Trang chủ » Văn Học – Nghệ Thuật

Category Archives: Văn Học – Nghệ Thuật

Dựng Lại Niềm Tin—Lê Kim Nga K27/1

Dựng lại niềm tin. Anh ơi đúng đó!
Em hân hoan trong hạnh phúc vô ngần
Bao năm qua lòng thắc mắc hoang mang
Rồi tự hỏi, lẽ nào tình rạn vỡ?

Tình vẫn nặng nên lòng em mãi nhớ!
Bao máu xương đã đổ xuống chiến trường
Bao anh linh với những nỗi đau thương
Hy sinh đó, không thể nào vô nghĩa!

Dựng lại niềm tin. Lòng càng thấm thía
Uy danh xưa người lính chiến Cộng Hoà
Niềm tự hào trường Võ Bị Quốc Gia
Bao ngưỡng mộ từ trong và ngoài nước.

Vẫn còn đó niềm tin yêu ngày trước
Dựng lại đi anh, cho mơ ước hồi sinh
Cho mầm xanh con cháu lại thắm tình
Nhớ nguồn cội thuở nào an- pha đỏ.

Nơi quốc nội, em đôi lời thầm ngỏ
Các anh ơi hãy dựng lại niềm tin
Thời gian trôi, ai đâu thể níu kìm
Và cứ thế cuốn đời người trôi mất.

Với ý chí với tấm lòng son sắt
Rồi cùng nhau đoàn kết lại nha anh!
Dấn thân đi anh cho khí thế bừng nhanh
Cùng bước tới chào mừng ngày Đại Hội.

               Lê Kim Nga K27/1

Đi Tìm Thu Vàng Ở Cali—Trịnh Thanh Thuỷ

Nói đến mùa thu, hình ảnh đậm nét nhất khiến chúng ta liên tưởng ngay đến là những chiếc lá vàng. Khi thiên nhiên thay áo, có lẽ màu vàng của lá qua quá trình chuyển màu đập vào thị giác con người mạnh mẽ nhất. Hơn bao giờ hết, cảnh đẹp, buồn, thơ của thu quyến rũ và chạm sâu đến tận đáy trái tim của những tâm hồn nhạy cảm, yêu nghệ thuật, cái đẹp và chuộng thiên nhiên.

blank

Con đường gần hồ Convict Lake

blank

Bên bờ hồ Convict Lake

blank

Hồ Convict Lake

Khác với mùa xuân là mùa của hoa, thu là mùa của lá. Albert Camus đã ví “Thu là mùa xuân thứ hai, khi mỗi chiếc lá là một bông hoa”. Thu là những bức tranh, bức hình tuyệt đẹp của mẹ đất. Thu là nắng, gió, sương, khói, sông, núi, nàng thơ. Thu là tất cả những gì nhẹ nhàng, êm ả, lãng mạn. Thu là nguồn cảm hứng vô tận cho những tác phẩm ra đời. Con người đi tìm cảnh thu để thưởng ngoạn và sáng tác. Tuy nhiên, những kẻ thực sự săn tìm mùa thu nhiều nhất có thể là nói là giới nhiếp ảnh. Mùa thu là mùa săn ảnh bận rộn nhất của họ. Các địa điểm có lá vàng đẹp đều là điểm nhắm cho các cung đường và hành trình của những chuyến đi.

Ở Hoa Kỳ, muốn biết lá vàng ở đâu đẹp và rực rỡ nhất bạn chỉ việc leo mạng hỏi ông Google, tìm Fall Foliage Prediction Map, là bản đồ thời gian và điạ điểm có lá vàng, bạn sẽ có đủ thông tin cần thiết. Nếu có điều kiện và phương tiện di chuyển bạn có thể mua vé máy bay hoặc theo tour du lịch đến những nơi có mùa thu với đủ sắc màu xanh, đỏ, cam, vàng, nâu như những công viên quốc gia hoặc núi đồi, sông suối ở các tiểu bang Đông Bắc nước Mỹ.

Các bạn ở Cali có thể lái xe đi về phía bắc Cali gần công viên quốc gia Yosemite, là nơi có rất nhiều cảnh thiên nhiên đặc biệt với biết bao lá vàng. Tuy nhiên, tìm một nơi có đủ điều kiện thuận lợi lý tưởng cho một bức hình đẹp tuyệt vời ra đời vẫn cần có người thông thạo nơi chốn dẫn đường.

blank

Yosemite Valley View

blank

Mono Lake

blank

Gần Mammoth Lake

Năm nay tôi theo chân hội ảnh VNPC đi tìm lá vàng ở khu vực Bishop- Yosemite trong mấy ngày cuối tuần.

Địa điểm đầu tiên chúng tôi trực chỉ là hồ North Lake của vùng Bishop. Rời Little Saigon từ 10 giờ đêm, chúng tôi cố gắng lái xe đến hồ trước khi mặt trời thức dậy. Mặt trời còn được ngủ nhưng dân săn ảnh không dám ngủ vì phải rình ghi hình khuôn mặt đỏ hồng của ông khi ông vừa thức giấc !!! Với người chụp ảnh, buổi sớm mai và hoàng hôn là những giờ vàng mà ánh sáng đẹp nhất nên muốn có hình đẹp, họ phải ra đi khi trời chưa sáng và trở về lúc mặt trời khuất núi từ lâu. Tôi luôn gọi đùa họ là những người tự hành xác. Thật vậy, nếu bạn đã từng chứng kiến những NAG cao tay, chuyên môn chụp những thú vật hoang dã, bạn mới hiểu sự kiên nhẫn của họ đến độ nào. Họ nấp một chỗ gần tổ chim đại bàng, chờ con trống mang mồi về trao cho con mái ở trên không để chụp hình. Họ ghi lại những giờ phút ngoạn mục trao mồi ấy, cả những phút một con khác từ đâu bay đến cướp mồi. Họ phải nghiên cứu kỹ thói quen, chu trình đi và về, cách kiếm mồi của từng loại chim để có thể phục kích với cái ống nhắm ghi hình khổng lồ như một khẩu Bazooka bắn xe tăng.

Cái khó khăn là không thể lại gần động vật hoang dã, chỉ động nhẹ là chúng bay hay chạy mất, mà khi ghi hình, hình ảnh phải đẹp và rõ nét, cả đôi mắt và thân hình nữa. Thời gian chờ đợi không phải là phút giây mà có thể là hàng nhiều giờ, đợi chúng đứng lên, vỗ cánh bay, đi săn mồi, về tổ, mớm mồi cho con. Tổ những con cò, hay những sinh vật khác có thể là đầm lầy, ghi hình cho rõ đôi khi họ phải nằm sát dưới bùn, hay leo lên mỏm đá, sự nguy hiểm có thể xảy ra trong phút đợi chờ mà họ không hề biết. Đó là chưa kể những nơi thời tiết khắc nghiệt như sa mạc nóng thiêu người hay băng tuyết gió bão. Phải nói là không đam mê và yêu cái đẹp họ không bao giờ có thể làm được những điều này.

Trở lại câu chuyện, Sau khi ngủ dật dờ trên xe, tôi theo đoàn đi bộ vào địa điểm chụp hình đẹp nhất mà anh hội trưởng dắt đường. Trời vừa hừng sáng chúng tôi đã bắt đầu chụp cảnh hồ tuyệt đẹp với cả rừng lá vàng soi bóng êm ả bên hồ. Lúc này ở Bishop, lá thu đang vào độ rực rỡ nhất. Chúng tôi tiếp tục đi qua Sabrina Lake, Silver Lake rồi ghé Mono Lake vào buổi chiều khi trời còn nắng. Mono Lake là một cái hồ đặc biệt khác hẳn những hồ khác mà nét đặc thù của nó lôi cuốn rất nhiều du khách khi ghé Cali. Nằm trong vùng Eastern Sierra ngoạn mục của California, Mono Lake là một ốc đảo nằm trên một vùng Great Basin(bể lưu vực) bị khô hạn. Nơi đây là môi trường sống quan trọng cho loài tôm và ruồi kiềm, cũng đã làm mồi quyến dụ hàng triệu loài chim thiên di đến, đi và ở lại làm tổ. Mono Lake nguyên thủy là một hồ muối soda, nông và rộng đến 18.265 ha (182 km²) và được tạo lập ít nhất 760.000 năm trước đây. Việc thiếu lối thoát nước đã gây ra mức độ tích tụ muối cao trong hồ. Chất muối này cũng làm cho nước hồ bị kiềm. Điểm đặc biệt nổi rõ lô nhô trên mặt hồ là những vùng đá vôi được gọi là Tufa nằm rải rác trông rất lạ mắt. Những tháp đá Tufa với hình thù kỳ lạ này được hình thành khi các khoáng chất cacbonat kết tủa ra khỏi vùng nước nóng. Chúng trông như những phế tích hay thành quách tí hon còn lại của một quốc gia, một triều đại bị sụp đổ qua sự tàn phá của thiên nhiên.

blank

Hồ North Lake- Ảnh NAG Lê Tâm

blank

Dòng suối gần Sabrina Lake

Những ngày kế tiếp chúng tôi ghé Convict Lake. Chính ở khu vực Mammoth Lake và Convict Lake này chúng tôi khám phá ra những con đường dọc theo hồ và suối đầy những lá vàng tuyệt đẹp. Buổi chiều, gió nổi khiến lá vàng xoay tròn bay nhảy khắp nơi như những điệu luân vũ bất tận của đất trời. Tôi nhìn con đường màu vàng dường như mở rộng đến vô tận đã đưa tôi vào một thế giới thơ mộng mà vô cùng xúc động. Lững lờ đây đó những đàn vịt thong thả bơi qua như nhắc nhở bức tranh thủy mạc này còn có sự sống diệu kỳ.

Cái tên Convict Lake nghe rất kỳ quặc, làm ai cũng thắc mắc. Tiếng Việt có thể đọc trại ra “Hồ Convịt”. Thực ra nghĩa của chữ “Convict” là “xử phạt, kết án”. Cái tên Convict Lake được đặt sau này, do một biến cố xảy ra vào ngày 23 tháng 9 năm 1871, ngày một nhóm tội phạm đã trốn thoát từ một nhà giam ở thành phố Carson, Nevada. Một thành viên của toán lính truy đuổi tù nhân trốn trại đã bị giết ở đây. Tên Convict Lake ra đời để tưởng niệm người đã hy sinh và ngọn núi trước mặt hồ được đặt tên ông, là Mt Morrison. Rời nơi này chúng tôi ghé ngang vài cái hồ nữa như Tioga Lake, June Lake, Tuolume Meadow và Yosemite Valley View để chụp cảnh hoàng hôn. Điểm dừng cuối của chúng tôi là Công viên quốc gia Yosemite với Glacier Point vào buổi sớm mai.

Yosemite National Park với những cây Sequoia khổng lồ, hồ, suối, thác, núi và rừng rộng lớn mênh mông là một thắng cảnh rất nổi tiếng của California. Xe chạy giữa những rừng thông ngút ngàn xen lẫn những cây Bạch Dương và Phong lá vàng, lá đỏ khiến chúng tôi không ngừng tấm tắc khen ngợi cảnh đẹp mùa thu hoang dại của núi rừng. Chúng tôi ghé Mariposa Grove là rừng cây Sequoia lớn nhất của công viên, nơi có hàng trăm cây to vĩ đại đứng sừng sững thi gan cùng đất trời. Hình lại được chụp, nhưng vội vã hơn vì chúng tôi phải vượt đường xa vạn dặm quay về nhà, chấm dứt hành trình đi tìm thu vàng của Cali.

Trịnh Thanh Thủy

vietbao.com

Tình Cha—Khuyết Danh

Dòng nước mắt một đời không luống cạn
Giọt mồ hôi năm tháng chẳng hề vơi
Đó tình cha muôn thuở vốn không lời
Trong lặng lẽ, âm thầm như chiếc lá.

Buồn hay vui Cha cũng cam để dạ
Khóc hay cười Cha để cả trong tim
Như đại dương, lòng biển cả lặng im
Trong sâu thẳm tiềm tàng nhiều bí ẩn.

Công dưỡng dục suốt một đời lận đận
Nghĩa sinh thành vương vấn cả trăm năm
Bên đời con, Cha một bóng âm thầm
Luôn che chở bằng bóng râm mát dịu.

Tấm lòng cha một đời con đâu hiểu
Bởi tình Cha luôn lắng dịu ngọt ngào
Tuy giá băng nhưng sâu thẳm dạt dào
Cho mà chẳng mong chút nào đền đáp.

Rồi mai kia trên đường đời muôn dặm
Con mới hay sâu thẳm tấm lòng Cha
Luôn bao la và cũng rất mặn mà
Tình Cha đó, ngàn năm vang vọng mãi

Khuyết danh

Người Thương Binh Uống Rượu Bên Giòng Sông—Thái Tú Hạp

Rượu uống bao nhiêu chiều rồi nhỉ 
Chỉ thấy giòng sông đỏ dáng trời 
Chỉ thấy lòng ta mưa chẳng tạnh 
Sóng sầu nghiêng ngả mảnh hồn trôi

Bạn cứ đi. Đừng quên người ở lại 
Ta một mình. Sống được với quê hương 
Như mãnh thú khép mình trong phố nhỏ 
Đốt hết tuổi đời nghiệt ngã đau thương

Bao lần bên giòng sông soi mặt 
Thoáng nhớ mây trời đỉnh Chu Phong 
An Lộc – Khe Sanh – Đèo Lao Bảo 
Tử sinh ta xem nhẹ như không

Ngày tháng rong chơi lửa reo đầu đạn 
Ta giờ lạc mất những đường chim 
Ngồi lại bên giòng u uất sử 
Uống giọt cuối cùng máu rỉ từ tim 

   Chia với cỏ cây nỗi niềm tri kỷ 
Nhân gian chừng như lãng quên ta 
Chiều uống rượu bên giòng sông tủi nhục 
Hát một mình bài hát cũ: Quốc Ca  

Bao năm thấu triệt đời hư huyễn 
Tâm động hồi chuông nhung nhớ quê 
Tưởng đến ngày mai. Thầm ước nguyện 
Giòng sông thắp nắng đón nhau về

 Lâu quá hai phương trời cách biệt 
Bạn hiền nay đã giạt về đâu! 
Phố cũ chiều trôi đời nhạt nắng 
Trong gió vọng nghe tiếng hát sầu?!…

Nắng Chiều—Hoàng Thục Linh | SBTN

Hạc Xưa Về Khép Cánh Tà―Nguyễn Thị Hải Hà

Hạc ít khi xuất hiện trong văn học Tây phương; tuy vậy, thường được nhắc đến trong huyền thoại và tôn giáo. Khi Odysseus và Diomedes mang con ngựa gỗ Trojan đánh chiếm thành Troy thành công, nữ thần Athena gửi chim hạc đi khắp nơi để báo tin mừng. Hình dáng mảnh mai, bước đi khoan thai, và cái vẻ đơn độc của loài hạc luôn được khen tặng là biểu tượng cho nét quý phái, thanh lịch, và tự do; một vẻ đẹp tự nhiên của đất trời.  

Thuở xưa người Ai Cập thờ thần Benu. Tiếng kêu của Benu đánh dấu sự khai thiên lập địa và một ngày nào đó, tiếng của Benu cũng sẽ báo hiệu ngày tận thế. Hình tượng hay tranh vẽ cho thấy Benu giống như con hạc. Người La Mã tin rằng hạc là biểu tượng của sự tái sinh.  Ovid, nhà thơ La Mã sinh năm 43 trước Công Nguyên và mất năm 17 (hay 18), giải thích rằng Ardae, thành phố nhỏ phía Nam La Mã, bị tướng Aeneas của quân đội thành Troy, san thành bình địa. Giữa hoang tàn đổ nát có con chim màu xám tro xuất hiện. Con chim có hình dáng mảnh khảnh cổ cao và chân dài, giang cánh đôi cánh rộng ngửa cổ thoát ra một tràng âm thanh áo não. Người Anh gọi loài chim này là Ardea Cinerea có nghĩa là con hạc màu tro.  Hình ảnh và tiếng kêu của chim hạc được xem là điềm lành.

