc giã từ tối hôm qua còn ngây ngất trong máu tôi, làm đầu óc cứ dật dờ. Tôi tắt radio, bảo anh Ngọc:
– Anh bay hộ, em buồn ngủ quá.
Anh Ngọc dễ dãi:
– Ngủ đi, tao bay cho. Ráng ngủ lấy sức, xuống đến Kontum chuyến này có nhiều chuyện lắm.
Tôi kéo tuột ghế ra sau, nhắm mắt làm một giấc ngon lành…
Biệt đội Kontum lần ấy, các phi hành đoàn ở trong cư xá vãng lai Sĩ Quan của Tiểu Khu. Cả thành phố Kon-tum như một trại lính khổng lồ, đi đâu cũng chỉ gặp toàn lính là lính. Từ lính không quân đến lính Bộ Binh, lính Nhảy Dù, lính Lôi Hổ, lính Biệt Động Quân, lính Biệt Kích… Ai nấy võ khí trang bị tới răng, trông phát khiếp. Lâu lâu, phải chịu khó tìm tòi và chờ đúng giờ tan học mới nhìn thấy được vài tà áo dài phất phơ của các em nữ sinh. Những tà áo dài bé nhỏ xinh xinh coi có vẻ vừa lạc lõng vừa hiền lành làm sao trong cái thế giới đầy dẫy súng đạn của thành phố địa đầu này. Cũng như một con én không làm được mùa xuân, một chiếc áo dài tha thướt cũng không làm mất đi được cái vẻ chinh chiến của quê hương khốn khổ.
Đứng nhìn ngắm những tà áo này, tôi thấy nhớ Thủy chi lạ, buổi chiều cơm nước xong về khu tạm trú thắp đèn cầy đánh bài cho hết giờ.
Buổi tối, cái khổ nhất của chúng tôi là hai cây cà nông 175 ly to tổ bố của thiết đoàn 14 Kỵ Binh đặt cách dẫy nhà chúng tôi ở chừng 500 thước. Hai cây súng mắc dịch này, ban đêm, giữa lúc mọi người đang ngủ say, cứ thỉnh thoảng nổ một vài phát bắn quấy rối rồi nằm im. Đang mơ màng giấc điệp, tiếng súng đại bác ở sát bên bắn một phát làm chúng tôi nẩy tung muốn văng ra khỏi giường:
– ” Đêm hôm khuya khoắc, bắn con C…gì mà bắn độc thế? Sao không về nhà mà bắn… bà xã cho được việc”, một giọng càu nhàu cất lên.
Lại có giọng khác hăm dọa ngày mai tao phải “phản đấu” mới được. Đó là tiếng nói của Đại úy Bá, trưởng biệt đội. Ông đại úy này người dân xứ Quảng, lâu lâu phải để cho ông ấy “phản đấu” ai một lần thì ông ăn cơm mới ngon.
Mất cả tiếng sau mới dỗ được giấc ngủ. Nhiều khi vừa mới chợp mắt thì lại “ầm” một tiếng như trời long đất lở tiếp theo, lỗ tai như bi ai tống vào một cây đinh. Đến lúc này thì đại úy Bá không nhịn được nữa, chửi thề um sùm “Đ..” mọa nó, bén chi mà bén miết…”
Thế là hết mẹ nó một tiếng đồng hồ nữa rồi… Tôi không hiểu các anh em bộ binh làm sao mà sống được như vậy không phải chỉ trong 15 ngày biệt phái như tôi mà tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Phải đi biệt phái những nơi như vầy mới hiểu được và thương các anh em bộ binh. Người lính bộ binh Việt Nam khổ qúa. Khổ đến độ sự khác biệt giữa sự sống và cái chết hầu như không có ranh giới. Cuộc đời là địa ngục thì chết chắc cũng chẳng có ai sợ. Và có lẽ, chết sẽ là một giải thoát. Tôi đã tận mắt nhìn thấy nhiều người sống suốt mấy tháng trong giao thông hào nước ngập tới háng. Đó là nơi mà anh em vừa ăn, ở, ngủ v.v… Các anh cũng là người với những cảm giác bình thường, biết lạnh, biết nóng, biết thèm ăn ngon, biết sợ đau khổ, sợ chết. Mãnh lực nào, sức lôi cuốn nào đã khiến anh em từ bỏ gia đình ôm cây M16 để trở thành người lính bộ binh. Trở thành người lính bộ binh để “chết thay dùm dân tộc” để chấp nhận mọi đắng cay, mọi hiểm nguy, Chắc chắn không phải để lãnh số lương mười mấy ngàn, chỉ đủ mua bao gạo. Cũng không phải vì sợ cảnh sát bắt đi quân dịch ở đầu ngõ. Cũng càng không phải vì mủi lòng bởi vài cái bích chương kêu gọi rẻ tiền của chính phủ dán trong thành phố, hay vì câu hát của Hùng Cường, Mai Lệ Huyền. Tôi nghĩ, anh em đã ra đi chỉ vì lòng yêu nước. Vì, anh em nghĩ rằng cầm súng chiến đấu là bổn phận của những người trai thời ly loạn. Chỉ biết rằng đi để thể hiện chữ “Yêu.” Yêu Quê Hương yêu Tổ Quốc, không cần tính toán, không đo lường giá cả.
Chỉ vài ngày đi bay mà anh em ai cũng bị hốc hác thấy rõ. Đêm mất ngủ, lên trời gió mát, chỉ muốn nhắm mắt. Cùng tắc biến, biến tất thông, mấy hôm sau chúng tôi biết cách trị… Pháo Binh. Trước khi leo lên giường ngủ, chúng tôi lấy bông gòn nhét kín hai lỗ tai. Thế là mấy chú thiết giáp cứ mặc sức mà bắn.
Có thằng… Thiếu úy tên On nằm gần giường tôi, mới được cho đi hành quân lần đầu nên lẩm cẩm không chịu được. Tên nghe đã lẩm cẩm mà người lại còn lẩm cẩm hơn. Đang đêm, tôi thấy nó thỉnh thoảng ngồi dậy, móc bông gòn ra khỏi hai lỗ tai, nghe ngóng một chút rồi lại nhét vào, nằm xuống. Mặt mày nó làm ra vẻ quan trọng lắm. Trằn trọc không ngủ được, tôi thắc mắc:
– Mày làm cái trò khỉ gì đó ông Thiếu úy On?
Nó đáp tỉnh queo :
– Tao phải thức dậy để nghe ngóng xem có pháo kích không.
Tôi suýt bật cười. Đúng là thằng lẩm cẩm, nó làm như Việt Cộng chờ nó tháo bông gòn ra khỏi hai lỗ tai rồi mới thèm pháo. Tôi phịa một câu :
– Tao có ý kiến này hay hơn. Mày chỉ cần rút bông gòn ra khỏi một lỗ tai thôi. Một tai bịt kín để khỏi nghe pháo binh mình, tai kia bỏ trống để nghe VC pháo kích.
Một thoáng êm lặng, rồi như biết được câu móc lò của tôi, thằng On chửi thề:
– ĐM… thằng mất dạy. Mày mà đòi móc lò tao sao được. Tao đâu có ngu.
Thấm thoát mà 15 ngày biệt phái của tôi trôi qua mau. Con người quả thật là dễ thích ứng với hoàn cảnh mới. Tôi chỉ còn nhớ Thủy… sơ sơ thôi chứ không còn “nồng nàn da diết” như những ngày mới đến đây nữa.