Tôi từng nghĩ rằng hạc là loại chim chỉ có trong tôn giáo, huyền thoại, thi ca, và âm nhạc.  Tôi chưa bao giờ nhìn thấy hạc tận mắt. Tôi chỉ thấy hạc qua tranh vẽ, chim hạc ngậm tràng hạt bay đi về hướng nào đó, chắc là Thiên Thai hay Bồng Lai tiên cảnh.

Không biết tôi gặp con hạc nào trước. Hạc trong cái hạc bay lên vút tận trời (1) hay hai con hạc trắng bay về, về Bồng Lai (2). Dù sao, tôi cũng biết thêm một điều, hạc là loài chim màu trắng. Theo tranh vẽ, hạc có mỏ dài, cổ cong, cẳng cao, trông giống như con cò.

Năm 2007, về thăm Việt Nam tôi thấy tượng chim hạc trong vài đền thờ. Hạc rất cao lớn và dưới chân là con rùa nhỏ xíu. Tôi thắc mắc. Phải chăng người mình dùng hạc, để thay thế phụng của người Trung quốc, làm biểu tượng của sự trường thọ. Tôi tự hỏi vì sao một loài chim quý ở cõi tiên lại được đặt bên cạnh rùa, một loài vật của hạ giới. Hạc và rùa có lẽ cùng hiện diện ở chùa và đền thờ rất nhiều nên ca dao Việt Nam có hai câu:

Cảm thương con hạc ở chùa
Muốn bay da diết có rùa giữ chân

Tôi gặp hạc nhiều hơn trong thi ca Việt Nam. Chim hạc có màu trắng. Nhà thơ Phạm Thiên Thư nói thế.

Anh nằm gối cỏ chờ hoa
Áo em bạch hạc la đà thái hư (Phạm Thiên Thư)

Tôi biết bạch hạc là hạc trắng, nhưng la đà thái hư là gì và tại sao lại la đà thái hư? Tôi không hiểu hết nhưng đọc hai câu thơ vẫn cảm thấy hay hay, ngồ ngộ, vương vấn mùi hương Phật giáo.

Tuổi đời thêm một chút, tôi gặp con hạc vàng, qua bài thơ của Thôi Hiệu. Con hạc vàng này không có thật. Có người vào một quán bên sông uống rượu mà không có tiền trả. Ông ta vẽ một con hạc màu vàng trên tường của quán để trừ nợ. Sau khi ông đi rồi, có con hoàng hạc xuất hiện múa và hót cho khách trong quán thưởng thức. Khách đến mỗi ngày một đông, chủ quán mỗi ngày một giàu. Quán xây thêm mấy tầng lầu lộng lẫy đặt tên Hoàng Hạc Lâu.

Rồi một ngày, hoàng hạc biến mất nhưng thi nhân vẫn tìm đến ngắm cảnh đẹp và uống rượu. Thôi Hiệu đến đề bài thơ lên vách. Lý Bạch đến sau đọc bài thơ của Thôi Hiệu ngậm ngùi than rằng vì bài thơ Hoàng Hạc Lâu quá hay nên ông không dám đề thơ. Câu thơ về con hạc vàng được thi sĩ Vũ Hoàng Chương phóng bút thành Vàng tung cánh hạc đi đi mất.  Trắng một màu mây vạn vạn đời. Tuy nhiên, bài thơ lưu danh muôn thuở không phải chỉ do phong cảnh mà vì nó nói lên nỗi lòng của người ly hương, cho dù có đứng trước rừng cây đẹp hay bãi cỏ xanh của xứ người thì nhìn khói chiều trên sông nước lòng vẫn bâng khuâng nhớ về quê cũ.

Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai (Tản Đà)

Ngoài bài thơ Tống Biệt, Tản Đà cũng nhắc đến hạc trong một bài thơ khác:

Trông khắp trần gian hết thú chơi
Thèm trông con hạc nó lên trời.
Hạc kia bay bổng tuyệt vời
Hỏi thăm cung Nguyệt cho người trọ không?

Câu chuyện hoàng hạc múa hát làm vui tửu khách khiến tôi nghĩ rằng tiếng hót của con hạc phải hay. Nhà thơ Nguyễn Du so sánh tiếng đàn của Kiều với tiếng hạc qua mấy câu thơ.

Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.

Một con hạc đang hong cánh (ảnh: tác giả)

Cổ tích của Ai Cập và La Mã đều có nói đến tiếng kêu của loài hạc. Dù hạc và tiếng kêu của hạc là điềm lành, biểu tượng của sự tái sinh, nhưng các nhà viết cổ tích Ai Cập và La Mã đều nói rằng tiếng kêu của hạc nghe chát chúa và áo não. Bạn có bao giờ được nghe tiếng hạc?  Việt Nam có một tuồng cải lương có tựa Tiếng Hạc Trong Trăng nói về tình yêu của một cô gái mù. Trang phục của diễn viên trong vở tuồng này thấp thoáng nét của trang phục Nhật Bản. Tên vở tuồng cải lương và câu thơ của Nguyễn Du khiến tôi tưởng tượng tiếng hạc nghe chắc phải hay, thơ mộng, và lãng mạn. Chắc chắn phải ngược lại với miêu tả của các nhà văn cổ tích Ai Cập và La Mã.

Biết hạc màu trắng, giọng hạc trong, nhưng hạc có phải là loài chim có thật? Nó ra làm sao?  Mấy mươi năm trong đời, tôi chỉ biết vài loại chim như chim sẻ, con cò, và một vài loại chim khác qua mấy câu ca dao:

Cái cò, cái vạc, cái nông.
Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò.

Nghe câu hát vai em gầy guộc nhỏ, như cánh vạc về chốn xa xôi, tôi cho rằng con vạc cũng là con hạc. Hai câu ca dao nói trên khiến tôi đoán rằng con hạc có thể là loài chim có thật, và loài chim này sống ở nông thôn như con cò chứ không phải ở Thiên Thai. Nhà thơ Nguyễn Trãi có bài thơ:

Cò nằm hạc lặn nên bầy bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con

Mãi đến năm 2012 khi hiking trong rừng thường xuyên, tôi mới biết hạc là loài chim có thật.  Hạc thường tìm thức ăn ở đầm lầy, bờ sông, những nơi nước không sâu lắm. Nó không bay lên đáp xuống thoăn thoắt như các loại chim nhỏ, chỉ đủng đỉnh từng bước một và có thể đứng ở một chỗ rất lâu. Hạc thường đi kiếm ăn một mình và ở nó luôn toát ra một vẻ cô độc.  Nhà thơ Nhật Bản Shiki bắt được nét cô độc của hạc trong bài haiku, bản tiếng Anh của R. H. Blyth.

Rose-mallows are blooming;
The widowed heron
Of the old pond.
Shiki

Dâm bụt nở rộ
Con hạc góa bụa
Bên hồ cũ xưa
(NTHH dịch)

Khi lớp lông mềm bên trong bị ướt, hạc giang cánh ra thật rộng để phơi, nhưng đôi ba lần tôi thấy con hạc xám lật ngửa hai cánh ra trước ngực như một người áo lam đứng vòng tay ngang rốn, tôi tưởng lầm nó bị gãy cánh. Tìm trên mạng biết nó lật ngửa cánh phơi cho khô, ngực tôi đỡ thắc thỏm. Chim hạc phơi cánh thì thấy rồi còn con hạc khép cánh tà của Phạm Thiên Thư ra làm sao?

Hạc xưa về khép cánh tà
Tiếng rơi thành hạt mưa sa tần ngần.

Không biết. Nhưng câu thơ bổng trầm gợi trong tôi một vẻ đẹp chỉ có trong thi ca. Tiếng hạc đọng lại thành những giọt mưa và rơi xuống. Nhẹ nhàng. Trầm ngâm. Câu thơ khiến tôi, một người không biết làm thơ, suy nghĩ. Thơ là như vậy. Những con chữ được ghép lại một cách vần điệu, âm thanh trầm bổng, chứa đựng một hình ảnh đẹp của thiên nhiên, của kiều nữ.  Người đọc không cần hiểu hết nghĩa của từng chữ từng câu. Chỉ cần cảm nhận được, dù một cách mơ hồ, cái đẹp của bài thơ.

Minh họa: dattatreya-patra-unsplash

Hạc tiếng Anh là crane thuộc nhóm Gruidae, người miền Bắc gọi là con sếu. Vạc tiếng Anh là heron thuộc nhóm Ardeidae còn được gọi là con diệc. Ardea Cinerea con chim màu xám tro xuất hiện ở cổ thành Ardae đổ nát của La Mã là con heron. Bạn hãy để ý cái nguồn gốc Ardea. Trước kia các nhà điểu học đã xếp vạc và hạc vào nhóm Ardeidae. Cò thuộc về nhóm Ciconiidae. Hạc, vạc, và cò có nét giống nhau ở chỗ cổ cong và cẳng cao. Hạc, vạc, và cò (stork) đều là loại chim to.

Người ta tôn kính hạc có thể tại vì vóc dáng to lớn của hạc. Người xưa hay thờ những con vật có thể làm người ta sợ hãi. Khi Huy Cận viết Lòng anh mở với quạt này, trăm con chim mộng về bay đầu giường, tôi chắc chắn trăm con chim mộng này không phải là chim hạc.  Nếu là hạc thì người ta phải dời cái giường ra giữa đồng mới đủ chỗ cho trăm con. Và người em nào đó nằm trên giường chắc là sợ mất vía với trăm con hạc đập cánh phần phật.

Ở đường trail Delaware và Raritan, dọc theo sông Millstone và Raritan, có loại vạc xám người Mỹ gọi là great blue heron để phân biệt với heron có hình dáng nhỏ hơn. Rất có thể Ardea Cinerea, trong huyền thoại La Mã, là great blue heron. Người Mỹ dùng chữ blue để miêu tả loạt màu từ xanh đậm cho tới xanh nhạt cho tới xám nhạt. Vạc trắng egret hơi nhỏ hơn loài vạc xám. Hạc và rùa thường đậu và nằm trên những gốc cây dọc bờ sông. Điêu khắc gia Việt Nam có lẽ đã mang hình ảnh này vào chùa và đền thờ qua những bức tượng.

Con hạc trắng (sếu) mãi đến bây giờ tôi cũng chỉ nhìn thấy qua phim ảnh. Ở Hokkaido có loại sếu trắng đầu đỏ nổi tiếng bay múa rất đẹp trong mùa gọi tình. Tôi chỉ được thấy tận mắt loại hạc – sandhill crane, màu xám nhạt nhỏ hơn con vạc xám – great blue heron cỡ một chín một mười, và trên má có màu đỏ. Mùa Đông, loại hạc này thiên di ngang New Jersey.  Tôi gặp một đàn mười con đậu trên đồng cỏ khô.

Tôi cũng nhận ra một điều; tiếng hạc không hay, không êm ái du dương, như tôi tưởng tượng. Thỉnh thoảng tôi vô tình đến gần chỗ hạc đang đứng, khiến nó hoảng sợ vụt bay, để rơi lại trong thinh không một chuỗi âm thanh arck… arck… arck nghe chát chúa. Nguyễn Du bảo là trong, có lẽ là trong trẻo hay trong vắt, nhưng trong trẻo đâu có nghĩa là thanh tao dịu dàng. Bảo đảm, trong đêm, dù bạn đang ngủ nằm mơ cũng có thể bị tiếng hạc đánh thức nhưng không phải tiếng chim như trong mấy câu thơ của Phạm Thiên Thư.

Đôi uyên ương trắng bay rồi
Tiếng kêu tha thiết bên trời chớm đông.

Kể ra cũng khó phân biệt con vạc và con hạc. Có người quan sát bảo rằng con vạc khi bay rụt cổ lại, còn hạc thì giương cổ ra. Tôi đã nhầm lẫn vạc với hạc. Lần đầu tiên khi gặp great blue heron, tôi đã gọi nó là con hạc xám thay vì vạc xám. Bài văn này không là bài nghiên cứu khoa học về chim, nên sự phân loại chính xác giữa vạc và hạc, tôi mong là có thể bỏ qua.  Con hạc trong bài này là con vạc – heron chứ không phải là con sếu – crane. Mong độc giả tha lỗi.

Nguyễn Thị Hải Hà

Happy Father’s Day

Arms | Evie Clair | Christina Perri | America’s Got Talent
Papa | Paul Anka | Spectrum Artworks
Cảm Ơn Cha | Sœur M. Tigon | Diệu Hiền

The Christmas Shoes | by NewSong

Tôi vội vã bước vào siêu thị đế mua mấy món quà Giáng sinh vào phút cuối cho đứa con gái. Nhìn đám đông đang xếp hàng, tôi kinh hãi nghĩ đến việc phải chờ đợi. Trong khi nhà và văn phòng còn rất nhiều việc chưa xong.

Không biết từ lúc nào, tôi cảm thấy Giáng sinh đã trở thành gánh nặng nề. Tại sao lại sinh ra ngày này? Tại sao phải lo quà tặng hết người này đến người kia? Tôi chỉ ao ước mình như chú gấu ngủ đông cho qua mùa Giáng sinh năm nay.

Nhưng tôi không thể làm như vậy. Tôi đành cố lách qua đám người đông đi lại như kiến để xông vào chỗ bán đồ chơi. Tôi nhìn thấy một con búp bê rất xinh xắn. Nghĩ rằng con gái sẽ thích, tôi cầm con búp bê và ra quầy tính tiền.

Bỗng nhiên tôi thấy một chú bé đúng gần đó, tay mân mê một đôi hài màu đỏ thật xinh xắn, dễ thương. Chú bé ôm đôi hài trên tay mặt sáng rỡ. Chú bé độ 7 tuổi nhìn đôi hài mắt sáng như nhìn một món đồ chơi mà nó rất yêu thích. Chú bé đang tranh luận với người tính tiền:

– Cô có chắc là cháu thiếu tiền không? Cháu tính rồi là đủ tiền cơ mà!

Cô gái trả lời có vẻ rất bực tức:

– Cháu biết là cháu không đủ tiền rồi mà. Đừng có đứng đó hỏi nhiều nữa. Cháu đứng qua một bên để cô tính tiền cho người khác, khi nào tìm đủ tiền thì bảo cô.

Tôi nhìn chú bé khuôn mặt buồn bã mình đứng nhìn đôi hài. Quan sát một lúc tôi hỏi:

Cháu mua đôi hài cho em gái cháu hả.

– Dạ không, cháu mua cho mẹ của cháu. Mẹ cháu bệnh rất nặng, và ba nói mẹ sắp đi gặp Chúa Giêsu rồi. Đôi hài này mẹ cháu thích lâu lắm rồi, cháu muốn mua cho mẹ, để mẹ mang đi gặp Chúa Giêsu. Mẹ sẽ đẹp lắm, sẽ vui lắm!

Nghe đến đây, tôi mới hiểu ra là mẹ của cậu bé đang hấp hối, nhưng cậu bé còn quá nhỏ để hiểu chuyện tử biệt. Và một nỗi đau xót tràn vào hồn tôi. Chú bé nói tiếp:

– Cháu nói với ba rằng dặn mẹ đừng đi ngay, nói mẹ đợi con đi chợ về. Cháu còn thiếu vài đồng nữa mới mua được đôi hài, tất cả tiền cháu để dành lâu nay vẫn còn chưa đủ. Chú có thể giúp cháu không? Mai mốt cháu sẽ đi làm trả lại cho chú.

Nhìn chú bé tiu nghỉu cúi đầu im lặng. Tôi thò tay vào túi lấy tiền trao cho chú bé.

– Đây, cháu lấy đi trả tiền rồi lo về với mẹ, đôi hài đẹp lắm!

Khuôn mặt chú bé chợt tươi rói và nói:

– Vâng, cảm ơn chú rất nhiều! Chúa sẽ chúc lành cho lòng tốt của chú. Mẹ cháu sẽ vui lắm khi mang đôi hài này đi gặp Chúa Giêsu.

Tôi bước ra cửa tiệm, trên đường lái xe về nhà tôi vẫn còn nhìn thấy khuôn mặt ngây thơ của chú bé đáng thương. Tình yêu của chú bé dành cho mẹ quá mãnh liệt. Như một thiên thần Chúa gửi, cậu bé đã nhắc nhở tôi ý nghĩa của Giáng Sinh, mùa của yêu thương và ban tặng.

Asia Giáng Sinh đặc biệt | Nhạc Giáng Sinh Hải Ngoại xưa bất hủ | Đêm Noël SBTN Hoa Kỳ

Nụ Hồng Mong Manh—Hoàng Thục Linh | Official Music Video

Coronavirus Pandemic (full film) | FRONTLINE PBS

Cô Ba Sài Gòn—Hoa Trạng Nguyên

cats1

Một tấm hình cũ, nữ sinh Sài Gòn trước năm 1975

Hôm nay là thứ năm, cô Ba Nguyên đang khuấy nồi bột gạo để làm bánh bột chiên chuẩn bị cho những buổi ăn sáng cuối tuần. Tiếng điện thoại, treo trên tường trong góc nhà, vang lên.

– Ai mà điện thoại vậy?

Dạo này mấy nhà quảng cáo cứ hay làm phiền, nhưng tò mò cô cũng ngừng tay, hạ lửa nhỏ, đến gần điện thoại, liếc qua area code, hình như là của bên Texas. Chắc là của Mai, con nhỏ bạn thân vẫn gắn bó từ thời tiểu học đế giờ. Nghĩ cũng vui vui – Mai là bạn thân với cô, và cô là bà mai của nó. Nhưng bây giờ Mai là bà nội rồi mà nó vẫn còn thiếu cô Nguyên một cái đầu heo mối lái. Thôi thì cũng được, dù sao vợ chồng Mai cũng sống với nhau đến đầu bạc rồi. À thì ra cô cũng có duyên trong vai bà mối giỏi nối kết duyên lành cho những kẻ hữu duyên thiên lý.

Tiếng Mai Bắc kỳ vang lên:

– Dạo này ra sao? Cô Ba Nguyên. Tao bận lắm vì làm bà nội rồi. Con dâu tao vừa đi chơi về từ Little Sài Gòn ở Nam Cali, nó đem về nhiều thứ mà Texas này không có. Một bộ áo dài ở chợ Phước Lộc Thọ chỉ có 30 đô, nên nó cũng mua cả chục cái áo dài thời thượng, phần tao 4 cái, nó nói kiểu này là kiểu cô Ba Sài Gòn, hoa văn, ca-rô khác màu 2 cái, bông hoa li ti 2 cái, tao chợt nghĩ tới mày, phải chia cho mày 2 cái, ngày mai tao sẽ ra bưu điện để gởi làm quà cho mày. Kiểu áo dài này trở lại thời thượng của tụi mình, nó giống tên tộc cúng cơm của mày – Cô Ba Nguyên, hì hì … Cô Ba Nguyên Sài Gòn.

Cái Mai Bắc kỳ, cận thị, mặt trắng, mỏ cong này, nó cũng còn nhớ đến mình. Cô thấy hơi vui, nói là ở chung xứ Mỹ, nhưng hơn hai chục năm nay cô Nguyên chỉ qua Texas thăm nó có một lần.

Mai Bắc kỳ sinh quán ngoài Hà Nội, cha mẹ nó di cư năm 54, rồi định cư ở Sài Gòn. Mai nhỏ hơn cô Nguyên 1 tuổi, nhưng hai đứa cùng học chung một lớp, bậc tiểu học ở trường Cầu Kho, đường Trần Hưng Đạo quận nhì. Nhà Mai và nhà cô Nguyên cách nhau con đường Phát Diệm, ở lớp thì ngồi chung một bàn, đi học về hai đứa cũng chung một lối, nên rất là thân, chỉ rẽ ra khi đứa nào về nhà nấy.

Buổi chiều hay cuối tuần, cô Nguyên thường chở Mai bằng chiếc xe đạp, đi lanh quanh các con đường nhỏ gần nhà như Cao Bá Nhạ, Võ Tánh, Cống Quỳnh. Có một lần làm gan, hai đứa theo lề đường Trần Hưng Đạo đạp xe ra tới chợ Sài Gòn, rồi trở về nhà cũng bằng lề đường cũ. Nghĩ lại, cô Nguyên thấy hai đứa thật là gan, vì lúc đó cả hai đứa chưa đứa nào được đến 10 tuổi… Cô Nguyên Nam kỳ xuề xòa, chậm chạp, trái lại Mai Bắc kỳ thì nhí nhảnh, lanh lợi, mỏ cong, nó hay thích làm quân sư cho cô, thôi thì cũng được, có sao đâu! Bạn thân mà! Dân Sài Gòn hồn nhiên dễ tánh, thích hòa đồng.

Xa quá rồi, cô Nguyên là người con gái đất Sài Gòn, hòn ngọc Viễn đông, thân thiện, tự nhiên, hồn nhiên dưới mắt những nhà phê bình về gái Bắc, Trung, Nam. Hơn thua, không tế nhị và sao đi nữa thì cô cũng là con gái Sài Gòn, thích ăn hàng vặt, thích cười giòn tan… đặc tính của người thiếu nữ Sài Gòn là thế. Thôi thì cứ giành đoan trang, thùy mị, kín đáo, cho các nàng thần kinh xứ Huế. Nhanh nhẩu, kiểu cách, thanh lịch cho các cô chiêu Hà Thành.

Cô Nguyên lớn lên trong gia đình hạnh phúc, có cha là dân Nam kỳ hiền như cục đất và mẹ là bà Trung kỳ quan liêu, tỉ mỉ, kiểu cách… Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, tổng thống Ngô Đình Diệm, kinh tế miền Nam ổn định, nhà nhà đều ấm no, các cô thiếu nữ Sài Gòn không đẹp rực rỡ, nhưng thử ngắm lại những tấm ảnh tan trường về của những nàng tuổi thanh thiếu niên thì sẽ thấy … ôi thật là kỳ diệu, thật là thanh thoát, nhẹ nhàng trong tà áo dài trắng quấn quýt bên chân, hay tung bay trước nắng gió Sài Gòn:

Áo dài vạt nắng ngây thơ,
Đùa như cánh bướm trong mơ xuân về.
Nửa vành nón lá nghiêng nghiêng,
Tóc dài lưu luyến lòng anh bao giờ?

(thơ trích)

Và trong đám quần hồng đó là những hình ảnh của cô và chúng bạn, con gái Sài Gòn, một thời để nhớ!

Ông bà ta nói con gái là phải đủ Công, Dung, Ngôn, Hạnh. Xin miễn! Thời ngày xưa đó, cô chỉ biết nhiều đến từ Dung, là cái vẻ đẹp, cái mặt dễ nhìn, da trắng là xinh rồi. Công thì quá tồi vì có biết gì là nấu cơm, làm việc nhà. Vào bếp một phút là đổ nước mắm, rớt cái chén, đứt ngón tay… bị mẹ ban cho một cái cốc đầu, chảy nước mắt và chạy ra khỏi bếp. Còn Ngôn và Hạnh thì cô thường bị cha nói “Con gái chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy là đồ vô duyên…” Cứ mặc kệ! Con gái Sài Gòn mà cha!

Nhưng con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh. Cô Nguyên được ở cha cô cái thật thà Nam bộ, nợ của mẹ cái tánh tỈ mỉ, chi li, ngăn nắp.Thích cái lí lắc, lanh lợi của đám bạn gái Bắc kỳ, và cũng học lén được cái thâm túy, ẩn tàng nết lãng mạn của các chị em bạn dì gốc Huế của cô.

Cuộc sống cô Nguyên bỗng đẹp khi cô bắt đầu quyết định chuyển hướng cho việc “đầu tư” làm cô học trò ban C. Cô Nguyên không là nữ sinh của các trường công lập như Gia Long, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt. Cô đậu hai bằng cấp tú tài ở trường Trường Sơn, trường này ở góc đường Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt. Thầy hiệu trưởng là Nguyễn Sĩ Tế, một ông thầy luôn có đôi mắt kính ve chai xanh đen, nghiêm nghị khó hiểu. Một trường nổi tiếng là nhiều hoc sinh trường Pháp vào học nhảy lớp để lấy bằng, một trường toàn là học sinh “cúp cour” để rong chơi phố phường.

Cô Nguyên thì cũng thế, vì cô cũng chán làm sao khi trong giờ lý hóa, cô không biết cân bằng các phân tử hóa học, giờ toán thì ngu đần, các xác xuất, thống kê, quỹ tích, hình học không gian mơ hồ… Giờ vạn vật cô ráng ngồi lại lớp vì thích vẽ vời.

Cô Nguyên là đứa con gái thứ ba trong nhà. Cha mẹ cô không thương cô lắm, vì ông bà cứ trông đợi lần sinh thứ ba này của mẹ, hy vọng là con trai, nhưng lại là cô Nguyên. Cô không từ tốn nhẹ nhàng như các chị, có lẽ cô có phần nhiễm cái chút lanh lợi của đám bạn gái gốc Bắc? Và cái nhược điểm mà cha mẹ cô ghét nhất, đó là cô Nguyên học dốt nhất nhà. Các chị em cô điểm hạng nhất nhì hàng tháng, cô thì không đội sổ nhưng chỉ dứng hạng dưới trung bình giữa hàng lớp 50 học sinh.

Nhưng mà học tài thi phận, cô lại vào đại học trước các chị. Mấy năm sau các chị và em cô mới lẹt đẹt vào văn khoa, luật khoa. Cô Nguyên thì may mắn được đậu đại học, mỗi tháng được học bổng cho đến ngày tốt nghiệp thì làm công chức nhà nước. Không danh vọng gì chỉ là một cô giáo trung học công lập mà thôi. Cô Nguyên biết, cha mẹ cô không trải tình thương của ông bà đối với cô không bằng các chị và em cô nhưng ông bà rất hãnh diện về cô, một đứa con gái mà lúc nhỏ tương lai không đoán được, vì trong gia đình, cô là đứa con hạng kém về mọi phương diện. Có lần mẹ cô Nguyên quát mắng vì điểm hạng của cô:

– Học đội sổ như vậy, thì sau này mi làm gì mà ăn?

Vì đang vắt nước cam cho cha, cô Nguyên nói ngang:

– Làm người ở, một tháng 500 đồng, đủ ăn rồi!

Khi xong tú tài 1 rồi, cô Nguyên lại muốn có được tú tài 2. Nhẫn nại và cố gắng, những ngày nắng, ngày mưa, đi qua nhiều ngã đường Cống Quỳnh rát nắng, Bùi Chu xôn xao áo trắng của các nữ sinh Nguyễn Bá Tòng, Sương Nguyệt Ánh cây dài bóng mát, Hồng Thập Tự nhộn nhịp dập dìu xe cộ để đến trường… Ngắm cây dài, bóng mát, hoa sao trắng rơi nhiều vào tháng 12, cô Nguyên bâng khuâng ước mơ… cô thích làm tiếp viên hàng không, cũng thích làm ký giả nhà báo, nghề nào cũng tự do thoải mái. Nhưng ước mơ chỉ là ước mơ… tiếp viên hàng không cần vào chiều cao, ký giả nhà báo thì cũng bương chải đó đây, không biết cha mẹ có bằng lòng không?

Tú tài ban C chỉ có hai trường đại học nhận mà thôi, đó là Sư Phạm và Quốc Gia Hành Chánh. Trường quốc gia hành chánh thì sao nhiều con trai vậy, chắc cô Nguyên thua họ rồi. Hẳn là cô có duyên với nghề “quân sư quạt chữ.”

Khi đến ngày tốt nghiệp ra trường, cha cô hỏi:

– Bây giờ có thích làm người ở nữa không?

Cô Nguyên không trả lời cha, mà trong lòng cô đang nghĩ… cô sẽ mang giày cao gót, áo dài đẹp bay trong sân nắng gió, ở một tỉnh thành xa Sài Gòn… vào trường, đến lớp để giảng những bài giảng văn.

Giấc mộng của tuổi thanh xuân, giấc mộng của cô Nguyên tan tành theo mây khói, nó vụn vỡ dưới mười tầng địa ngục, vì ngày 30/4 năm 1975 đó.

Việt cộng nó vào rồi!

Tiếng khóc nghẹn uất trong lồng ngực của toàn dân miền Nam. Cô Nguyên muốn quên nhưng đầu vẫn nhớ, những đau thương, chết chóc, đói khổ, cơ cực, bần cùng… đã phủ lên miền Nam, lên Sài Gòn yêu dấu của cô.

Thời 75 bóc lột đó, tay làm, hàm nhai, cũng chưa đủ nuôi thân, có lấy đâu mà bám víu vào gia đình, cha mẹ cũng chỉ đủ phần cho cha mẹ. Có như vậy dân miền Nam mới biết thế nào là thiếu thốn, đói khổ, tằn tiện… Có lẽ tạo hóa bắt con người lúc này phải nghĩ đến sự sinh tồn … Sĩ diện cá nhân trốn đâu mất, trơ cái mặt thản nhiên để làm những việc trái với lòng …

Cô Nguyên là cô giáo văn chương trường đảng Công Nông. Cô là dân Sài Gòn, VNCH, cô không hiểu nhiều về XHCN, nhưng khi vào lớp, cô nói như con két đỏ, giảng bài trôi chảy, hình như âm thanh không phải là của cô, mà là một cái máy nói. Tiếng vọng trong đầu lao xao, xa vắng, lòng cô thản nhiên, vô tâm với nội dung bài giảng… Nói và ghi nốt trên bảng cũng đúng như một cô giáo yêu nghề. Con người ta khi đã không còn sống được với cái lý tưởng của mình, thì trái tim không còn sự cảm xúc. Có quan niệm nghề giáo bạc như vôi. Mấy thằng học trò cộng sản đã hỏi cô:

– Học trò gặp cô ngoài đường, chúng không thèm chào cô thì sao?

Đối với bọn ăn cháo đá bát, người vượn này, thì cô Nguyên cũng chẳng cần quan tâm:

– Không chào cũng chẳng sao!

Ông Trời cho cô chút chữ nghĩa để khai sáng cho thiên hạ, thì cứ nghĩ đó là một nhiệm vụ mà cô phải làm ở trần gian này.

Ôi thời thế, thế thời phải thế! Cái thời đồ đểu, cớ sao phải sống trái với lòng!

Với nhịp sống như trẩy hội của Sài Gòn, thiên hạ thường hay bình phẩm “Về tình cảm, con gái Sài Gòn dễ chấp nhận tình yêu và cũng dễ dàng phụ bỏ người tình.” Mặc ai nói nghiêng nói ngả, cô Ba Nguyên, người con gái Sài Gòn thích yêu, thích đợi chờ vô vọng trong tuổi xuân lặng lẽ trôi qua mà không sợ lỡ thì. Có ai đã yêu và tình yêu có chút trắc trở thì mới hiểu được cô đơn, cái nhớ gặm nhấm quanh quẩn… Tình chỉ đẹp khi tình dang dở, thật là không thực tế, yêu nhau mà không trọn vẹn với nhau, thì buồn nẫu ruột.

Sông dài con cá lội biệt tăm,
Phải duyên chồng vợ ngàn năm em vẫn chờ…

Cuộc đời dâu bể đổi thay, thì giá trị của hạnh phúc càng được vạn tuế khi bản thân trải qua những cảm nhận chịu đựng đau khổ, mất mát.