Cuộc đời biệt phái cũng có nhiều niềm vui khác như đi uống cà phê đêm, nhậu nhẹt, gặp lại bạn bè cũ, kết bạn bè mới. Với lại, chúng tôi vừa khám phá ra một quán cà phê mới khai trương. Cô Cashier coi xinh không chịu được. Thế là chiều chiều cơm nước xong, chúng tôi bảy tám người chất nhau lên chiếc xe Jeep ra quán cà phê ngồi… lì đến tới tối.
Giữa khu rừng núi hoang dại này, dể gì kiếm được một cành hoa. Tôi để ý thấy Thiếu úy On yêu đời ra mặt. Không hiểu nó tính dợt le với ai mà đi biệt phái ở nơi rừng sâu núi thẩm này cũng mang theo được mấy cái khăn quàng cổ đủ các màu. Đi uống cà phê những lần sau này nó nhất định phải đóng thêm cái khăn quàng cổ màu tím vào cho ra cái điều như là… màu tím hoa sim, coi chán đời không chịu được. Vào quán cà phê, Thiếu úy On ăn nói chững chạc đàng hoàng, không láu cá nham nhở như tôi… Có mấy lần tôi tính thò tay ra sờ mông em thì bị nó gạt phắt đi, điệu hung hãn làm như nó… chưa sờ đít ai bao giờ. Nó muốn mang khăn quàng màu gì hay tán tỉnh gì thì kệ nó, tôi không để ý tới. Cái làm tôi thích thú nhất là mỗi lần ra về, cu cậu nhất định dành trả tiền cho kỳ được. Dĩ nhiên, tôi không bao giờ phản đối cái mục này. Tôi biết thằng khỉ này nó có bao giờ trả tiền cà phê cho ai đâu. Hóa ra là con người khi yêu ai cũng trở thành dễ thương hết. Chả trách gì nhà văn Shakespeare đã phán một câu “everybody oves the lover”. Cả thế giới đều yêu một kẻ si tình. Đúng thật. Tôi ước giá phi đoàn có chừng chục thằng như Thiếu úy On thì tôi khỏi sợ tốn tiền cà phê thuốc lá. Được trớn, tôi xúi dại nó, bảo hay là mầy xin ở lại Kontom luôn cho anh em nhờ. Nhưng nó quắc mắt lên, cười khỉnh ” Vừa phải thôi… tám. Tao tuy ngu nhưng đâu có ngu hơn mày”.
Lần biệt phái này, trái với lời anh Ngọc tiên đoán, sư đoàn 23 BB không có đụng trận nào ra hồn cả. Thỉnh thoảng một bọn ” giặc cỏ” đến quấy rối rồi lặn mau như chuột. Dường như cả hai bên đang nghỉ ngơi dưỡng sức. Dưới đất mà không thèm đánh nhau thì trên trời biết ăn thua với ai. Những phi vụ air cover nhàn rỗi, tôi hỏi đại úy Ngọc đi “duy trì khả năng” bắn rocket. “Duy trì khả năng” là một danh từ không quân dành cho những anh chàng phi công văn phòng, sợ lâu quá không bay thì lúc leo lên tàu, thì quên béng nó mất cái cần lái nằm chỗ nào nên phải bay “duy trì khả năng” cho khỏi quên.
Tôi thì khoái tập bắn rocket sao cho nó đẹp như ‘Dăng gô” bắn súng. Chỉ đâu bắn trúng đó. Cái kiểu bắn rocket của tôi phi đoàn ai cũng chán vì lối bắn mất dạy. Bay trên mục tiêu, Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào nhiều khi gần như cắm đầu thẳng xuống. Cứ thế mà bóp cò. Bắn thì dể nhưng khi kéo tàu lên mới là cực hình. “G” đâu mà lắm thế , mặt mũi cứ dài ra cả thước, nhưng đại úy Ngọc chịu chơi, lần nào cũng cho tôi bắn. Nhiều khi anh còn nhìn “tác phẩm” của tôi phê bình “Số mày sinh ra để bay khu trục mà bị trời bắt lái … L19. Đúng là con nhà vô phúc”.

Ngày cuối cùng của cuộc biệt phái, chúng tôi cất cánh phi vụ thứ hai vào khoảng 3 giờ chiều. Lên trời, làm vài vòng, tôi hỏi đại úy Ngọc :
– Hay mình làm vài vòng, nếu không có gì thì đi kiếm cái chòi thượng nào đó “duy trì khả năng” rồi về đáp. Mai đổi biệt đội khác rồi.
Đại úy Ngọc tự nhiên phản đối:
– Thôi cứ để đó, mày bay dọc lên Dak Pek đi. Tao đi quan sát lần chót để bàn giao vùng trách nhiệm cho phi hành đoàn mới.
Có cái gì thắc trong đầu anh mà tôi không nghĩ ra. Lát sau anh nói:
– Mày để ý thấy chiến trường lần này, đặc biệt là cách mấy ngày hôm nay yên lặng một cách quá đáng không?
Tôi chả biết gì, trả lời:
– Yên thì có yên đó, nhưng mà có gì không anh?
– Thường thường mà yên quá như thế này là thế nào cũng có đánh lớn.
Tôi nói xuôi:
– Mai mình về rồi, nhằm nhò gì.
Khoảng 5 giờ chiều tôi đang lơ lửng gần một cái đồn nhỏ gọi là đồn Dakseang, phía Nam của Dakto. Đại úy Ngọc chợt giật cần lái, quẹo một vòng.
– Để tao coi. Đ.M. hình như đồn này đang bị pháo kích.
Chỉ một thoáng sau anh la lên:
– Đ.M. đúng rồi. Đ.M. nó đang pháo vô đồn.
Anh Ngọc gọi máy về Trung Tâm Hành Quân, báo cáo những gì mình thấy và xin tần số liên lạc ngay. Chỉ trong vài phút, Trung Tâm Hành Quân xác nhận với chúng tôi là đồn bị pháo kích, và có nhiều dấu hiệu cho thấy đồn sẽ bị tấn công. Chúng tôi được chỉ thị ở lại làm việc với đồn. Bắt được liên lạc, trao đổi danh hiệu xong là chúng tôi giảm cao độ. Vừa tà tà bay vô thì bổng hàng chục cây phòng không nhắm vào chúng tôi nổ tới tấp. Chắc chắn phải có vài viên trúng tàu vì tôi nghe lên vài tiếng bụp bụp. Tôi càu nhàu: ” 15 ngày biệt phái không sao, ngày cuối cùng mà lãnh một viên vào… đít là xui quảy…” vô không nổi, tôi quẹo ra. Đại úy Ngọc phê bình:
– Trên trời mà phòng không “kèm cứng một rừng” như vậy là dưới đất nó đã chuẩn bị trận địa pháo rồi. Lạng quạng thì đồn này chắc mất tối nay.
Anh giở tấm bản đồ, ba cái FM trên phi cơ được sử dụng liên tục. Cái gọi pháo binh, cái trực với đồn Dakseang, cái nói thẳng với Bộ Tư Lệnh chiến trường. Cường độ pháo kích càng ngày càng trở nên khốc liệt, Tôi lên cao chút xíu rồi rình rình lại chui vào từ một hướng khác. Bố khỉ, tôi lúc ấy mới khám phá ra là khu vực làm việc bị mây “broken” từng cụm nhỏ bao phủ khoảng từ 5 đến gần 8 ngàn bộ trên trời. Đang quan sát, tàu chui vào mây là coi như mù. Ra khỏi mây thì phải mất một lúc mới trở lại được chổ quan sát cũ. Đại úy Ngọc chửi thề:
– “Đ.M. mây mà cũng bị VC dụ dỗ đâm sau lưng chiến sĩ. Trời đất bao la sao không kiếm chỗ bay mà cứ lẩn quẩn làm con C.. ở đây.”