Sông có khúc, người có lúc, khi tình yêu được thăng hoa là khi cô Nguyên cùng một nửa của cô được đi định cư ở Hoa kỳ. Người Mỹ bản xứ gọi cô là ngườI Mỹ gốc Việt, chính phủ Việt Nam XHCN xách mé gọi cô là “khúc ruột xa ngàn dặm,”“Việt kiều yêu nước,” nhưng cô Nguyên vẫn mang trong đầu “Cô là những người Việt tha hương, và bây giờ, đây là quê hương thứ hai, sống, chăm chỉ làm việc, nơi đất khách quê người này cũng là nơi an giấc ngàn thu của cô.”

Ngày tháng đã trôi thật mau cuốn quýt, bận rộn, chật vật của giờ giấc ràng buộc hằng ngày. Dòng đời của cô cứ trôi qua, không đếm được. Bây giờ, thời gian đã qua đi trên xứ Mỹ này đã dài hơn thời gian cô được sinh và trưởng thành ở Việt Nam.

Đếm thời gian bằng tuổi và năm, cô Nguyên đã không còn thanh xuân vì cô không còn lanh lẹ, mẫn cảm, tóc bạc, da mồi, mắt mờ lệch lạc… Những dấu tích thời gian dẫu có ban cho cô nét già nua xấu xí, nhưng tâm hồn cô vẫn thanh tân, yêu đời, vui vẻ, hòa đồng. Cô Ba Nguyên tiếc nuối tuổi xuân, cô ước ao mình trẻ lại để hưởng những thú an nhàn mà tuổi trẻ cô phải bỏ qua. Hôm nay trong tuổi xế chiều, cô Ba Nguyên thường đồng hành với chị em cùng chí hướng, những người chị em không cùng huyết thống họ hàng… Đã nói gặp nhau là duyên, và duyên này tốt nên các cô thành nợ chị em. Cũng may mắn là những người chị em khác họ có cùng tâm đầu ý hợp, thích làm việc xã hội, cộng đồng, đoàn thể … mà thiên hạ thường chế diễu … “Mấy bà nội, bà ngoại này thích làm chuyện ruồi bu.”

♦ ♦ ♦

Khi lên đường rời xa quê hương Việt Nam, các gia đình chị em khác họ của cô Nguyên được mệnh danh là những gia đình cựu tù nhân chính trị. Đại đa số là thành phần quân nhân của miền Nam Cộng Hòa, đã bị tù khổ sai, còn bị gán cho là…  có nợ máu với đồng bào. Ghê chưa! Toàn là những sáo ngữ vu khống, trịch thượng. Bọn VC khỉ vượn, tiểu nhân đầy gian trá thích vẽ chuyện để gây thù, chuốc oán cho người Việt xâu xé lẫn nhau, vậy mà cũng tự hào nước Nam ta có ngàn năm văn hiến. Nước Mỹ lập quốc hơn hai trăm năm, họ cũng có nội chiến, miền Nam cũng thua trận bởi miền Bắc. Nhưng khi chiến tranh chấm dứt, nhũng tù nhân miền Nam được tự do  trở về đoàn tụ với gia đình. Thật là một đất nước  nhân bản và đầy tình người. Khi sắp trở thành công dân Hoa Kỳ, cô Nguyên được nhân viên của sở di trú yêu cầu:

– Xin cô viết một câu tiếng Anh.

Cô viết liền một câu:

– My family have 4 people, me, my husband, my daughter and my son.

Nhân viên sở di trú hỏi thêm:

– Have your family paid tax for government?

Chao ơi câu này hơi khó vì hình như không có trong bài học thi quốc tịch, cô nói bừa:

– I don’t know, but I know my husband must have paid tax for government at the end of the tax year.

Lại thêm một câu khó nghĩ:

– If the war come to America, what shall you do?

Liên tưởng đến chồng cô là lính hiện dịch VNCH bị tù đày, và gia đình cô lúc đó chỉ là những thường trú nhân. Thêm một lần thứ nhì cô lại nói bừa:

– I will tell my son go to the Army.

Xong hai câu trả lời theo bất chợt của bản năng, đầu cô hoang mang, mặt cô nóng bừng, không biết có được không?

– OK! you should celebrate your citizenship. Congratulation!

Ra khỏi phòng phỏng vấn, xung quanh những người chờ đợi vào thi, cũng mừng chung với cô, thật là may mắn, cô thi có một lần mà đậu. Từ đây Việt Nam dân chủ cộng hòa sẽ tung hô cô là kiều bào VN ở Mỹ, không còn là dân Mỹ ngụy phản động nữa. Rõ là “Cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, lấp liếm.”

Nước Mỹ tháng nào cũng có lễ hội. Những lễ hội lớn của người dân bản xứ như lễ Độc Lập, lễ Tạ Ơn, lễ Giáng Sinh, tết Dương lịch. Những ngày này cũng là thời gian nghỉ phép dài hạn để người dân có dịp đi du lịch, thăm viếng đó đây. Trong khi đó những người dân Mỹ gốc Á, gốc Châu phi, gốc Trung đông … cũng có quyền tổ chức những lễ hội truyền thống của xứ sở mình. Nước Mỹ là hiệp chủng quốc, đa văn hóa, bình đẳng, cấm kỳ thị đã thành luật được biểu quyết trong hiến pháp nên người người đều hòa đồng, thân thiện. Dân Mỹ, Mễ … thích ăn phở tái, bánh xèo chả giò thì dân Á đông cũng thích pizza, mì ống xào, BBQ…

Nếu cá nhân nhận thức rõ được Chân, Thiện, Mỹ, thì tự nhiên sẽ có được đầy đủ nhu cầu của cuộc sống. Có lẽ đời người có nhiều ý nghĩa khi được sống trên xứ của Nữ Thần Tự Do này. Người nào có tài năng cũng được xã hội ưu đãi. Gia đình cô Nguyên hôm xưa tay trắng trong vai trò những kẻ lưu vong tị nạn, gần 30 năm tay làm hàm nhai,  không có số  làm triệu phú, cũng không mang thân phận bần nghèo, nhưng gia đình cô Nguyên được cái duyên của thong dong, ăn ngon, mặc đẹp, mỗi năm cũng có ít đô-la tiết kiệm để du lịch đó đây …

♦ ♦ ♦

Bản chất con người vốn “tính bổn thiện,” cô Ba Nguyên vẫn còn trong cõi ta bà này, nên cô cũng thích những công tác xã hội.  Từ khi còn là học sinh trung học, cô đã tình nguyện tham gia đi ủy lạo ở nhà thương, trại dưỡng lão, cô nhi viện, công tác cứu trợ các trận bão lụt miền tây, miền trung, nhưng cao điểm nhất là vào thời tết Mậu thân và gần 30/4/75. Nhũng thời điểm này, những khu lao động nghèo như xóm Mả Lạn, xóm Bùi Viện, xóm Nguyễn Thiện Thuật … thường bị đạn pháo kích của cộng sản làm cháy nhà, hoặc bị những tên nằm vùng đốt nhà hòng chạy lẩn vào thường dân để thoát thân. Những người dân bị thương, máu đổ, tiếng rên, tiếng khóc, tiếng còi xe cứu thương cấp cứu, xe chữa lửa rền cả trời Sài Gòn. Ngày hôm sau, một đoàn học sinh xã hội tình nguyện đến, hăng hái bắt tay cùng nhau dọn dẹp những vách gỗ, cột nhà đen xì, những mái tôn cháy dở ngã đổ, phải dọn dẹp sạch, để người dân trở lại cất nhà để tránh mưa, trốn nắng… Những tình nguyện viên làm việc với một tấm lòng không tính toán, phải chăng đó là lòng bác ái tiềm ẩn trong cái sở thích, thường trân quý dành tặng cho những người… “thiện tâm vốn ở lòng người.”

Trôi dạt qua Mỹ, tính nào tật  đó, những ngày lễ như Thanksgiving, Giáng Sinh, cô Ba Nguyên cùng một vài người bạn cùng giúp quà cho những người vô gia cư (homeless). Những ngày lễ này, cứ sáng 25/11 và 25/12, ở đường số 7 sau  building màu đỏ, đối diện với nhà vĩnh biệt Santa Clara, một dịch vụ xe lunch, phối hợp với nhiều bạn hữu giúp homeless một bửa ăn trưa, một số nhà hảo tâm khác tặng thêm quần áo, mền, dụng cụ vệ sinh… Những buổi sáng đó, mặt trời còn ẩn trong sương,  Để xua giá lạnh, cô Nguyên cũng cùng đứng chung với  những bạn bè xa lạ cùng hát những bài thánh ca … cứ hát… cứ hát để lòng được ấm, để chờ những người không nhà đến đông đủ!


CHUYỆN CHỊ EM

Ở những ngày cuối tuần, việc hội họp vui đùa, ăn uống trong cái tình đồng hương, cũng làm giảm bớt đi những căng thẳng mệt nhọc của những ngày làm việc, việc nội trợ trong tuần. Chị em râm ran tâm sự chuyện gia đình, chuyện chồng con, những chuyện khổ lòng được nhẹ đi trong tâm trí. Thông cảm, tâm đầu, ý hợp, dù chị em cô Nguyên là những người dưng khác họ. Chị em nối kết, thân thiện qua chồng của chị, chồng của em, các anh cùng học chung một trường Võ Bị, xếp thứ hạng cùng bằng hành trang là lính hiện dịch của Việt Nam Cộng Hòa.

Trường Võ Bị đã trui rèn những chàng trai xếp bút nghiên để theo nghiệp kiếm cung. Các anh là những người hùng cho đất nước ở thời chiến, và cũng là những người ưu tú trong thời bình. Vận nước suy vi, đẩy miền Nam thành xã hội cộng sản. Là lính chiến của thời binh lửa, chí tang bồng chưa trả nợ cho sông núi mà miễn cưỡng, bất đắc dĩ phải giã từ vũ khí, có lẽ các anh trăn trở cả đời…? Mấy chục năm nay, thời gian cũng xóa bớt đi nỗi buồn vong quốc, tâm hồn thêm nhiều rong rêu… anh còn, em mất, ngậm ngùi tứ phương đổ về lập hội Võ Bị Lâm Viên, mỗi lần anh em có dịp gặp nhau, tay bắt, mặt mừng, tâm sự quên cả thời gian. Còn riêng chị em chúng tôi thì cũng theo cái truyền thống xuất giá tùng phu, vì vậy mà:

“Đi đâu cho thiếp theo cùng, 
Gian nan thiếp chịu, cơ hàn thiếp vẫn cam…”

(ý câu được đổi từ, cho phù hợp với hoàn cảnh, thời gian)

Trôi nổi đến xứ người tha hương, thiên hạ vinh danh chị em chúng tôi là dâu hiền VB, ngày hôm nay, chị em chúng tôi là những thành viên trong Đoàn Phụ Nữ Lâm Viên. Lâm Viên là tên ngọn núi nằm trong cao nguyên Lâm Viên, cao hơn mặt biển 2,169m. Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (VBQGVN) tọa lạc trên cao nguyên này. Núi Lâm Viên là đỉnh điểm mà các tân khoá sinh của trường VBQGVN phải chinh phục, trước  khi được gắn anpha để được chấp nhận là Sinh Viên Sĩ Quan năm thứ nhất của trường. Màu áo dài đồng phục của đoàn là màu xanh da trời nhạt, giống màu khăn quàng cổ của các anh trong mùa tập quân sự, đoàn kỳ cũng màu xanh, phù hiệu đoàn là hình ảnh  người phụ nữ tóc dài, có cờ vàng ba sọc đỏ yểu điệu quấn quýt bên bờ vai, hai tay trân trọng nâng phù hiệu của trường Võ Bị. Đoàn PNLV nhận những công tác yểm trợ như khánh tiết, tiếp tân, ẩm thực, thăm viếng, ủy lạo của Hội Võ Bị, và có thể gia nhập vào công tác xã hội nếu có sự yêu cầu của hội.

Từ Đại Hội VB XI tổ chức tại San Jose, các chị em trong vai trò tiếp tân, các chị em, cùng đồng ca bài “Cô Gái Việt” thật hùng tráng. Và cũng từ đó Đoàn Phụ Nữ Lâm Viên ở các tiểu bang khác cũng được hình thành. Với bản tính tự nhiên của dân Sài Gòn, cô Ba Nguyên không do dự hòa đồng với các chị, các em một cách thân thiện, những công việc yểm trợ mà hội VB cần sự giúp đỡ của phụ nữ, chị em trong đoàn PNLV/BCL hổ trợ mà không tính toán thua thiệt. Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ngoài những sinh kế cho gia đình, các anh cũng bỏ nhiều thì giờ để cũng cố Hội VB hải ngoại, giữ gìn truyền thống quốc gia của trường, hướng về quê hương và tổ quốc VN, ái hữu và tương trợ trong tình tự Võ Bị.

Tưởng rằng tình bằng hữu, nghĩa anh em cùng trường mấy chục năm gắn bó trong quân trường, ngoài chiến trường, trong tù ngục, đã làm rạng danh cho trường mẹ ở xứ người, nhưng lại tan hàng, xẻ nghé bắt đầu từ đại hội XX. Vài con sâu, làm rầu nồi canh, một vài ông “già Bù gần đất xa trời” thích làm cố vấn, vẽ chuyện cho “ông hoàng 11 tuổi” chưa từng ra chiến trường, nhưng thích được vạn tuế bởi danh xưng hão, cộng thêm một đám bát nháo, “gà què ăn quẩn cối xay,” ăn sóng, nói gió, nói trắng thành đen.

Một chị em trong đoàn tâm sự:

Bên Nớ thích những danh hão đó, sao không tự tách ra để xưng Bá, mà sao lại thích  mượn danh Võ Bi để mất danh dự của trường. Nhiều lúc tui thấy ông xã của tui thức khuya mà làm cho hết việc của VB, mà tui bực mình, vì ngày mai còn dậy sớm để đi cày, có mỏi vai, mỏi lưng, nấu nước cũng do tui thủ vai đào chánh phải lo… Mấy chị thấy đó, vụ cuốn sách lịch sử trường VB, bên Nớ rao là ăn cắp bản thảo. Hừ! Ăn cắp bản thảo sao các tác giả của từng khóa không khiếu nại. Những ngày còng lưng miệt mài sửa bản chữ, tình tiết trong sách theo yêu cầu của tác giả, lỗi chính tả… cuốn sách dày gần ngàn trang, tui cứ phải thầm mong cho computer không bị trục trặc. Nhà tui thì nhỏ xíu, mấy ông cứ đến phụ, rồi cũng đi… cuối cùng rồi ông quan già nhà tui cũng ôm trọn gói… Rồi còn phải liên lạc với nhà in để trao bản thảo. Vác ngà voi trị sự mà kiêm đủ thứ, cái ngà voi này chết tiệt thật! Mắt mờ, miệng ngáp, râu cũng biếng tỉa, tóc thì xù ra… nhưng có cà-phê, trà, góp sức, mà ngồi trọn một ngày. Cũng may lúc đó cựu quan nhà tui được nghỉ phép 2 tháng. Buổi chiều, đến giờ ăn tối thì chán ăn cơm nhà, tụi tui đành đi ăn cơm dĩa, cơm tiệm. Tui cũng thấy tội nghiệp tấm lòng vác ngà voi của cựu quan nên cũng thông cảm, không còn muốn nhằng nhì, càm ràm…

Ngày  ra mắt sách, đúng là một ngày hội, trời thì trong xanh, gió buổi sáng nhè nhẹ làm lòng ai cũng phơi phới. Các cựu quan sắp hàng ngoài cổng chào với đồng phục của trường Mẹ, tui thấy ai cũng vui tươi, hùng tráng, hớn hở. Vào hội trường thì cũng quá đông, dù chưa tới giờ khai mạc. Đây là một món quà tinh thần cho các chàng VB sớm giã từ vũ khí.