Tôi đã cắt ga xuống dưới trần mây mấy lần nhưng vừa xuất hiện là bị hàng chục họng phòng không thổi rào rào vô mặt, đuổi trở lên “súng đâu mà chúng nó lắm thế” Tôi đành vật lộn với mấy cụm mây…VC này.
Bi thảm hơn, giặc bắt đầu nả 130 ly vào đồn. Hai cây đại pháo, một cây đặt ở ven làng cách đó chừng 15 cây số, cây kia ở hướng đối diện cứ tà tà nã từng trái một vào đồn. Từ trên, tôi nhìn thấy rõ ràng những quả đạn rơi rất chính xác vào trong đồn. Cứ mỗi quả đại bác rơi xuống là có chừng mười mấy trái súng cối nổ kèm theo “phụ diễn”. Tôi và anh Ngọc lồng lộn trên tàu bay. Máy vô tuyến gọi đến gần rát cả họng, nhưng bất ngờ quá, chả thấy phi tuần xuất hiện, anh Ngọc gọi pháo từ căn cứ pháo binh gần đó nhất để yểm trợ. Vừa nhận được tọa độ, đã nghe ở dưới đất kêu trời:
– Vô ích bạn ơi. Xa quá, bắn tới… Tết cũng huề.
– Thì bạn quay nòng xuống thổi đại cho một chục tràng đi, bắn dọa nó cũng được.
– Xong rồi, để tôi cho yếu tố tác xạ
– Yếu tố mẹ gì, bắn đi bạn…
Khoảng 5 giờ rưỡi chiều, người chỉ huy đồn Dakseang có vẻ bối rối:
– Bạch Ưng, đây Thanh Trị.
– Nghe 5 bạn
– Báo cho bạn biết đến giờ phút này con cái tôi đếm được là 500 trái rồi đó bạn. Hầm hố tôi 50% thiệt hại.
Tôi muốn nhảy nhổm trong tàu bay. 500 trái vừa cối vừa pháo xuống một diện tích tí teo như thế kia thì còn hầm còn hố nào. Anh Ngọc bổng nẩy ra một kế…chết người.
– Nếu để nó pháo điệu này thì chừng tí nữa quân mình chẳng còn gì hết. Mình phải “chiến tranh chính trị” mới được.
– Có học trường chiến tranh chính trị ngày nào đâu mà đòi…chiến tranh chính trị anh?
Người phi công chiến tranh chính trị bất đắc dĩ lên mặt dạy dỗ.
– Từ từ để tao cắt nghĩa. Chiến tranh chính trị nghĩa là…có là không, không là có. Bây giờ chưa có phi tuần thì mình phải làm như có phi tuần. Mình phải xuống ngay trên đầu mấy cây pháo làm bộ như phi tuần sắp tới thì pháo nó mới câm được.
– Xong rồi.
Mặc dù vẫn còn ngán mấy chục họng phòng không nhưng trong hoàn cảnh này, đạn tránh người chứ người làm sao tránh đạn? Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào, cứ nhắm họng đại bác bay tới. Đạn nổ tùm lum chung quanh tàu. Anh Ngọc trấn an tôi:
– Mầy đừng lo, tao có bùa nanh heo rừng. Đạn nó né tao.
Nghe sao mà chán đời, Tàu bay chỉ có 2 người, đạn nó bay vào đây mà né anh Ngọc thì nhất định nó phải kiếm người khác để chui vào. Người đó còn ai khác hơn tôi.
Bỗng nhớ ra điều gì, anh sờ tay vô ngực quờ quạng rồi rú lên:
– Bỏ mẹ rồi, nanh heo rừng đíu có đem theo. Đ.M. hôm qua đi tắm treo nó chỗ phuy nước quên đeo vô rồi.
Nhưng anh nói ngay:
– Nhưng tử vi nói tạo sống thọ lắm, yên chí lớn đi thằng em.
Tôi nghiệm ra rằng con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm đều kiếm ra một lý do gì đó để tự tin và hy vọng. Càng đi xa đồn thì phòng không càng bớt dần. Thấp thoáng con gà cồ của giặc đã nằm ngay dưới cánh, chúng tôi xuống thấp thêm tí nữa, lượn vòng chung quanh cây pháo. Đúng y như anh Ngọc đoán, pháo im bặt. Rồi như một cơn mưa rào đổ xuống mùa hạn hán, một hợp đoàn Cobra của Tây xuất hiện. Đại úy Ngọc qua được tần số của Tây xí xa xí xồ một chập, tôi nghe được mấy tiếng “everywhere”. Vừa vào vùng là mấy anh Cobra làm ăn liền. Tôi ngạc nhiên thấy họ thay phiên nhau bắn rào rào chung quanh đồn. Như vậy con cháu họ Hồ đang “tùng thiết” đi vô chăng? Dĩ nhiên phòng không giặc bây giờ đổi mục tiêu, nhắm mấy anh Cobra nhả đạn. Trận thư hùng coi rất đẹp mắt nhưng ngắn quá. Mấy ông Tây bắn chừng 5 phút là hết đạn, quay lui. Khốn nạn hơn cái món chiến tranh chính trị xem ra hết ép phe. Có lẽ giặc biết chúng tôi chỉ dọa giả nên cây pháo bắt đầu nổ trở lại. Đại úy Ngọc gầm lên:
– Đ.M. tụi mày, lát nữa khu trục lên tao cho nó…bỏ bomb thấy mẹ mày.
Tức quá mà không làm gì được thì…chửi cho đã tức. Chúng tôi chỉ có 4 quả Rocket khói, chẳng sơ múi gì được. Rồi Peacock gọi thông báo sẽ có phi tuần khu trục A-1 đang cất cánh khẩn cấp từ Pleiku lên làm việc với chúng tôi. Đại úy Ngọc hớn hở gọi máy:
– Thạnh Trị, đây Bạch Ưng
– Nghe 5 bạn, gần ngàn trái rồi. Tụi nó mới xung phong đợt đầu đó bạn.
– Có sao không bạn?
– Không, mấy thằng chuồn chuồn tới đúng lúc với lại con cái tôi đánh giặc còn “tới” lắm bạn ơi. Tụi nó rút hết rồi. Khoảng chùng 50 xác nằm dài dài. Mấy thằng Tây đánh đẹp lắm.
– Chúng tôi sẽ có 2 phi tuần lên liền bây giờ với bạn.
– Bạn ráng dùm, hầm hố gần nát hết rồi bạn.
– Tôi hiểu bạn.
Cây 130 ly quái ác vẫn đì đạch phọt ra từng cụm khói đen. Tôi bảo anh Ngọc.
– Anh để em lên làm đại một trái khói vô đó coi, may ra…
– Ờ, may ra…
Tôi làm vòng bắn, nghiêng cánh quẹo vào, nhắm và bóp cò. Oành cái Rocket nổ…gần cây đại pháo. L-19 mà bắn được vậy là nhất rồi, nhưng có chết thằng chó nào đâu? Không chết nhưng cây pháo lại im tiếng một lần nữa. Tốt! Tôi tính cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi nó một trái để mua thời gian chờ khu trục lên.
Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu trục A-1 nghe lên bên tai. Phải thú nhận, cái tiếng rè rè đực rựa lúc này nghe sao mà nó…đáng yêu thế. Đó là thứ tiếng nói của hy vọng, của niền tin, của sức mạnh, của tình chiến hữu. Anh Ngọc trao đổi vô tuyến với phi tuần khu trục rồi gọi máy cho quân bạn.
– Thạnh Trị, đây Bạch ưng
– Nghe bạn 5.
– Chim sắt của tôi lên rồi đó bạn. bạn muốn tôi đánh đâu?
– Bạn lo dùm mấy con gà cồ trước đi.
– OK! Roll

Phi tuần khu trục vừa xuất hiện thì cả bầu trời biến thành một biển lửa. Số lượng phòng không bây giờ không biết là bao nhiêu cây, nhưng dòm hướng nào cũng chỉ thấy lửa và lửa. Trời đã về chiều nên những viên đạn lửa bay vút lên cao càng được thấy rõ ràng hơn. Phi tuần đầu nhào lên nhào xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được cây pháo phòng không vì trời quá xấu. Những đám mây…phản quốc, khốn nạn vẫn chình ình khắp nơi. Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống, bay giữa những loạt đạn phòng không trùng điệp, để tới mục tiêu, bấm rơi bomb, rồi kéo lên. Còn 2 trái cuối cùng, người phi công A-1 “để” vào ngay trên ổ súng chính xác như để bi vào lỗ. Ầm một tiếng vang lên rồi tiếp theo là nhiều tiếng nổ phụ. Cha con nó đang đền tội. Xong một cây. Anh Ngọc hướng dẫn phi tuần thứ hai đang làm ăn thì tôi nghe tiếng gọi:
– Bạch ưng, đây Thạnh Trị
– Nghe 5 bạn
– Báo bạn biết, hầm chỉ huy tôi sập rồi. Tôi ra giao thông hào với mấy đứa con.
– Bạn nhớ giữ liên lạc với tôi.
– Bạn…
Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. “ra giao thông hào với mấy đứa con” vậy là bi đát lắm rồi. Anh Ngọc bảo tôi:
– Anh đang bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thẳng TTHQ xin gấp cho anh ít nhất là 2 phi tuần nữa, lên liền lập tức, nếu không kịp là tụi nó sẽ “over run” Dakseang trong vòng nửa tiếng đồng hồ.
Tôi đổi tần số FM, Anh Ngọc cẩn thận dặn dò thêm:
– Phải nhớ la ơi ới lên như là đang bị bóp…dái thì cha con nó mới chịu chạy dùm.
Tôi phì cười, ông đại úy nầy lúc nào cũng đùa được. Khỏi cần bị ai bóp dái tôi cũng la được vì hò hét và tả oán là sở trường của tôi. Tôi gọi máy và có kết qủa ngay. Anh Ngọc mừng rú lên khi được thông báo có một phi tuần F4 của Hải Quân Mỹ sẽ cất cánh ngay từ hàng không mẫu hạm vào làm việc. Giọng nói từ dưới đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:
– Bạch ưng, đây Thạnh trị
– Nghe bạn 5
– Bạn cho mấy con chim sắt đánh sát quanh đồn gấp đi bạn. Tụi nó đang “à lát xô” lên.
Anh Ngọc la ùm lên trong tần số khu trục. Hai chiếc khu trục A-1 còn mấy trái bomb bỏ dở cây, hối hả trở về đồn nhào xuống đánh sát chung quanh rào. Một ông la to khi kéo tàu lên.
– Tụi nó đông như kiến bạn ơi.
– Còn phải hỏi.
Khu trục đánh hết bomb nhưng vẫn bay trên mục tiêu để bắn hết những tràng cà nông 20 ly. Tình hình lúc này đã bi đát lắm rồi. Giặc xung phong lên ào ào. Thạnh trị thông báo là một góc phòng tuyến đã bị vỡ và con cái anh đang xáp lá cà với giặc. Tôi nghe Trung tâm hành quân “TTHQ” thêm ba căn cứ khác cũng bị tấn công một lúc. Anh Ngọc bảo tôi:
– Tao còn lạ gì cái trò này, tụi nó đánh nghi binh để dứt điểm Dakseang đó. Phải cẩn thận.
Trong vô tuyến, tiếng tàu bay gọi nhau tiếng trao đổi giữa trên trời và dưới đất nghe loạn cào cào.. Bởi trong những tiếng ồn ào đó, có tiếng gọi của mấy ông F 4 Hoa Kỳ. Mấy ông Tây trang bị vũ khí tận răng. Hai chiếc F4 mỗi chiếc mang 18 trái 500 pounds đang làm vòng chờ ở khoảng 20 ngàn bộ. Anh Ngọc chỉ “briefing” một tí, mấy ông “Roger” và “Sir” lia lịa nhào xuống làm ăn liền. Khu trục Việt Nam đánh đã đẹp, mấy ông Tây đánh cũng không thua ai. Từ khoảng 15 ngàn, mấy ông nhào xuống dưới trần mây, để những trái bomb thật chính xác. Phòng không bắn dữ dội nhưng xem ra không ăn thua gì với mấy chiếc F4 này. Đang đánh ngon lành thì tôi nghe tiếng gọi từ dưói đất:
– Bạch ưng, đây Thạnh trị
Giọng nói lúc này không có vẻ hốt hoảng mà bình tĩnh lạ thường.
Anh Ngọc bấm máy:
– Nghe bạn 5, cho biết tình hình đi bạn.
– Tôi yêu cầu Bạch ưng cho đánh ngay vào trong đồn.
Cả hai chúng tôi giật nẩy mình, chỉ hy vọng là mình nghe…lộn. Chúng tôi sững sờ không trả lời được. Người chỉ huy phía dưới đất xác nhận lại:
– Bạch ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi.
– Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn?
– Đúng 5. Hết hy vọng rồi bạn ơi. Cứ đánh vào đây để tụi nó chết chùm luôn với chúng tôi.
– Bạn suy nghĩ kỹ chưa?
– Giọng nói dưới đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẫn:
– Không còn lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm. Chúc bạn may mắn. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” mà bạn…
Đó là những tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dakseang “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ thị quân đoàn. Quân đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dakseang một lần nữa rồi cho biết kết qủa. Chúng tôi gọi muốn đứt hơi nhưng không còn liên lạc được với Thạnh Trị nữa. Báo cáo trở lại, quân đoàn quyết định: cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải… cẩn thận.
– “Cẩn thận con C… ông” anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề rồi gọi máy thông báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn. Người phi công hải quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối không kém:
– Roger! Sir, Did you say…right on it? Over
– Yes sir, it’s all over. I said you salvo right on it. Over.
– Roger, sir, I understood, sir, Over.