Sách đã ra được 4 năm rồi, mà bên Nớ cứ rêu rao sẽ in một cuốn Võ Bị truyền thống nữa, mà có thấy đâu! Chờ bên Nớ xuất bản sách “bình mới, rượu cũ” thì mấy ông quan lão VB này chắc chắn đem về miền cực lạc để đọc. Bây giờ các quan nhà ta đều gần đất xa trời, chỉ còn duyên dáng với mấy chị Sáu tấm, chống cộng thì tốt, chứ bên Nớ không đồng thuận với bên Ni thì còn đâu là danh dự trường Võ Bị danh tiếng một thời lừng danh Đông Nam Á (hết trích)

Những thị phi của người đời, làm xấu chàng, hổ thiếp… nhưng biết làm sao, khi trong tim óc các chàng vẫn nhớ mình là kiếp lính vẫn còn nợ với non sông, nợ với trường Mẹ, “chí vẫn mong tiến bước, nhưng sức không kham nổi đoạn đường,” vì thế các chàng của chị em chúng tôi cứ thích gác ngà voi mà làm việc “ruồi bu” cho tập thể, cho  trường mẹ yêu dấu.

Các ông quan Võ Bị bảo “Làm để trả ơn cho Người.”

Tấm lòng sắt son, ý chí quả cảm, để đạt đến thành công, mà không màng bổng lộc, danh phận, đã đánh thức được sự cảm động, cảm thông của các chị em chúng tôi. Thôi thì đành vậy, các anh dù sao cũng là đấng nam tử, là những  người có tấm lòng tình nghĩa, uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây.

Trong  tập thể, có những người tự  bỏ tiền ra để lấy danh, cũng có những người dùng danh dể làm lợi cho riêng mình, cũng có những hạng người thích mượn hoa cúng Phật… Ở Đoàn PNLV/BCL chính thức hoạt động từ 2002 đến hôm nay, cô Nguyên vẫn còn nhớ mãi chị Nguyễn Thanh Nhàn là  hiền thê của anh Nguyễn Bảo Cường khóa 13. Mỗi lần Đoàn PNLV/BCL có chút gió Chướng lạnh và khô, thì chị là ngọn gió Nồm làm dịu lòng mọi chị em trong đoàn, mặc dù trên thực tế chị Thanh Nhàn là một người nóng tính và ngay thẳng bộc trực. Con người nào mà toàn vẹn hoặc có thể làm vừa lòng mọi người, nhưng có lẽ cô Nguyên thích chi Thanh Nhàn ở tính ngay thẳng, bộc trực. Gần chục năm rồi, chị đã về miền miên viễn xa xôi, nhưng lòng cô Nguyên vẫn còn chút buồn bâng khuâng hối hận khi nhớ đến chị. Những lần gió Chướng nổi lên và cũng có ít nhiều chính kiến không thích hợp, thế là cô Nguyên lẩn tránh đoàn, dù cho chị Thanh Nhàn nhiều lần xoa dịu lẫn nhẹ nhàng trách móc “Em đã bỏ chị rồi!”

Bâng khuâng, tự hối cô Nguyên đã trở lại với chị em trong Đoàn PNLV/BCL chung tay tiếp tân, yểm trợ, thăm viếng… những đóng góp không cần danh phận, cũng không cần tước vị trong đoàn, mà hình như những việc làm này cũng rất thú vị, đem lại thoải mái cho tâm hồn… Chúng tôi chọn quà cho các chị quả phụ cô đơn, xắp xếp họp mặt cho các chị. Mua quà cho các anh chị nằm ở nhà thương, nursing home, chọn bông để làm vòng tưởng niệm truy điệu, khánh tiết, shop sale ở mỗi mùa, tính toán khẩu phần ăn uống cho những buổi họp thường kỳ hay bất thường, sinh hoạt hè, đại hội Võ Bị hải ngoại, còn tiếp tân thì cũng hoạt bát, xắp xếp tình huống lanh lẹ nhịp nhàng…

27487274137_f0c0fc955d_c

Trình diễn văn nghệ tại Đại Hội Võ Bị 21

Lòng chúng tôi tơ chùng cảm xúc. Rất buồn khi thấy một chị bạn, tuổi già, bệnh tật, không nói mà chỉ ngẩn ra cười. Bâng khuâng buồn khi các chị ôm chúng tôi mà khóc, cản lối không cho về. Thương cảm khi chúng tôi vừa thăm bạn hôm qua, thì hôm nay bạn đã ra người thiên cổ. Chị em chúng tôi cùng chung một tấm lòng, cũng đồng một ý, nhanh và đơn giản, không cầu kỳ, kiểu cách… Phải thực hiện và thành công, dù rằng nhân lực chính không đếm đủ đến 5 ngón tay. Đời thật vô thường, “sắc tức thị không, không tức thị sắc.” Thôi thì làm được gì đẹp cho hôm nay, lợi ích cho hôm nay thì cứ mạnh dạn thi hành, dù cho thị phi lao sao ích kỷ … ăn cơm nhà làm chuyện “ruồi bu!”

20180716_122402 (2)

Những ngày cuối cùng bên chị Trương Bích Bích (K12/1)

Xin cám ơn các chị, em trong đoàn PNLV/BCL cũng đã cùng chung tay góp sức để đưa đoàn đến thành công. Cũng xin chân thành cám ơn chị quả phụ Nguyễn Văn Hiệp K17, cô Thiếu, cô Ngọc Anh, cô Lợi K30 những người “đứng mũi chịu sào” yểm trợ suốt mấy năm qua. Các chị xứng đáng nhận những bông hoa hồng vàng thân thiện, trải lòng nhân ái để gánh vác việc nhà Võ Bị.

♦ ♦ ♦

Tháng Ba, thời tiết mùa xuân tràn đầy trên cành cây, ngọn cỏ, bông hoa cùng nhau đua sắc. Tiết xuân năm nay lạnh hơn năm trước, buổi sáng đi bộ thể dục vẫn phải có đầy đủ mũ, áo như mùa đông, sương mù vẫn còn  dày đặc trên dãy núi Evergreen. Mùa này bông Easter trắng trải đầy hai bên lề đường, cô Nguyên dạo bước một mình, những ý nghĩ rong rêu lại ngập trong đầu. Màu trắng Easter ngập tràn, sao không còn cốt cách tinh anh, mà lập lòe giống màu tang của những người chết vì dịch cúm COVID-19 của Tàu cộng.

Hằng ngày xem tin tức, những quan tài nằm sắp lớp ở nhà thờ, các cha ở Ý mặc áo chống dịch, mặt đeo khẩu trang, họ chắp tay cầu nguyện cho những người quá cố, chết vì cúm Tàu. Ở New York, xe cứu thương gấp rút cấp cứu, những nhà thương dã chiến cũng được dựng lên gấp rút. Bệnh nhân, bác sĩ, y tá, y công, dược sĩ làm việc ngày đêm. Đối phó, làm việc trong căng thẳng, họ mất sức là cái chắc… Những cái chết đến hàng loạt, cái chết đến thật mau, cũng không có thân nhân nhận xác. Cái buồn, cái xót xa đến với cô dù đó là hình ảnh của những người không thân thuộc. COVID-19, Wuhan virus, thăm viếng khắp nơi trên thế giới, cũng như đất nước Mỹ này. Vi khuẩn tàn độc Tàu cộng này bay đến đâu cũng mang theo bóng tử thần, làm đảo lộn tất cả… Không được tụ tập đông người, ra đường phải đeo khẩu trang, đứng xa cách nhau 2m, quán hàng, hãng xưởng cũng ngưng hoạt động. Hạn chế ra đường, ở nhà là thượng sách, rửa tay 20 giây một lần, cần làm việc này nhiều lần trong ngày…

CH-new-4

Cảnh tượng vắng vẻ của San Jose City Hall (tại trung tâm thành phố) vì dịch bệnh Wuhan, Tàu cộng

Dân Mỹ chết, dân Mỹ lo sợ, dân Mỹ sầu buồn, tổng thống Trump của nước Mỹ lo lắng u sầu, mặt dài ra, đôi mắt giống như mất ngủ. Cầu cho ông chân cứng, đá mềm, lòng vững như kiềng ba chân để xoá đi cho hết sự tàn ác quỷ quyệt của bọn Tàu cộng ác ma.

“Cầu xin thiên chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm.”

Mọi người cũng đều mong mau có thuốc chủng ngừa, cũng mong nhanh có thuốc đặc trị để diệt con quỷ vi khuẩn COVID-19 này. “Bớ ba hồn chín vía thằng chệt Tàu cộng gieo gió thì thế nào cũng gặt bão,” luật nhân quả sẽ nhãn tiền nay mai.

Cemetery-Service-Courtesy

Quang cảnh một tang lễ trong cơn dịch bệnh Wuhan

Tháng Ba cao điểm của thần chết tung hoành, mọi hội họp đều bị hủy bỏ. Không được làm đám cưới, còn đám ma thì chỉ được đưa tiễn người quá cố là 4 người cộng 6 nhà đòn, thế là chị em chúng tôi hủy bỏ tiệc hội ngộ với các chị quả phụ và không biết đến ngày nào chúng tôi sẽ tổ chức lại. Còn việc thăm viếng các chị bệnh tật già yếu, neo đơn thì chúng tôi đã thực hiện một vòng thăm hỏi đầy tình tự chị chị, em em ở gần dịp tết 2020.

Tháng 3 ngột ngạt đã qua, rồi sang đến tháng 4 vẫn còn bóng dáng tử thần quanh quẩn. Không biết ngày nào chúng tôi sẽ lại được ngồi chung với nhau để tính “chuyện ruồi bu,” rồi cùng nhau ăn uống, rong chơi, shopping sale… Tháng 4/75 ở Việt Nam ngày xưa, tan mộng ước ngày xanh. Người Mỹ gốc Việt năm nay không tổ chức được lễ tưởng nhớ những anh linh anh hùng tử sĩ, người dân lành miền Nam chết thảm trong tháng tư đen. Đã 45 năm rồi, bây giờ hôm nay tháng 4/2020 lại là chiến tranh vi trùng COVID-19 của Tàu cộng, có vô số người chết oan trên thế giới. Còn tháng tư nào nữa không?

Và có lẽ trong tháng 4, có chuyện cá tháng 4 cũng sẽ đồng hành thích thú với những người thích vẽ chuyện.

(Viết cho hết ngày, giờ trống rỗng trong mùa dịch COVID-19, Wuhan, Tàu cộng)

Hoa Trạng Nguyên (K25/1)

Bức Tường Đá Đen ‘The Wall of Heals’ đến North Texas—Đinh Yên Thảo

TìmBạnCũ

Tìm bạn cũ (Hình: Đinh Yên Thảo

Đã đi qua khoảng 600 thành phố lớn nhỏ khắp nước Mỹ, bức tường đá đen The Wall that Heals đã về đến thành phố Garland, nơi tập trung đông đúc người gốc Việt tại Dallas, Texas. Đây là bức tường di động mô phỏng theo tượng đài tưởng niệm hơn 58 ngàn binh lính Hoa Kỳ tử nạn trong chiến tranh Việt Nam và vinh danh ba triệu lính Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam, đặt tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Bức tường ắt đã mang lại nhiều cảm xúc cho những người trực tiếp hay gián tiếp can dự vào cuộc chiến Việt Nam đến viếng.

Hình ảnh người đàn ông mang chiếc nón lưỡi trai có hàng chữ “Cựu chiến binh Việt Nam” đang tìm và tô tên một đồng đội nào đó của mình trên bức tường đá đen đập vào mắt, đã gây trong tôi một sự xúc động tức thời. Ông không phải là người duy nhất làm điều này vì có những người khác cũng đang dò tìm hay tô tên môt ai đó, có lẽ thân nhân của họnhững người đã nằm xuống trên mảnh đất Việt Nam xa xôi. Của trên dưới 50 năm trước. Vậy mà cuộc chiến đã chấm dứt gần nửa thế kỷ rồi sao?

Không mang những chiếc áo khoác có những hàng chữ liên quan đến Việt Nam như nhiều người cựu chiến binh khác đang đứng trò chuyện quanh đó, người chiến binh già gốc Mexico mang kính đen, nón lưỡi trai có thêu chữ “Vietnam Veteran” tên Rodriguez trông khá rắn chắc và khoẻ mạnh ở độ tuổi của ông. Rodriguez điềm đạm nhưng thân thiện, từng là một lính thủy quân lục chiến, 18 tuổi nhập ngũ và sang Việt Nam, phục vụ tại chiến trường Quảng Trị vào năm 1969. Con gái tôi hỏi ông bị quân dịch hay tình nguyện gia nhập quân đội. “Tôi tình nguyện”- ông trả lời. “Tại sao?” – con gái tôi hỏi tiếp, cô bé học lớp báo chí trong trường được đôi năm nay nên đã khá dạn dĩ để đặt câu hỏi và tiếp tục câu chuyện. Ông trả lời rất tự nhiên, “Quốc gia cần thì mình tham gia, có đúng không?”. Tôi gật đầu. Đất nước này là quê hương của ông, là nơi ông lớn lên, sống và phục vụ cho nó. Như bạn, như tôi, như con cái chúng ta, bất kể màu da nào. Trên bức tường kia ắt có hàng trăm cái tên họ như ông.

Chiến trường Quảng Trị khốc liệt, lại là Thủy Quân Lục Chiến nên ắt giao tranh nhiều. Tôi hỏi có bao nhiêu đồng đội của ông đã nằm xuống. Ông lắc đầu không nhớ. Người ông vừa tô tên trên bức tường là một người bạn láng giềng cùng nhập ngũ với ông. Rồi nằm xuống đâu đó tại Việt Nam, cùng với một người bạn khác mà ông đã dò tìm. Chúng tôi khá xúc động khi nghe ông kể thêm rằng, khi những người lính trẻ trúng đạn, lúc nào cũng kêu mẹ. Ông nói thêm, “có lẽ con trai luôn thương mẹ”. Quả thật, người lính trẻ chỉ vừa rời trung học, còn nhớ bữa cơm gia đình với mẹ, với cha đã vội đối diện với sợi tơ của hai bờ tử sinh. Rồi nằm xuống. Hầu hết những người lính tham chiến tại cuộc chiến Việt Nam là những thanh niên trên dưới 20, độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời.

Nó là câu chuyện về gói bánh cookie gói giấy của một người mẹ gởi con trai, được trưng bày trên bệ cửa kính của một bảo tàng dã chiến nho nhỏ mà chúng tôi vừa được xem và nghe kể trước đó. Bà gởi sang Việt Nam cho con trai để cuối cùng nhận trả về với hàng chữ lạnh lùng “KIA 10-31-1972”. Đã tử trận, “Killed in Action”. Đau khổ và giận dữ, bà giữ y gói bánh nhiều năm sau cho đến tận năm 1987, sau khi bức tường đã xây xong và đem đặt trước tên con tại bức tường đá đen với những hàng chữ yêu thương.

Hay câu chuyện về chiếc xe mô-tô “Gold Star Bike” cũng được đặt ngay khu trưng bày. Nó là chiếc xe mô-tô của một người cựu chiến binh tên là Steve Davenport tặng cho hội các bà mẹ có con tử trận rồi hội này tặng lại cho tổ chức VVMF (Vietnam Veterans Memorial Fund). Steve và Robert Cupp là bạn thân từ thiếu thời tại Virginia. Cả hai cùng nhập ngũ, Steve đồn trú tại Đức và Robert sang Việt Nam, rồi tử nạn năm 1968. Steve không dám gặp cha mẹ Robert vì sợ gợi cho họ sự đau đớn quá mức nhưng cuối cùng ông nghĩ ông sẽ thay bạn mình để an ủi người mẹ, trở thành như đứa con trong gia đình. Chiếc xe mô-tô của Steve có khắc tên Robert cùng tên vài chục người lính khác, trở thành một “đài” tưởng niệm những người lính tử trận và vinh danh những người mẹ mất con một cách thật đặc biệt.