Chỉ có vậy thôi, đồn Dakseang biến thành một biển lửa sau hai đợt bomb salvo của mấy chiếc Phantom. Tôi đang chứng kiến một hình ảnh mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên được. Tôi biết nói gì lúc này đây cho những người chiến sĩ Địa Phương Quân QLVNCH? Tất cả những ngôn từ, những ý nghĩ đều trở thành vô nghĩa trước cảnh tượng bi thảm hào hùng này. Bay cách đó chừng 5 cây số với cao độ 5 ngàn bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần. Làm sao còn có ai sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này?. Những thịt, những xương, những máu của các anh hùng Dakseang đã tung bay khắp nơi rồi rơi xuống lẫn lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt đất. Cũng trên mặt đất nầy của quê hương, ở một nơi nào đó, những người vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến thuộc của các anh đâu biết người thân của mình vừa anh dũng đền nợ nước, vừa ” Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” như lời trăn trối cuối cùng của người đồn trưởng, vừa chết để cho cả dân tộc được sống, được hít thở không khí Tự Do dù chỉ trong một khoảnh khắc…
Ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ được chít vội vã lên đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ sở kia, những khuôn mặt bầu bĩnh vô tội của trẻ thơ. Nước mắt nào khóc cho hết nỗi bi thương của người vợ lính VNCH đây hỡi ông trời xanh thẩm? Hình ảnh nào có thể thay thế được hình ảnh ngọt ngào của Cha chúng nó, suốt khoản đời còn lại của những em bé hồn nhiên vô tội kia hỡi ông trời? Dân tộc tôi đã làm gì nên tội, “Tử biệt sinh ly” câu nói nghe được từ thuở học trò bầy giờ mới thấy trọn nghĩa ý đau thương.
Máu nào chảy mà ruột không mềm, mắt tôi bỗng chan hòa nước mắt. Tôi tống ga bay trở lại đồn. Qua màn lệ nhạt nhòa, tôi chẳng còn thấy gì, ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn. Những cụm mây oan khiên vừa rồi vẫn còn vần vũ như những chiếc khăn tang trắng lồng lộng bao phủ cả bầu trời. Mây ơi là mây, còn sống chẳng chịu giúp nhau, bây giờ người đã chết, đồn đã mất sao còn lảng vảng để khóc thương.

Trời chiều cao nguyên vốn đã thê lương cô quạnh lại càng trở nên tang tóc sầu thảm hơn. Hai chiếc Phantom Hoa kỳ ráp thành một hợp đoàn tác chiến bay những vòng tròn thấp chung quanh đám đất đá điêu tàn không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến sĩ gan dạ anh hùng của Địa Phương Quân QLVNCH. Dưới trời chiều nắng tắt, trông hợp đoàn Phantom như hai con chim hải âu ủ rủ lượn từng vòng quanh xác chết của đồng loại. Sau khi nhận kết oanh kích của anh Ngọc, giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:
– Sir, may I reach out across the fires and destructions of today to tell you this: Those people down there have fought like men and have gone in honor.
Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào:
– Yes sir, they have gone in honor. That was an Alamo by all means, sir. An ever greater Alamo than ours, Over.
Tôi thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má anh Ngọc.
– Roger! We have thousand of Alamo like that every day in our country.
– Roger, I believe that, sir, God bless you all. Over.
Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt rồi bốc lên cao, mất hút giữa bầu trời ảm đạm. Alamo, cái tên nghe đã đi vào huyền sử của dân tộc Hoa Kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng phải hảnh diện. Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ ngũ. Alamo, đúng ra là một ngôi nhà thờ “Y pha nho” mà hai ngàn chiến sĩ kỵ binh Hoa Kỳ đã tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ Tây Cơ cho đến giây phút cuối cùng. Không ai đầu hàng và tất cả đã bị tàn sát. Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả thế giới đều biết, đều mến phục. Đất nước tôi có bao nhiêu thành Alamo còn tàn khốc hơn, đẩm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao nhiêu năm chinh chiến.
Sáng hôm sau tôi và anh Ngọc bay thêm một phi vụ sớm trước khi bàn giao biệt đội. Tối đêm qua một trận mưa bomb của B52 đã cày nát khu tập trung quân giặc. Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở lại tần số cũ để gọi cho Thạnh trị. Nhưng chả còn Thạnh trị nào để trả lời cho Bạch ưng nữa. Đồn Dakseang chỉ còn là đống đất vụn điêu tàn. Gió thổi lên từng cơn cuốn theo những lớp bụi đỏ mù. Tôi nhìn xuống đó, tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều qua. Trong một quê hương khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như gió, như đám bụi mù kia. Mới nói nói cười cười mà giờ đây đã ngàn thu vĩnh biệt.
Bay thêm vài vòng quanh đồn để tưởng nhớ ngậm ngùi cho các anh rồi cũng đến lúc phải từ giã để ra đi. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Thôi thì xin thành kính nghiêm trang giơ tay chào vĩnh biệt các anh.
Những người lính Địa Phương Quân âm thầm của một tiền đồn xó núi. Địa Phương Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất, như bộ đồ xanh bạc màu của các anh. Địa Phương Quân, thứ lính…âm thầm nhất trong các thứ lính của quân lực; không màu mè, không áo rằn ri, không có những huyền thoại khủng khiếp, không “truyền thống, binh chủng” không có đến những khẩu hiệu nẩy lửa chết người. Nhưng Địa Phương Quân Pleiku chiều hôm qua đã bình tỉnh xin “cho nó nổ trên đầu tôi”. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi bạn ơi”. Xin vĩnh biệt và cảm tạ. Cảm tạ các anh đã đem cái qúi giá nhất của cuộc đời là mạng sống mình để đổi lấy cho quê hương dù đã rách nát tả tơi còn có được những ngày xanh hy vọng. Cho buổi hợp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa thớt vẫn còn được an bình. Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè những mái tôn cháy nắng còn rộn tiếng trẻ thơ cười. Cho mái chùa cong cong nơi sườn núi còn được ngân lên những hồi chuông tín mộ. Và cho những người ở lại như tôi đây biết rằng mình sống tức còn nợ phải trả…. Các anh chính là những người được mô tả trong một bài học thuộc lòng tôi thuộc làu làu lúc còn là một đứa bé:
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng
Đã xông vào khói lửa quyết liều thân
Để bảo vệ tự do cho tổ quốc
Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc
Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Những kẻ sống lòng son không biến chuyển
Tuy tên họ không ghi trong sử sách
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khẩn nguyền dâng lễ vật
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và linh hồn chung với tấm tình trung
Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.
Xin thành kính viết lại một phần bài thơ của Đằng Phương để tặng các anh.
Các anh chính là những “Anh Hùng Vô Danh”. Tổ Quốc Việt Nam, Dân Tộc Việt Nam ngàn đời sẽ còn ghi ơn các anh. Xin vĩnh biệt và cảm tạ.
Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Mùa Mưa Của Chúng Mình—Kim Loan
Về đây với những bước chân trìu mến,
Những bước chân êm trên phố phường quen,
Nếu mưa rơi sẽ mát lòng em…”
(Nhạc PD)
Tôi có nhiều kỷ niệm mưa với Quang.
Nhà tôi và nhà Quang sát vách nhau. Hai gia đình quen biết từ thuở mới di cư vào Nam, về ở xóm này, cùng làm ăn lập nghiệp, nhà tôi mở quán nước giải khát, nhà Quang bán bún riêu, thân nhau như người trong nhà.
Thời đó với chúng tôi, lũ trẻ con vùng ven đô, những cơn mưa mùa hè đồng nghĩa với những niềm vui, đơn sơ mà hạnh phúc. Cứ hễ trời gầm gừ, cả lũ lại réo nhau, chuẩn bị nhào ra ngoài khi những hạt mưa đầu tiên vừa chạm mặt đất. Quang luôn là người đầu tiên đến kéo tôi đi tắm mưa, có hôm tôi ngủ quên trên gác, Quang phải chạy lên đánh thức tôi dậy kẻo tôi lỡ cuộc vui!