Có bao nhiêu câu chuyện thương cảm tương tự như vậy? Chiến tranh quả tàn bạo với những người can dự, bất cứ phe nào. Cuộc chiến Việt Nam vẫn còn nhiều tranh cãi nhưng khó lòng để nhìn chính xác từ một phía.

Dăm người cựu chiến binh khác chúng tôi trò chuyện có vẻ vui vẻ hơn, cười to trong những câu chuyện kể. Như Larry, dân Texas chính cống, sinh ra và lớn lên tại Dallas từng đồn trú tại căn cứ Không Quân tại Nha Trang năm 71-72. Chưa ra Đà Nẵng nhưng có vào Sài Gòn vài lần, Larry lặp lại với chúng tôi rằng Việt Nam đẹp. Ông có vẻ thú vị khi biết tôi từ Sài Gòn, quay sang chỉ tôi và nói với những người bạn cựu chiến binh khác về điều này. Không giao tranh, chạm súng với kẻ địch và chứng kiến những cái chết, tôi nghĩ có lẽ nỗi ám ảnh của ông về cuộc chiến nhẹ nhàng hơn những người như Rodriguez.

Từng viếng đài tưởng niệm tại Washington DC đã vài lần nhưng có lẽ lần này lại đã làm chúng tôi xúc động và có nhiều suy nghĩ hơn qua những điều nghe-thấy được. Tôi bảo con gái hãy cảm ơn những người cựu chiến binh và trò chuyện, hỏi thăm đôi điều với họ. Một phần là tôi muốn các con tôi hiểu thêm về cuộc chiến Việt Nam qua dăm câu chuyện sống thực với những người cựu chiến binh này. Những gì tạo nên cảm xúc sẽ đọng lại lâu hơn, khác với những bài học lý thuyết trong trường.

Như người cựu chiến binh gốc Mexico, Rodriguez, bất kể màu da nào thì các em cũng sẽ là những thế hệ di dân xem nước Mỹ là đất nước của mình, nơi các em sinh ra, lớn lên và sẽ phục vụ cho nó. Các em sẽ nhìn lại cuộc chiến với cái nhìn khác hơn những thế hệ đi trước, nhìn trong tâm thức cái tên “hàn gắn” mà bức tường đã mang hay bằng một tâm tình lạc quan, tri ân hơn. Bởi tác giả của đài tưởng niệm đầy ý nghĩa và được xem là một trong những công trình kiến trúc được yêu thích nhất tại Mỹ chỉ là một sinh viên kiến trúc trường Yale mới 21 tuổi là Maya Lin lúc bấy giờ. Maya chọn đá hoa cương màu đen cho bức tường để trong ánh nắng, người viếng sẽ thấy bóng mình phản chiếu trong đó. Để thấy mình là một phần của quá khứ. Và hiện tại. Cùng tương lai.

Nó tựa câu chuyện về chiếc mũ football của một em học sinh tặng cho tổ chức VVMF và được trưng bày tại đó. Em tặng chiếc nón chơi football và dải đeo tay đã gắn bó thân thiết với em suốt thời trung học. Em viết rằng sân banh là “chiến trường” của các em, nó không phải một chiến trường máu lửa mà những người nằm xuống đã đối diện để cho các em có được ngày hôm nay. Tôi nghĩ đó là tâm tình mà những thế hệ tiếp nối của nước Mỹ sẽ cưu mang khi nhìn về cuộc chiến Việt Nam hay bất cứ cuộc chiến nào.

Đinh Yên Thảo

 

Nhớ Mẹ—Thiếu Tướng Lê Minh Đảo & Đại Tá Đỗ Trọng Huề | Trình bày: Lâm Nhật Tiến | SBTN

NHỚ MẸ | Sáng tác: Thiếu Tướng Lê Minh Đảo & Đại Tá Đỗ Trọng Huề | Trình bày: Lâm Nhật Tiến | SBTN

Viện Dưỡng Lão Ở Mỹ—BS. Trần Công Bảo

Image result for asian vietnamese at nursing home"

Nỗi buồn của người già tại viện dưỡng lão

Cổ nhân có câu: “Sinh, lão, bệnh, tử”. Bốn giai đoạn này không ai có thể tránh khỏi. Chuẩn bị ứng phó với bệnh tật và tuổi già của mình và của thân nhân mình là điều ai cũng có dịp nghĩ tới, kể cả chính kẻ viết bài này là tôi cũng đang sắp sửa bước vào tuổi “thất thập cổ lai hi”.

Anh bạn thân của tôi, Bác Sĩ TNT từ lâu có đề nghị tôi viết một bài về “Viện Dưỡng Lão” để giúp bà con mình có thêm một chút khái niệm về VDL vì anh biết trong suốt 27 năm qua tôi đã liên tục săn sóc cho các cụ già tại các viện dưỡng lão, và cũng đã là “giám đốc y tế” (Medical Director) của nhiều viện dưỡng lão trong vùng. Nay tôi muốn chia xẻ cùng quý bạn một số kinh nghiệm và hiểu biết về VDL.

Trong Việt ngữ chúng ta thường dùng từ Viện Dưỡng Lão, nhưng trong Anh ngữ thì có nhiều từ khác nhau như Nursing home, Convalescent home, Rehabilitation and Nursing center, Skilled nursing facility (SNF), Rest home… Nói chung, viện dưỡng lão là một nơi cho những người bị yếu kém về thể xác không thể tự săn sóc cho mình được trong cuộc sống hàng ngày. Thí dụ như không thể nấu nướng, giặt giũ, đi chợ… nặng hơn nữa như không đủ sức để làm những việc tối cần thiết cho cuộc sống như ăn uống, đi tiêu, đi tiểu… hoặc cần phải có thuốc men đúng lúc mà không thể tự làm được.

Khi nói tới viện dưỡng lão người ta thường chỉ nghĩ tới những người già mà thôi. Thật ra có nhiều người “trẻ” nhưng vì tật bệnh không thể tự lo cho mình được cần phải có sự giúp đỡ của SNF (skilled nursing facility). Vậy thế nào là viện dưỡng lão?

VDL là nơi cung cấp những dịch vụ cần thiết cho cuộc sống hàng ngày cho những người không đủ khả năng lo cho chính mình. Tùy theo mức độ trầm trọng của bệnh tật mà có những VDL khác nhau:

1- Skilled Nursing Facility (SKF): Là nơi cung cấp những dịch vụ cho những người bị khuyết tật nặng như tai biến mạch máu não gây nên bán thân bất toại, hôn mê lâu dài, hoàn toàn không còn khả năng ngay cả trong việc ăn, nuốt, tiêu, tiểu… Thường thường tại SNF có hai phần: phục hồi (rehabilitation) và săn sóc sức khỏe (nursing care). Có những người sau khi được giải phẫu thay xương khớp háng (hip replacement), thay đầu gối (knee replacement), hay mổ tim (bypass, thay valve tim) … cần thời gian tập dượt để phục hồi (rehabilitation). Sau đó họ có thể về nhà sinh hoạt bình thường cùng gia đình.

2- Intermediate care facility (ICF): Cung cấp dịch vụ cho những người bệnh như tật nguyền, già cả nhưng không cần săn sóc cao cấp (intensive care). Thường thường những người này không có thân nhân để lo cho mình nên phải vào đây ở cho đến ngày cuối cùng (custody care).

3- Assisted living facility (ALF): Thường thường những người vào ALF vẫn còn khả năng tự lo những nhu cầu căn bản như tắm rửa, thay quần áo, đi tiêu, đi tiểu một mình được. Họ chỉ cần giúp đỡ trong việc bếp núc, theo dõi thuốc men và chuyên chở đi thăm bác sĩ, nhà thờ, chùa chiền hay mua sắm lặt vặt. Họ vẫn còn phần nào “độc lập”.

4- VDL cho những người quá lú lẫn (Alzheimer facility): Có những bệnh nhân bị lú lẫn nặng, đến nỗi không nhận ra người thân như vợ, chồng, con cháu nữa. Không biết tự đi vào buồng tắm, phòng vệ sinh để làm những công việc tối thiểu. Họ không biết họ ở đâu, dễ đi lang thang và lạc đường. Nếu ở nhà thì phải có người lo cho 24/24. Những viện dưỡng lão dành riêng cho những bệnh nhân này, thường là “locked facilty”, cửa ra vào được khóa lại để bệnh nhân không thể đi lạc ra ngoài. Cách đây khá lâu đã có trường hợp một bệnh nhân đi ra khỏi viện, lạc đường, bị xe lửa cán chết! Từ đó có locked facilty. Đôi khi cũng có những bệnh nhân được gắn alarm vào cổ chân. Nếu bệnh nhân đi qua cửa thì alarm sẽ báo động và nhân viên sẽ kịp thời mang về lại.

NHỮNG DỊCH VỤ ĐƯỢC CUNG CẤP TẠI VIỆN DƯỠNG LÃO

Điều này tùy theo từng viện. Tuy nhiên những dịch vụ sau đây là cần thiết:

1- Phòng ngủ.
2-Ăn uống
3-Theo dõi thuốc men
4-Những điều tối thiểu hàng ngày như tắm rửa, thay quần áo, vệ sinh cá nhân…
5-24/24 lo cho những trường hợp bệnh khẩn cấp.
6-Sinh hoạt hàng ngày như giải trí, tôn giáo…
7- Vật lý trị liệu. Dịch vụ này rất quan trọng để giúp người bệnh có thể phục hồi càng nhiều càng tốt. Trong vật lý trị liệu có nhiều dịch vụ khác nhau:
a- Tập dượt (physical therapy): như tập đi, tập lên xuống cầu thang, tập tự vào giường ngủ hay ra khỏi giường một cách an toàn, không vấp ngã…
b- Speech therapy: tập nói, tập nuốt khi ăn uống… Có những bệnh nhân bị stroke, không thể nói hay ăn được, cần được tập để phục hồi chức năng này.
c- Occupational therapy: Tập mang giầy, bí tất (vớ)… Tập sử dụng bếp gaz, bếp điện cho an toàn để tránh bị tai nạn.

AI TRẢ TIỀN CHO VIỆN DƯỠNG LÃO?

Có nhiều nguồn tài trợ khác nhau:

1-Medicare
2-Medicaid (ở California là Medi-Cal).
3-Bảo hiểm tư, có nhiều người mua sẵn bảo hiểm cho viện dưỡng lão.
4-Tiền để dành của người bệnh (personal funds).

MEDICARE là do quỹ liên bang, chỉ trả tối đa 100 ngày cho những bệnh nhân cần tập dượt để phục hồi chức năng tại một Skilled Nursing Facility (SNF). Thường những bệnh nhân bị stroke, gãy xương… cần dịch vụ này. Medicare KHÔNG TRẢ cho custody care.

MEDICAID là do quỹ liên bang và tiểu bang. Quỹ này trả nhiều hay ít là tùy từng tiểu bang. Medicaid trả cho dịch vụ y tế và custody care.
BẢO HIỂM TƯ thì tuy theo từng trường hợp sẽ có những quyền lợi khác nhau, nhưng thường rất hạn chế.

Hiện nay người ta ước lượng trên nước Mỹ có khoảng 1.4 triệu người sống trong 15,800 viện dưỡng lão. Các viện dưỡng lão này đặt dưới sự kiểm soát của bộ y tế, đặc biệt là do Center for Medicare & Medicaid Services (CMS) giám sát. Hàng năm các viện dưỡng lão đều phải trải qua một cuộc kiểm tra rất gắt gao (survey) của CMS. Viện dưỡng lão nào không đúng tiêu chuẩn thì có thể bị đóng cửa! Mục đích kiểm tra của CMS là để bảo đảm cho các bệnh nhân tại viện dưỡng lão được săn sóc an toàn, đầy đủ với phẩm chất cao. Đồng thời tránh những trường hợp bị bỏ bê (negligence) hay bạo hành (abuse) về thể xác lẫn tinh thần. Tại mỗi viện dưỡng lão đều có lưu trữ hồ sơ kiểm tra cho công chúng xem. Bất cứ ai cũng có thể xem kết quả của các cuộc kiểm tra này. Tất cả các viện dưỡng lã đều phải có các biện pháp để bảo đảm sự săn sóc cho bệnh nhân theo đúng tiêu chuẩn. Nếu không sẽ bị phạt tiền, và có những trường hợp bị đóng cửa.

Trên đây tôi đã trình bày sơ qua về những điểm chính của viện dưỡng lão. Tuy nhiên, như quý bạn đã từng nghe và biết, có nhiều khác biệt giữa những viện dưỡng lão. Theo tôi nhận xét thì quan niệm chung của mọi người là “không muốn vào viện dưỡng lão”. Chúng ta từng nghe những chuyện không tốt thì nhiều, mà những chuyện tốt thì ít. “Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa”, là câu ngạn ngữ người mình vẫn nói từ xa xưa đến nay. Tôi đã đọc không biết bao nhiêu là bài viết về việc con cái “bất hiếu”, bỏ bố mẹ, ông bà vào viện dưỡng lão rồi không đoái hoài tới. Tôi cũng thấy nhiều trường hợp các cụ vào viện dưỡng lão một thời gian rồi không muốn về nhà với con cháu nữa! Trên đời này không có gì là tuyệt đối cả, trong cái hay có cái dở, và trong cái dở lại có thể tìm ra cái hay. Vậy chúng ta rút tỉa được kinh nghiệm gì trong vấn đề này? Tôi chỉ xin nêu lên những nhận xét chủ quan của riêng tôi mà thôi. Có thể quý vị không đồng ý hết, nhưng nếu rút tỉa được ít nhiều ý kiến xây dựng thì “cũng tốt thôi”.

NHỮNG “BỆNH” CÓ THỂ DO VIỆN DƯỠNG LÃO GÂY RA

1- Lo lắng (anxiety): Trong tháng 9/2011 những nhà nghiên cứu hỏi ý kiến của 378 bệnh nhân trên 60 tuổi nằm viện dưỡng lão tại thành phố Rochester, New York. Kết quả là có trên 27.3% trả lời là họ bị bệnh lo lắng, từ vừa đến nặng. Nếu không được chữa trị sẽ đưa đến bệnh trầm cảm (depression). Nên nhớ là 378 bệnh nhân này là người Mỹ chính cống, sinh ra và lớn lên tại Mỹ. Chúng ta hãy tưởng tượng người Việt mình không biết rành tiếng Anh, không am tường phong tục, tập quán thì sự khó khăn sẽ nhiều như thế nào! Còn một vấn đề nữa là thức ăn, chúng ta quen “nước mắm, thịt kho”…, làm sao mà có thể nuốt hamburger, sandwich… ngày này qua ngày khác! Các vấn đề này càng làm bệnh lo lắng, trầm cảm nặng thêm !

2- Phản ứng của thuốc (adverse drug reactions): Trong tháng 1/2012 ngưòi ta theo dõi các bệnh nhân tại Vviện dưỡng lão, kết qủa là ít nhất 40% các bệnh nhân dùng trên 9 loại thuốc khác nhau. Uống càng nhiều thuốc thì phản ứng càng nhiều. Có ba loại phản ứng khác nhau:

a- Phản ứng phụ (side effects): Thí dụ như uống aspirin làm bao tử khó chịu, thuốc cao máu làm táo bón… Loại này thường xảy ra, không cần phải ngưng thuốc.

b- Drug interference (tạm dịch là thuốc đối tác với nhau): Có nhiều loại thuốc uống chung với nhau sẽ làm tăng hoặc giảm sức tác dụng. Thí dụ thuốc loãng máu coumadin mà uống chung với thuốc tim như amiodarone sẽ làm dễ chảy máu. Có những thức ăn hay nước uống dùng chung với thuốc cũng ảnh hưởng đến thuốc. Thí dụ uống nước bưởi hay nho với một vài loại thuốc cũng sẽ tăng sức tác dụng của thuốc, dễ gây ngộ độc.

c- Dị ứng với thuốc (allergic reaction): Loại này nguy hiểm hơn, thường làm da nổi mề đay, đỏ, ngứa. Nếu nặng thì có thể chết được như phản ứng với penicillin chẳng hạn. Nếu bị dị ứng thì phải ngưng thuốc ngay.

3- Ngã té (fall): Người già rất dễ bị té ngã gây nên nhiều biến chứng quan trọng như chảy máu trong đầu (intracranial bleeding), gãy xương (như gãy cổ xương đùi, tay…). Khi già quá hoặc có những bệnh ảnh hưởng đến sự di chuyển, không còn đi lại vững vàng, nhanh nhẹn như lúc trẻ nên dễ vấp, té ngã.

4- Da bị lở loét (decubitus ulcers): Những người bị liệt giường, không đủ sức để tự mình xoay trở trên giường, rất dễ bị lở loét da gây nên nhiều biến chứng tai hại.

5- Nhiễm trùng (infection): như sưng phổi, nhiễm trùng đường tiểu…nhất là những người cần phải dùng máy móc như máy thở (respirator), ống thông tiểu (Folley catheter)…

6- Thiếu dinh dưỡng, thiếu nước (malnutrition, dehydration): Ở các cụ già thì trung tâm khát (thirst center) trong não không còn nhạy cảm nữa, nên nhiều khi cơ thể cần nước mà không thấy khát không uống nên bị thiếu nước. Cái cảm giác “ngon miệng” (appetite) cũng giảm đi nên không muốn ăn nhiều gây nên tình trạng thiếu dinh dưỡng.

VẬY CÓ NÊN VÀO VIỆN DƯỠNG LÃO KHÔNG?

Việc này thì tùy trường hợp. Theo tôi:

1- Nếu còn có thể ở nhà được mà vẫn an toàn thì ở nhà tốt hơn. Nếu tài chánh cho phép, thì dù mình không đủ khả năng lo cho mình, mình vẫn có thể mướn người “bán thời gian” (part time) đến lo cho mình vài giờ mỗi ngày, giúp ăn uống, tắm rửa, dọn dẹp trong nhà, thuốc men, chở đi bác sĩ…

2- Nếu không thể ở nhà được, mà tài chánh cho phép thì có thể ở những assisted living facilities. Ở đây thường họ chỉ nhận tiền (personal funds) chứ không nhận medicare & medicaid. Tại đây thì sự săn sóc sẽ tốt hơn.

3- Group homes (nhà tư): Có những người nhận săn sóc cho chừng 4-6 người mỗi nhà. Họ cũng lo việc ăn uống, chỗ ở, thuốc men, chở đi bác sĩ… Thường thì rẻ hơn tùy từng group.

4- Nếu “chẳng đặng đừng” phải vào VDL thì phải làm sao để có được sự săn sóc “tốt nhất”?

a- Làm sao để lựa chọn viện dưỡng lão:

– Vào internet để xem ranking của viện dưỡng lão (tương tự như các tiệm ăn có xếp loại A, B, C…)
– Mỗi viện dưỡng lão đều phải có cuốn sổ phúc trình về các cuộc kiểm tra (survey) do Bộ Y Bế làm hàng năm. Trong đó Bộ Y Tế sẽ nêu lên những khuyết điểm mà họ đã tìm thấy. Cuốn sổ này được để ở khu công cộng (public area) trong khuôn viên của viện dưỡng lão. Hỏi receptionist thì họ sẽ chỉ cho.
– Hỏi ý kiến thân nhân những người có thân nhân đang nằm tại đó.
– Quan sát bên trong và ngoài của viện dưỡng lão: Xem có sạch sẽ, không mùi hôi, nước tiểu. Theo dõi cách đối xử, săn sóc của nhân viên với bệnh nhân.
– Nếu có thể thì tìm một viện dưỡng lão có nhiều người Việt đang ở để có nhân viên nói tiếng Việt, có thức ăn Việt, có chương trình giải trí theo kiểu Việt.

b- Nếu đã quyết định chọn viện dưỡng lão cho người thân rồi thì phải làm gì sau đó?

– Chuẩn bị tư tưởng không những cho bệnh nhân mà còn cho cả chính mình và mọi người trong gia đình để có được sự chấp nhận (acceptance) càng nhiều càng tốt.
– Thăm viếng thường xuyên: Nếu nhà đông con cháu thì không nên đến thật đông một lần rồi sau đó nhiều ngày không có ai đến. Nếu được, nhất là trong vài tháng đầu, luân phiên nhau tới, mỗi ngày một lần một vài người. Làm lịch trình ai đi thăm ngày nào, giờ nào…
– Nên làm một cuốn sổ “thông tin” (communication book) để cạnh giường. Trong cuốn sổ này mỗi khi ai đến thăm thì viết ngày giờ, tên người đến thăm, và nhận xét xem bệnh nhân có vấn đề gì cần lưu ý, giải quyết. Nếu không có vấn đề gì thì cũng nên viết vào là không có hoặc cho nhận xét về vui, buồn, than thở của bệnh nhân…
– Cuối tuần hay ngày lễ: nên có người vào hoặc mang bệnh nhân về nhà nửa buổi để được sống với không khí gia đình dù ngắn ngủi, hay đưa ra khỏi viện dưỡng lão để làm đầu, tóc hoặc tới tiệm ăn cho khuây khỏa…
– Nên sắp xếp để bệnh nhân có sách báo, băng nhạc bằng tiếng Việt cho bệnh nhân giải trí.
– Cho dù có những bệnh nhân bị hôn mê bất tỉnh lâu dài, nhưng khi đến thăm hãy cứ thì thầm bên tai họ những lời yêu thương, những kỷ niệm cũ. Nắm tay, xoa dầu để tỏ tình thương yêu. Tuy họ không có thể cảm thấy được 100% nhưng chắc chắn họ vẫn còn một chút nhận thức, làm họ hạnh phúc hơn, mặc dù mình không nhận thấy. Để bên đầu giường những băng nhạc, câu kinh mà khi còn khỏe họ đã thích nghe.
– Một điều chót mà theo kinh nghiệm của tôi, rất có hiệu quả: Đối xử tốt nhưng nghiêm túc với nhân viên của viện dưỡng lão:

Đối xử tốt: Lịch sự, nhẹ nhàng, không thiếu những lời cám ơn cho những nhân viên phục vụ tốt. Thỉnh thoảng mua một vài món quà nhỏ cho họ (tôi xin nhấn mạnh “nhỏ thôi”– đừng nên coi đây là hối lộ) như đồ ăn, thức uống … để bày tỏ lòng biết ơn của mình. Mình tốt với họ thì họ sẽ quan tâm đến mình nhiều hơn. Người mình vẫn nói: “Có qua có lại mới toại lòng nhau”).

Tuy nhiên đối xử tốt không có nghĩa là mình chấp nhận những sai trái của họ. Thí dụ mình đã báo cáo những thay đổi về sức khỏe của bệnh nhân cho họ mà không ai quan tâm giải quyết thì mình phải lịch sự nêu ra liền. Nếu cần thì gặp ngay những người có trách nhiệm như charge nurse, nursing director và ngay cả giám đốc của viện dưỡng lão để được giải quyết. Nên nhớ là phải lịch sự, nhã nhặn nhưng cương quyết thì họ sẽ nể phục mình. Tôi đã thấy nhiều trường hợp đạt yêu cầu một cách rất khả quan.

Trên đây là những kinh nghiệm của tôi xin chia sẻ với quý bạn. Dĩ nhiên là không hoàn toàn đầy đủ tất cả những gì quý bạn mong muốn, nhưng hy vọng cũng đáp ứng được phần nào những ưu tư, lo lắng cho người thân của quý bạn.

Bác Sĩ Trần Công Bảo

Mừng Xuân 2020—Asia Entertainment

Rước Xuân Về Nhà—Motif Music Group

Hài Kịch Cơm Và Phở—Asia Entertainment Official

Chúc Mừng Năm Mới Canh Tý | Happy New Year 2020

ChucTetCanhTy
Xuân Collection—Motif Music Group


giphy-(a)

Người Bạn Bên Đường—Nguyên Nhung

Từ lâu rồi tôi đã quen xem nó là người bạn thầm lặng của tôi, ở góc đường nơi gần đó có một trạm xe bus, mỗi tuần lễ tôi có 5 ngày, mỗi ngày có ít nhất 10 phút để gửi cho nó những tâm sự vẩn vơ của mình, khi không dễ tìm được ai đó biết nghe những điều mình muốn kể.

Mỗi buổi sáng bất cứ thời tiết nào, trạm xe bus này luôn luôn có một đám hành khách quen thuộc chờ xe đi làm, gần như đều biết mặt nhau và câu chào ngắn nhất là “Hi!” mỗi lần gặp. Theo thói quen, tôi thích ra khỏi nhà sớm hơn mười phút, đứng chờ xe mà cũng để tựa người vào gốc thông ven đường, gửi cho người bạn thầm lặng dễ thương vài điều suy nghĩ của mình trước những đổi thay của thời tiết, một biến động nào đó trong tâm hồn, hay những gì tôi bắt gặp trong đời sống xung quanh.

Những khuôn mặt hành khách thường xuyên gặp gỡ nhau trên một đoạn đường nào đó, bỗng làm cho mọi người dễ gần gũi nhau hơn, hôm nào vắng cũng cảm thấy hơi thắc mắc. Người ta có thể làm bạn với nhau từ những chuyện nhỏ nhặt như vậy. Isabel sau này là bạn đồng hành với tôi trên một quãng đường, và ngay cả Bob, ông tài xế da đen tôi tưởng là rất khó thương kia cũng có một tâm hồn dễ thương hơn màu da của ông nhiều lắm.

Tôi có thói quen đêm nào cũng đọc sách trước khi ngủ, hôm ấy khi mò đến cái kính thì không biết là mình đã đánh rơi ở đâu. Tôi nghĩ đến chuyện hôm sau phải đi mua cặp kính khác, nhưng sáng hôm sau khi lên xe, ông tài xế sau khi bấm thẻ, đã giơ ra trước mặt tôi cái bao kính màu nâu. Thật ngạc nhiên, thì ra ông tuy có vẻ lầm lì như không thèm biết những khách quen đi xe mỗi ngày, vẫn chưa hẳn là người không tử tế. Đứa bé gái chưa đầy năm rất bụ bẫm được mẹ bế tới nhà trẻ trước khi đi làm, ngày nào cũng nhoẻn miệng cười có vài chiếc răng sữa trắng nõn với những người hành khách ngồi gần mẹ nó, nụ cười trẻ thơ rất hồn nhiên như ly cà phê nóng, như chiếc “donut” tươm đầy mật gửi cho những người xung quanh một chút vui tươi, an bình cho một ngày vật lộn vì sinh kế.

Tối qua trời lạnh, gió rền rĩ trong những vòm cây trong vườn, gió gào thét trên mái nhà rồi luồn vào mái hiên, khiến tôi nghĩ đến cái tổ chim sẻ bằng cỏ khô, vẫn liếp chiếp mượn mái hiên nhà tôi làm tổ ấm. Trời rét, gió thổi rung bần bật những thân cây trong vườn, chắc người bạn thầm lặng là cây thông bên đường của tôi cũng quằn quại chống trả với cơn gió mùa đông khắc nghiệt. Sáng nay gió đã rủ nhau đi xa, trời lại yên tĩnh với cái rét ngọt luồn vào xương tủy. Đứng nép sau gốc thông là ông già râu bạc, người khách quen của chuyến xe bus, mỉm cười chào tôi, cả khuôn mặt trốn kỹ trong chiếc mũ len chỉ thò ra đôi mắt, cái miệng có chòm râu bạc. Ngày nào ông cũng đợi chuyến xe đi vào “down town”, chẳng biết ông làm gì nhưng rồi có một ngày tôi cũng biết, khi bắt gặp ông với tấm bảng giấy đứng bên lề đường, giữa dòng xe cộ qua lại đông đúc. Hóa ra ông là một người “homeless” sống ở dưới cái gầm cầu nằm trong khu ngoại ô ít xe qua lại, tôi đã nhìn thấy ông ở một góc đường trong “down town”, với mảnh giấy carton viết xiên xẹo mấy dòng chữ.

Mỗi sáng ông chịu khó đón xe đi vào một nơi không ai biết ông là ai, để trốn tránh một hiện tại đau khổ. Không một mái nhà, không gia đình,  hình như có hôm đi dạo quanh khu nhà, tôi đã nhìn thấy một người homless sống dưới gầm cầu, che chắn kỹ lưỡng chỗ ngủ của mình bằng những mảnh thùng cứng chất xung quanh một cái xe lấy ở khu chợ nào đó. Không hiểu có phải ông già râu bạc đã chui từ dưới gầm cầu lên để nhập vào đám hành khách mỗi ngày trên chuyến xe lúc bảy giờ sáng.

Ông thường ngồi ở hàng ghế phía sau con bé con chưa đầy năm, để được nhìn ánh mắt trong veo và cái miệng toe toét cười của nó dành cho ông. Con bé thỉnh thoảng nhoai người xuống để cười với ông, giơ bàn tay bụ bẫm bé xíu ra như muốn nắm lấy ngón tay thô kệch của người đàn ông nghèo khổ đang ngoắc ngoắc nó, nhưng ông không bao giờ dám chạm vào bàn tay non nớt của đứa bé thiên thần, chỉ vì đâu đó có một khoảng cách mà ông tự cảm thấy toát ra trong đôi mắt của mọi người xung quanh.

Năm nào tôi cũng nhận được nhiều tấm thiệp Giáng Sinh, hình ảnh và màu sắc tươi vui từ bằng hữu xa gần gửi đến, kèm theo những lời chúc tuyệt vời cho mùa Lễ đẹp nhất trong năm. Tôi nghĩ đến ông già râu bạc, đến người con gái Mễ Tây Cơ hay bấm chuông cho tôi xuống khi xe sắp đến trạm, người mẹ bế đứa con thơ, bà Mary hay ngồi ở hàng ghế đầu cạnh cửa đi lên đi xuống, hay người tài xế da đen quen thuộc trên chuyến xe quen mỗi ngày. Sáng hôm đó trước khi lên xe, tôi đã hỏi thầm điều đó với người bạn thầm lặng của mình, nghe tiếng reo vi vu trong gió, chắc chắn là đã đồng cảm về dự định của tôi trong mùa Giáng Sinh năm nay, đó là chuyện sao không gửi cho những người bạn mỗi ngày của mình một tấm thiệp Giáng Sinh đơn sơ mua ở một tiệm 99 cents phía bên kia đường, với câu chúc đẹp nhất trong mùa Giáng Sinh.