Trước khi đi tắm mưa khắp xóm, hai đứa tôi có nhiệm vụ mang mấy cái thau ra hứng nước mưa trước hiên nhà, đổ đầy thùng phuy nước cho gia đình xài. Sau đó chúng tôi nhập bọn với mấy đứa khác, thỏa thích chơi dưới trời mưa, có khi chỉ là giành nhau đứng dưới một cái máng xối để cảm nhận những trận nước mát lạnh bao phủ toàn thân, hay nằm vẫy vùng dưới sàn xi măng bóng loáng của một sân nhà ai mà tưởng như đang bơi trong hồ nước thiên nhiên. Cho đến khi thấm lạnh mệt nhoài, chúng tôi mới chịu trở về, tắm rửa và trùm mền ấm áp chờ bữa cơm chiều. Hôm nào mưa to có sấm chớp, chúng tôi không được phép tắm mưa, tôi và Quang ngồi dưới mái hiên, buồn xo, nhìn bâng quơ nước mưa tuôn qua mái tôn xuống những thau chậu trước nhà. Rồi chúng tôi nghĩ ra trò chơi xếp những con thuyền giấy, thả xuống dòng nước đang cuồn cuộn chảy, thích thú reo hò xem thuyền của ai vững vàng hơn khi vượt qua sóng gió quanh co, và lúc nào cũng kết thúc bằng những trái bắp luộc nóng hổi mà má tôi hay má Quang mua được ngoài vườn hàng xóm.
Có một kỷ niệm với mưa mà sau này chúng tôi lớn lên, gặp nhau thường đem ra nhắc lại. Vào đầu hè năm ấy, chúng tôi vừa học xong lớp năm, cả nhóm được phép đi Sở Thú chơi. Đến chiều khi đón xe bus trở về thì bị lộn xe, đưa chúng tôi đến một vùng lạ hoắc, chúng tôi ngơ ngác hỏi bác tài xế:
– Ủa, phải ngã năm Gò Vấp không vậy bác?
– Gò Vấp gò té gì ở đây! Chỗ này là Lăng Ông.
Chúng tôi mếu máo vì không còn đồng xu dính túi, những đồng bạc cuối cùng đã được xài ở Sở Thú trước khi ra bến xe. Cả đám đứng giữa đường, chưa biết phải làm gì thì trời kéo mây đen thui và ngay sau đó là những hạt mưa nặng chịch đổ xuống ào ào, chúng tôi vội tấp vào quán sửa xe đạp vỉa hè, cùng trú mưa với những người khác. Dù muốn dù không, khi mưa nhẹ bớt, chúng tôi phải đi bộ về nhà, đi tới đâu hỏi đường tới đó chứ không còn cách nào khác. Trời sẩm tối thật mau, mưa nhẹ hạt dần, mấy đứa đội mưa rảo bước trên đường, run như cầy sấy, răng đánh vào nhau cồm cộp. Tôi bật khóc nức nở vì nhớ nhà, mấy đứa bạn xúm vào hỏi han, tôi càng khóc to hơn vì tủi thân, đến khi Quang dỗ dành thì tôi mới chịu hết khóc.
Quang cũng thường bênh vực che chở tôi trong các cuộc chơi trong xóm. Chơi trò bịt mắt bắt dê, tạt lon, nhảy dây, hễ tôi bị “đừ” lâu là Quang đòi tha cho tôi, Quang lớn tuổi hơn trong nhóm nên đứa nào cũng nghe lời, chơi lại từ đầu. Những buổi đi sinh hoạt đoàn đội, cắm trại hè, Quang luôn ở bên bảo vệ tôi khi cần thiết (kể cả những khi không cần thiết). Đôi lần, tôi ngắm Quang và ngây thơ thầm nghĩ: “Mai mốt lớn lên, nếu không ai chịu lấy mình, thì mình… cưới Quang cũng được chứ nhỉ!”
Lên cuối cấp hai, nhóm chúng tôi bắt đầu xa nhau. Một vài đứa nghỉ học lo mưu sinh giúp cha mẹ, tôi và Quang vẫn đi học nhưng khác trường. Gia đình tôi dọn vào căn nhà trong hẻm xóm trên, còn căn nhà mặt tiền kế bên nhà Quang chỉ để buôn bán. Vì thế, tôi ít có dịp về xóm cũ, những trò chơi tuổi thơ chỉ còn là kỷ niệm. Chúng tôi không còn gọi nhau mày tao, mà xưng tên. Thỉnh thoảng tôi có ghé qua quán nhà tôi buổi sáng để uống sữa đậu nành ăn gói xôi trước khi đi học, có gặp Quang hay bạn bè cũ, cũng chỉ kịp nhìn nhau cười, rồi thôi.
Một chiều chúa nhật, tôi rảnh rang đi tìm bạn xóm cũ, chẳng gặp đứa nào, nhưng may mắn còn có Quang đang ngồi trước cửa lặt rau muống phụ gia đình bán bún riêu. Tôi sà vào cùng nhặt rau, hai đứa hỏi thăm qua lại, nhắc vài chuyện “khi xưa ta bé” rồi bâng khuâng tiếc thời gian qua mau. Quang bỗng nhìn tôi, ánh mắt… dễ thương lạ lùng:
– Em thua anh hai tuổi, phải gọi bằng “anh” chứ!
Tôi mắc cỡ, không trả lời, nhưng cả buổi tối về nhà, lòng lâng lâng một cảm giác vui sướng nhẹ nhàng.
Lên cấp ba, chúng tôi càng xa nhau hơn. Tôi bận rộn với sách vở, môi trường mới, bạn bè mới, kỷ niệm với lũ bạn xóm cũ càng lùi dần vào dĩ vãng.
Khi tôi ra trường đi dạy, Quang đã học xong trường Cao Đẳng Kỹ Thuật, đi làm ở xưởng Don Bosco gần chợ Gò Vấp. Một ngày đầu năm học, mưa đang cuối mùa, trời bỗng nổi cơn mưa như thác đổ ngay giờ tan trường, tôi và một ít học sinh phải nán lại, co ro trong lớp chờ cơn mưa tạnh. Bỗng có đứa học trò chạy từ ngoài cửa vào, hớn hở la lớn:
– Cô ơi! Cô ơi! Có…Thầy tới đón cô nè!
Báo “tin vui” xong, nó nhe răng cười rồi biến mất ngoài hành lang. Tôi nhìn ra cửa lớp, thấp thoáng trong tranh sáng tranh tối của gió mưa và những loạt sấm chớp từng hồi, là dáng cao dong dỏng của Quang với chiếc áo mưa màu ghi dài, mái tóc ướt nước, nụ cười bừng sáng và đôi mắt trìu mến. Tôi vui đến ngỡ ngàng, nhưng vẫn không quên quay qua đám học trò nghịch ngợm đang xúm lại cười rúc rích, nghiêm giọng ra oai:
– Chú này là bạn hàng xóm thân thiết của cô, không phải… Thầy, nghe chưa!?
Tôi bước đến, hỏi Quang:
– Ngọn gió nào đưa anh đến đây vậy?
Quang cười, nụ cười vẫn hiền như thuở xưa:
– Anh đi làm về ngang trường, thấy mấy lớp học còn sáng đèn, nên ghé vào.
Tôi hỏi cắc cớ:
– Vậy có mang áo mưa cho người ta mượn không đó?
Quang bối rối, phủi mấy hạt mưa trên áo:
– Anh chỉ có chiếc áo này thôi! Em mặc về nhà trước, trời sắp tối rồi!
Tôi lắc đầu:
– Trời! Ai nỡ lòng nào lấy áo của anh chớ! Nếu anh rảnh thì ngồi đây chơi với em và tụi nhỏ.
Quang cởi áo mưa, nhìn ra ngoài trời, những chiếc lá bàng rụng tả tơi trong sân trường lấp lánh dưới ánh đèn mờ, rồi ngân nga: “Tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt, trời không mưa, anh cũng lạy trời mưa…”
Tôi nhắc:
– Bây giờ là tháng chín nghen anh!
– Thì bài hát tác giả viết sao, anh hát vậy mà …
Mưa vẫn không có dấu hiệu ngừng lại, trời thì càng âm u, các em học sinh cũng đã được phụ huynh đến đón về, chỉ còn tôi và Quang đứng nơi hành lang lớp học. Quang đưa tay ra ngoài trời hứng mưa, rồi bước lại gần tôi, ngập ngừng:
– Thật ra, anh có ý định đến đây mời em đi uống cà phê và ăn hủ tíu ngoài chợ, em thấy sao?
– Dĩ nhiên là em không từ chối, nhưng trời tối thui và ướt át thế này, em xin hẹn lần sau. Giờ em chỉ muốn về nhà, ăn lẹ miếng cơm rồi lên giường nằm nghe nhạc, nghỉ ngơi.
– Thôi cũng được! Nào, em mặc áo mưa vào rồi cùng về.
– Thế còn anh?
– Mưa nhẹ rồi mà, anh ướt một tí cũng chả sao!
– Vậy thì em cũng chẳng cần áo mưa!
– Em biết cứng đầu từ khi nào thế? Hồi bé em ngoan hiền, có cãi lời anh bao giờ đâu?
– Chuyện này thì khác! (vả lại, em không…hiền đâu ạ!), em dứt khoát không thể mặc áo mưa trong khi anh phải chịu ướt. Mà nè, hai đứa mình cùng đi dưới mưa như hồi bé, ôn lại cảm giác xưa, cũng thú vị đấy!
Thế là chúng tôi đạp xe chầm chậm về nhà dưới làn mưa lất phất. Đêm ấy, tôi ngồi soạn giáo án mà còn thả hồn theo mưa gió bên ngoài, tưởng tượng vài vần thơ dự định sẽ khoe với Quang, có đoạn cuối… rất tình:
Chiều dần tàn, cơn mưa chưa dứt
Hai người, chỉ một áo mưa che
Nhường qua nhường lại, thôi cùng ướt
(Đêm về tôi cảm, người biết chưa?)
Chia tay, hẹn gặp nhau lần tới
Xóm nhỏ đỏng đảnh thật dễ thương
“Cũng giống như em”, người thường nói
Chỉ một cơn mưa làm vấn vương!!
Có ai ngờ đó là mùa mưa cuối cùng của chúng tôi. Tuần lễ sau, Quang lên đường vượt biển. Thì ra, hôm ấy Quang đến mời tôi đi uống cà phê để tạm biệt, nhưng chỉ vì cơn mưa mà chúng tôi mất cơ hội nói lời giã từ. Quang đi hai tháng vẫn chưa có tin tức gì, gia đình Quang mỏi mòn chờ đợi, và tôi cũng lên đường.
Dù là đầu tháng mười hai, nhưng hình như là một cơ duyên với mưa, tàu của tôi gặp một cơn mưa bão bất ngờ chỉ sau hơn vài giờ ra khơi. Mưa biển thật dữ dội, điên cuồng và khủng khiếp. Máy thoát nước dưới hầm tàu bị hư, chúng tôi hứng chịu những đợt nước mưa lạnh buốt, trong tiếng sóng gào thét của biển cả và tiếng lòng cầu ơn Đấng cứu tinh. Rồi thì sau cơn mưa trời lại sáng, biển tàn bạo nhưng biển cũng bao dung, đưa chúng tôi đến bến bờ bình an, nhưng nỗi ám ảnh về cơn mưa trên biển làm tôi… sợ mưa!
Nhưng tôi chỉ sợ mưa biển, còn mùa mưa của chúng tôi vẫn luôn là một miền ký ức tươi đẹp, ngọt ngào. Dù biết đời bể dâu biến đổi, cảnh cũ người xưa chỉ còn trong trí nhớ, tôi vẫn cứ mơ một ngày (có ai đánh thuế ước mơ bao giờ!), tôi được về lại xóm cũ, một chiều mưa (dĩ nhiên!), tôi sẽ thả những chiếc thuyền giấy xuống “dòng sông nhỏ” trước hiên nhà, cùng với đám bạn thuở ấu thơ, kể cho nhau nghe nỗi vấn vương những sợi mưa dệt đầy một trời thương nhớ.
Quang ơi, bây giờ anh ở đâu? Tháng sáu về rồi đấy, anh có lạy trời mưa?!
Kim Loan
Chuyện Mẹ Chồng―Nguyễn Thị Thanh Dương
Hôm nay đi chùa Liên sẽ về sớm hơn mọi ngày, nàng nói với tôi:
– Chiều nay vợ chồng em cần đi xem vài địa điểm apartment nữa để chọn chỗ thuê mướn cho vừa ý vừa túi tiền chị ạ. Chúng em đã hỏi vài chỗ, thuê căn hai phòng cũng hơn một ngàn một tháng quá đắt với chúng em.
Nhìn vẻ mặt Liên thoáng lo buồn tôi càng thương cảm nhưng chỉ biết an ủi suông:
– Chúc em chọn được căn vừa ý nhé. Thôi thì tuy tốn tiền mà ở riêng tinh thần thoải mái hơn ở với mẹ chồng…
Liên là bạn vai em, chúng tôi gặp nhau và quen biết nhau ở chùa. Mỗi Thứ Bảy cuối tuần tôi thường đi lễ chùa và Liên cũng thế. Thỉnh thoảng nàng hay than thở về bà mẹ chồng khó tính khó ưa. Liên mới sang Mỹ được chừng 5 năm, có hai đứa con, nàng làm nail, chồng tên Hải làm thợ hàn trong hãng xưởng. Vợ chồng con cái đang ở chung với cha mẹ chồng thì đùng một cái bà mẹ chồng tuyên bố “đuổi” gia đình Hải ra ở nơi khác.
Liên đã vừa khóc vừa kể:
– Mẹ chồng em hắc ám lắm chị ơi, hồi đó bà phản đối không cho anh Hải về Việt Nam cưới em. Bởi vậy bà ghét em, chê em con nhà nghèo, bà nghi ngờ em đi làm dấm dúi gởi tiền về Việt Nam cho cha mẹ anh em.
– Nhưng bà cũng đã cho vợ chồng em ở chung 5 năm nay rồi còn gì?
– Ôi, ở chung cũng cực khổ trăm bề, muốn ăn muốn ở gì theo ý mình đâu có được, bà kiểm soát, chỉ dạy em đủ thứ nghe mà bắt mệt. Nhưng tụi em chưa sẵn sàng tiền bạc để ra ở riêng thế mới khổ chứ.
Tâm hồn tôi cũng bị ngả nghiêng theo chiều gió, tôi trách bà mẹ chồng của Liên:
– Làm cha mẹ phải đỡ đần cho con cháu, giận gì thì giận nỡ lòng nào đuổi con cháu ra khỏi nhà cái rụp vậy. Bà mẹ chồng của em đúng là…hắc ám.
Liên bùi ngùi:
– Em thật vô phước gặp bà mẹ chồng kiểu này. May mà còn có chồng thương em…
Tôi thương cảm cho Liên và cũng thấy ghét bà mẹ chồng của nàng dù chưa gặp mặt lần nào.
Cuối cùng thì vợ chồng Liên đã ra ở riêng, họ thuê căn apartment hai phòng giá $1,200 một tháng. Ngoài tiền thuê nhà, còn tiền gởi hai con, Liên gởi con cho bác người Việt ở ngay bên cạnh, cũng may bác hàng xóm thông cảm hoàn cảnh vợ chồng Liên nên lấy giá rẻ hơn nhiều so với nơi khác.
Từ ngày ra ở riêng Liên ít đi chùa, có khi cả một hai tháng tôi không gặp Liên, có lẽ nàng bận rộn làm việc nhiều hơn và lo chuyện nhà nhiều hơn. Lúc trước ở chung với nhà chồng, có cha mẹ là có thêm người, thêm tay chân đỡ đần chuyện nhà cửa con cái nên vợ chồng Liên mới rảnh rang. Tuy không gặp Liên thường xuyên nhưng tôi nghĩ gia đình Liên đang sống yên vui nơi ở mới là tôi cũng vui theo.
*
Một Thứ Bảy tôi đi chùa như thường lệ, lúc giờ ăn trưa có một bác tìm hỏi đúng tên tôi, bác giới thiệu là mẹ chồng của Liên và đưa tôi một tấm thiệp mời:
– Nè cô, con Liên dặn dò tôi trao tận tay cô tấm thiệp mời ăn tân gia.
Tôi ngỡ ngàng nhìn tận mặt bà mẹ chồng… hắc ám, đó là một bà mẹ quê nét mặt hiền lành chất phác, vậy mà qua những lời Liên kể tôi đã hình dung ra một “ác phụ”, một “bà chằn” đối xử tàn tệ với con dâu. Tôi thật sự ngạc nhiên:
– Ủa bác… là mẹ chồng của Liên??
– Tôi ít khi đi chùa, trừ khi dịp lễ lớn như Phật Ðản, Vu Lan, cô không biết tôi là phải, hồi nào tôi mắc ở nhà lo cơm nước chồng con rồi phụ trông cháu. Lâu nay con Liên cũng bận rộn quá chừng nhưng nó vẫn nhớ đến cô.
Tôi ngạc nhiên lần nữa:
– Vợ chồng Liên đã mua được nhà rồi sao? Mới hôm nào cô ấy còn than thở với cháu là tiền thuê nhà, tiền gởi con và đủ thứ tiền khác hao tốn lắm mà, làm sao vợ chồng Liên để dành tiền nhanh thế?
– Ðúng vậy đó cô, để vợ chồng nó ra ở riêng mới biết lo….
Bà mẹ như gặp được chỗ để thở than:
– Cô ơi, có cha mẹ nào mà không thương con thương cháu mình? Ban đầu thằng Hải con tôi đòi cưới vợ ở Việt Nam tôi có phản đối vì chẳng biết rõ gia đình người ta thế nào, nhưng đã lấy nhau, trở thành con cái trong nhà tôi cũng ráng đùm bọc chúng, cho ở chung và trông con cái cho vợ chồng nó đi làm hầu tiết kiệm được tiền sau này mua nhà mua cửa và lo cho con, nhưng có dư đồng nào là hết đồng đó. Cô coi, con Liên mới theo chồng sang Mỹ được 5 năm mà nó mang con về Việt Nam thăm cha mẹ nó tới 3 lần, tiền bạc nào chịu cho thấu. Thằng chồng thương vợ không dám nói gì, tôi khuyên nhủ thì bị con dâu giận hờn chê trách tôi ích kỷ nhỏ nhen không muốn nó về thăm cha mẹ….
Tôi đã hiểu phần nào câu chuyện và tin những lời người mẹ này kể. Một chuyến về thăm Việt Nam của 3 mẹ con Liên tiết kiệm lắm cũng phải tốn năm, bảy ngàn, vung tay hơn nữa là tốn chục ngàn như chơi. Nếu cha mẹ Liên ở Việt Nam biết hoàn cảnh tiền bạc Liên không dư dả gì mà về Việt Nam liên tục như thế chắc gì họ đã vui? Thà rằng cứ thăm hỏi qua điện thoại, qua thư từ, biết tin nhau mạnh khỏe bình an là vui rồi. Thay vì thường xuyên về Việt Nam, Liên có thể gởi biếu cha mẹ tiền vẫn nhẹ nhàng đỡ tốn kém hơn rất nhiều.
Bà mẹ kể tiếp:
– Tôi đành đoạn… đuổi chúng ra khỏi nhà. Quả thật sau hai năm ở riêng dù phải trả tiền nhà, tiền gởi con nhưng vợ chồng nó biết lo làm ăn, tiết kiệm, để dành được một món tiền nhỏ, vợ chồng tôi phụ thêm vào cho chúng tiền để down mua một căn nhà.
– Bây giờ mẹ chồng nàng dâu đã thông cảm nhau rồi hả bác?
Bà mẹ tươi cười:
– Chắc con dâu đã hiểu ra tấm lòng tôi, mỗi ngày thấy nó thân với tôi một chút tôi cũng mừng. Nó còn nói phải chi con không về Việt Nam mấy chuyến là có tiền down nhà từ sớm rồi. Hồi đó mỗi lần về Việt Nam chơi là một hai tháng, đã không kiếm được tiền một hai tháng, lại mất việc khi trở lại Mỹ, tiệm nail cũ không nhận vì đã mướn người khác, nó lại phải tìm việc nơi khác và làm lại từ đầu.
Tôi tiếc rẻ giùm cho Liên:
– Hèn gì nghèo là phải, mỗi lần Liên đi chùa thường hay cầu khấn trời Phật phù hộ kiếm được chỗ làm tử tế là thế. Nhưng làm chưa ấm chỗ lại xin nghỉ về Việt Nam thì chủ nào chịu nổi.
– Tôi trông hai cháu nội cho vợ chồng nó đi làm. Bây giờ con Liên đã yên ổn một chỗ làm, nó siêng làm lắm, không mấy hồi mà trả hết nợ nhà, có căn nhà của chính mình mà ở là sướng nhất phải không cô?
– Dạ, bác nói đúng.
Bà mẹ cởi mở:
– Chừng đó, không mắc nợ nhà nợ xe gì nữa, rủng rỉnh tiền bạc thỉnh thoảng vợ chồng con cái thằng Hải con Liên có về Việt Nam thăm bên vợ ai cấm cản làm chi…
Tôi khen:
– Bác… càng nói đúng..
Bà nhìn tôi với vẻ biết ơn vì đã lắng nghe và hiểu nỗi lòng của bà. Trút xong tâm tình bà mẹ chồng… hắc ám của Liên vui vẻ nhắc nhở tôi:
– Cô nhớ đến chung vui tân gia với chúng tôi nha, căn nhà nó mua tôi ưng hết sức, vợ chồng con cái nó ở tha hồ thoải mái. Căn nhà là tổ ấm mà cũng là của cải vốn liếng, chứ đi thuê mướn nhà trả tiền tháng nào là bay mất tiêu tháng đó.
Tôi cầm tấm thiệp mời, chẳng cần biết căn nhà cũ mới thế nào nhưng đã hình dung ra một căn nhà ấm cúng của vợ chồng Liên.
Bà mẹ chồng Liên chào tạm biệt và hẹn tái ngộ.
Tôi thấy bà mẹ chồng…hắc ám này thật hiền hòa dễ thương mà hôm nay mới gặp lần đầu tôi đã nhiều cảm mến. Tôi thầm nói với theo bóng dáng bà đang khuất dần phía xa:
– Bác ơi, bác là bà mẹ chồng tuyệt vời của cô Liên đấy.
Nguyễn Thị Thanh Dương