Vài ngày trước lễ Giáng Sinh, những tấm thiệp đã được tôi gửi đến từng người bạn đồng hành thân thiết của tôi trên chuyến xe buổi sáng, tôi nhận thấy nét hân hoan cảm động trên khuôn mặt mỗi người, và nụ cười với hàm rắng trắng bóng của người tài xế da đen bỗng dễ thương hơn, ông ta đang huýt sáo một bản nhạc giáng sinh có âm điệu vui tươi. Ông già râu bạc vẫn nháy mắt cười với đứa bé nằm trong nôi, con bé hôm ấy được mẹ quấn thêm lớp chăn mới rất ấm. Ông có vẻ xúc động khi nhận tấm thiệp giáng sinh của tôi, hàm râu bạc rung rung khi đôi môi muốn nhếch một nụ cười mà lại méo xệch đi vì cảm động, rồi khi nhìn thấy tờ giấy mười đồng tôi gấp nhỏ trong lòng tấm thiệp, dường như đôi mắt ông mờ đi dưới màn lệ mỏng. Dù không nói ra nhưng chắc ông đã hiểu hết tâm tình của tôi khi gửi đến ông món quà nhỏ bé ấy, như cây thông bên đường, người bạn thầm lặng của tôi, tôi chỉ âm thầm kể cho nó nghe những gì ấp ủ trong lòng mình, rồi khi gió reo vi vu những cung đàn êm ái từ ngọn thông xanh, đấy có phải là câu trả lời dịu dàng nhất mà tôi nhận được.

nguyennhung

Buổi chiều trước tuần lễ Giáng Sinh, tôi trở về nhà với một nỗi buồn ngổn ngang nặng trĩu trong lòng. Bao giờ cũng thế, những buổi chiều đông nhạt nhòa ẩm lạnh cũng làm tâm hồn gây gây một nỗi buồn không duyên cớ. Đi ngang ngôi nhà thờ nhỏ đã thấy người ta giăng đèn sáng trưng, chỉ một màu trắng lung linh trên cây thánh giá. Vẳng trong chiều tà là tiếng chuông trong trẻo vang lên trong ngôi giáo đường thơm mùi gỗ thông, gợi cho tôi nhớ đến những mùa Giáng Sinh thời trẻ tuổi. Bên này đường, người bạn dễ thương của tôi vẫn lặng lẽ trong bóng tối của buổi chiều tà, khi đi qua tôi không bao giờ quên sờ vào thân gỗ xần xùi của nó, một mảnh vỏ bé xíu rơi vào tay tôi để lại một mùi thơm hăng hắc mà dễ chịu vô cùng. Tôi nhìn lên ngọn thông, chào nó và đi về nhà với mùi hương của miếng vỏ thông còn vương trên những ngón tay, như ngày xưa thời hoa mộng, mùi hương của buổi hẹn hò vẫn còn vương vấn trong lòng người thiếu nữ.

Sáng nay, trước khi lên xe tôi đã đứng chờ khá lâu nơi gốc thông ven đường, không thấy ông già râu bạc chờ xe như thường lệ, tự nhiên tôi lại băn khoăn chờ đợi. Bà Mary đã nghỉ sớm để sửa soạn nhà cửa mừng lễ Giáng Sinh với đứa con ở xa về, chuyến xe hôm đó chỉ có cô bé Mễ Tây Cơ luôn miệng kể chuyện, người phụ nữ trẻ vẫn bế đứa bé gái lên xe đúng giờ, rồi khi xe sắp chạy mà vẫn chưa thấy bóng ông già râu bạc. Isabel nhanh miệng tỏ ý thắc mắc về người bạn đồng hành già nhất đã vắng mặt trong chuyến xe, rồi lại quên ngay khi quay sang hỏi tôi về cách nấu món “soup” phở mà cô đã thưởng thức một lần ở quán ăn Việt Nam.

Buổi tối về nhà trong căn phòng ấm áp, cây thông nhỏ ở góc bàn vẫn thi nhau chớp lên những tia sáng nhiều màu thật đẹp, hắt lên khuôn mặt xinh xắn của con búp bê tật nguyền đứng trong tủ sách một vẻ đẹp huyền ảo. Con búp bê tật nguyền mà tôi luôn mang theo đời mình từng chặng đường đời, vẫn là một kỷ niệm Tình yêu Giáng Sinh đẹp nhất trong đời tôi. Mỗi năm, gần bốn mươi năm rồi nhỉ, năm nào tôi có lúc như một đứa trẻ con, say sưa may cho con búp bê tật nguyền một cái váy đẹp, thắt một cái nơ cùng màu áo lên mái tóc xác xơ của nó. Ngày xưa con búp bê xinh đẹp như một thiếu nữ tuổi mười lăm, lành lặn và duyên dáng trong bàn tay của tôi ở tuổi hai mươi, đã bị mấy đứa trẻ con nghịch ngợm dành giựt đến nỗi một chân của nó bị kéo lìa ra và không còn trở lại được tình trạng cũ. Nó vẫn đứng đó với khuôn mặt kiều diễm không bao giờ thay đổi, đôi mắt to và hàng mi cong nhìn tôi như thuở ban đầu. Con búp bê vẫn thế, chỉ khác là cái chân bị tật nguyền nên dáng đứng hơi lệch lạc, còn tôi, tôi không phải tôi của những năm tháng cũ.

Ôi kỷ niệm! Dường như con người hay mang theo trong đời mình những kỷ niệm, mặc dù kỷ niệm đẹp nhưng với thời gian bao giờ cũng trở thành kỷ niệm buồn. Tôi cũng không vượt qua được điều đó dù tiếng chuông trong trẻo mùa Giáng Sinh của hiện tại, vẫn gieo vào lòng tôi nỗi khắc khoải sầu muộn. Tôi vẫn chỉ kể cho người bạn thầm lặng bên đường toàn những nỗi buồn vu vơ, để rồi nghe tiếng lá reo trên khoảng trời mênh mông, tôi nhận lại làm niềm vui mỗi ngày của đời mình. Dưới gốc thông ấy có bao nhiêu người dừng chân ở đó, họ có bao giờ nghĩ nó như một người bạn thầm lặng bên đường? Ông già cựu chiến binh râu bạc vào mùa Đông cũng hay nép vào đó trốn gió, có khi nào ông cảm nhận được sự chia xẻ của nó qua tiếng lá reo trên khoảng không bát ngát?

Đêm đã khuya mà tôi vẫn trằn trọc khó ngủ, cảm thấy thiêu thiếu một điều gì trong khoảng không gian quạnh vắng. Tôi nghĩ đến những bản nhạc Giáng Sinh qua tiếng đàn của Clayderman, trong cái CD người bạn gửi tặng. Tiếng đàn dương cầm của người nhạc sĩ tài ba lan lan, bồng bềnh theo giấc ngủ, ở đó có một mùa Giáng Sinh và những bức tượng Thánh trong ngôi giáo đường xa tít tắp, lâu lắm rồi tôi đã bỏ quên trong ký ức. Tôi còn hình dung ra khuôn mặt say sưa của người nhạc sĩ và đôi tay của ông đang lướt trên phím đàn, đêm trôi đi như một dòng sông. Tiếng dương cầm của Clayderman dìu dặt thánh thót đưa những cung bậc của âm nhạc trong đêm khuya làm tim tôi chảy ra những giọt lệ…

Buổi sáng tôi dậy sớm, dù đêm ngủ không ngon giấc, lại nghĩ đến người đàn ông râu bạc hôm qua không thấy đón xe đi về down town, làm người hành khất đứng bên lề đường với tấm carton viết lộn xộn những hàng chữ. Ông ta có đau ốm gì không, cuộn mình trong cái túi ngủ dưới gầm cầu có đủ ấm trong mùa đông, những mảnh thùng giấy có đủ sức che được những hạt mưa và gió lạnh lùa vào tấm thân khốn khổ của kiếp không nhà? Bao nhiêu câu hỏi cứ chờn vờn trong óc tôi với một sự so sánh đơn giản thế nào là hạnh phúc và không hạnh phúc. Tôi định rằng sáng nay, một buổi sáng áp lễ Giáng Sinh, tôi sẽ đón xe sớm hơn bình thường để thủ thỉ với người bạn bên đường nỗi trăn trở của mình, và cũng muốn biết hôm nay ông già râu bạc có đến trốn gió sau cây thông để đi “down town” như mọi ngày không?

Buổi sáng áp lễ Giáng Sinh năm nay tự nhiên trời ấm áp và ít gió, thật là một điều may mắn hạnh phúc cho ông già râu bạc ở gầm cầu. Tôi linh tính như ngày hôm nay mọi điều đều tốt đẹp hơn cho mình, kể cả cây thông bên góc đường gần trạm xe bus. Đúng như tôi nghĩ, ông già râu bạc đã lấp ló đứng sau gốc thông, thấy tôi đi tới ông toe miệng còn vài chiếc răng sún ra cười, và điều ngạc nhiên hơn cả là nơi gốc thông, có một vòng nơ quấn quanh gốc cây, lại thêm chùm trái châu lóng lánh bạc gắn lên chiếc nơ đỏ. Món quà Giáng Sinh mà ông già râu bạc nghèo khổ đã mang đến cho người bạn bên đường, cây thông của chúng tôi, tôi bỗng chợt nhận ra hạnh phúc là niềm vui mà mọi loài có thể chia cho nhau lại từ những nhỏ nhoi nhất.

Nguyên Nhung   

Gheorghe Zamfir & Andrea Griminelli in Andrea Bocelli World Tour

Cám Ơn Nước Mỹ, Cám Ơn Cuộc Đời—Lê Xuân Mỹ

Tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2019. Là con của một sĩ quan tù cải tạo, ông đã góp 3 bài viết xúc động, kể lại việc một mình ra miền Bắc, đạp xe đi tìm cha tại trại tù Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa Sau đây là bài viết mới nhất của Ông nhân ngày lễ Tạ ơn

****

Như trong bài hát ” Khóc một dòng sông” của nhạc sĩ Đức Huy, ” Cũng may thời gian qua vun vút không như Sài Gòn”, quay qua quay lại cũng đến ngày về hưu. Mới đó thấm thoát cũng đã trôi qua hơn 20 năm trên nước Mỹ này.

Gần 70 năm cuộc đời với bao nhiêu gập ghềnh sóng gió. 25 năm dưới chế độ Cộng Hoà, 23 năm với Cộng Sản và 21 năm trên một miền đất thật xa quê nhà. Những quảng đời với những xúc cảm thật khác nhau. Những ngày hạnh phúc thời Việt Nam Cộng Hoà, những năm tháng tủi nhục sau 1975 và thời gian an bình trên xứ người. Kỷ niệm nhiều không kể xiết. Có những giây phút rất muốn giữ lại trong trí nhớ nhưng cũng có những khoảnh khắc muốn quên nhưng không thể nào quên được.

Đã đi qua hết ¾ của cuộc đời. Đã đến lúc phải dừng lại những đam mê, những tham vọng, những toan tính. Thanksgiving là ngày tôi chọn để “gác kiếm, qui ẩn”. Một ngày rất dễ nhớ cho một quyết định đặc biệt và quan trọng của đời người.

Vê hưu chính là lúc nhìn lại chặng đường đã qua để chuẩn bị một cuộc sống sắp tới. Nếu ví đời người như thời gian với 4 mùa, thì tôi đang bắt đầu những tháng ngày mùa đông. Nhìn lại không phải để hối tiếc mà để nói với đời một tiếng cám ơn, mặc dầu thế hệ chúng tôi thật sự không may mắn. Sinh ra trong những năm 1950-1951, cho đến ngày mất nước, thời gian thanh bình quá ngăn ngủi. Nhưng cũng trong nhờ vậy chúng tôi mới cảm nhận hết được nỗi bất hạnh của những ngày còn ở lại quê nhà, để tự mình chứng kiến, trải qua những đau khổ tột cùng và do đó mới thấy hết cái giá trị của sự tự do và hạnh phúc nơi quê nguời.

Ở xứ Mỹ này có rất nhiều ngày để nhớ: lễ mẹ , lễ cha, lễ độc lập, lễ tình nhân…Ngày lễ nào cũng có một ý nghĩa rất riêng, nhưng có lẽ Thanksgiving là một ngày ưa thích nhất của tôi. Bởi vì không có gì ý nghĩa hơn là lúc nhắc ta nhớ đến những ơn nặng nghĩa sâu. Nhớ để cám ơn đời, cám ơn người.

Trên tất cả xin được nói lời cám ơn nước Mỹ, cám ơn miền đất không phải nơi tôi sinh ra nhưng chắc chắn sẽ ôm ấp tôi những ngày còn lại. Cám ơn một đất nước có thể không phải là thiên đường nhưng chắc chắn không là địa ngục. 21 năm sống trên đất nước này, có nhiều điều rất thích nhưng cũng có những việc không bằng lòng. Vẫn còn đó những bất công, vẫn còn đó khoảng chênh lệch quá mức giữa giàu nghèo. Không chiến tranh nhưng vẫn có những bất an của súng đạn. An nhàn nhưng vẫn còn những nỗi lo của những ngày hưu trí. Những băn khoăn về bảo hiểm…Những điều không vừa lòng vẫn còn nhiều lắm, nhưng để ghét, để rời bỏ đất nước này như lần giã biệt quê nhà 21 năm về trước, chắc chắn sẽ không bao giờ vì với tôi, với gia đình tôi, nước Mỹ là ân nhân.

Và có lẽ chỉ những ai sống trong hoàn cảnh của gia đình tôi, những người con của một sĩ quan Cộng Hoà chết trong trại cải tạo, ở lại lây lất trong một thành phố đầy thù hận suốt mấy mươi năm mới hiểu hết được cái ý nghĩa của cảm kích, ý nghĩa của ân huệ, của tự do và tình người.

Những năm sau này, mặc dầu vẫn còn quá nhiều người nghèo khổ tại quê nhà, nhưng cũng có những người bằng những cách khác nhau trở nên giàu có. Đi ra nước ngoài để chơi, để định cư là một việc không quá khó khăn. Nhiều người thích đất nước này nhưng cũng có không ít xem miền đất này như một nơi tạm dừng chân. Có người bạn tôi tuyên bố: Việt Nam sướng hơn nhiều, tội gì định cư ở đây. Mỗi người có một hoàn cảnh, chỉ có điều khi tôi thắc mắc hỏi: “ông chê sao ông qua đây mua nhà, tốn tiền chạy chọt cho con cháu học rồi ở lại luôn”. Hình như không có thằng bạn nào trả lời.

Tôi nhớ có lần thằng bạn thời trung học từ Úc qua thăm, đem cho tôi bảng danh sách những thành phố đáng sống nhất trên thế giới. Hắn nói Melbourne của Úc đứng nhất nhì gì đó, rồi đến Canada, Na Uy… và hình như không có thành phố nào của Mỹ trong 10 hạng đầu. Hắn nói y tế Mỹ không bằng Úc. Cuối cùng hắn phán một câu xanh rờn. Có dịp mày qua Úc chơi sẽ biết. Tôi thì chưa có dịp đi Úc chỉ biết, nó có 2 đứa con trai, cả hai đứa đều sang Mỹ học, tốt nghiệp ra làm việc và định cư luôn tại Cali.

Bạn tôi nhiều đứa sau này ở lại Việt Nam, làm ăn khấm khá, năm nào cũng qua Mỹ chơi.

Hắn nói ở Việt Nam sướng hơn, nhưng con cái thì toàn ở Mỹ. Nhiều người ở đây ba bốn mươi năm nói “nghỉ hưu về Việt Nam dưỡng già”. Nói thì nói vậy chứ chuyển từ ” dự định” đến “thực hiện” chắc đến hết đời người vẫn chưa xong.

Mà thôi nói cho vui, ai về thì về,chứ biểu tôi rời bỏ nước Mỹ, không bao giờ. Sẽ không bao giờ tôi rời bỏ đất nước này bởi vì quên làm sao được cái nghĩa tình của những ngày đầu khốn khó.

Nhớ lại những ngày đầu tiên chân ướt chân ráo đến Mỹ, tôi về sống tại Tulsa. Một thành phố nhỏ bé thật hiền hoà, tuy không có nhiều người Việt Nam như Cali nhưng tình cảm thật đậm đà. Luôn nhớ đến những chăm sóc thật thân tình của những người Việt và cả của những người bản xứ đối với một gia đình đang còn lạ lẫm trên thành phố này. Nhà thờ Việt Nam đem cho những thùng áo quần, nhà chùa đem cho những đồ dùng, nồi cơm điện, nhà thờ Tin Lành đem cho đồ chơi cho hai cháu nhỏ. Những người hàng xóm đem từng món ăn. Những ngày đầu chưa có xe ở tạm nhà em gái, có một mục sư cùng xóm mỗi ngày chở đi làm giấy tờ, đi xin trường cho các cháu, tìm việc làm cho hai vợ chồng.

Giáng sinh đoàn tụ đầu tiên của đại gia đình chúng tôi thật ấm áp mặc dầu bên ngoài trời mưa tuyết. Tôi cứ nhớ mãi cái hình ảnh của bà người Mỹ già nhà đối diện. Nửa đêm đội mưa gõ cửa nhà chúng tôi để chỉ đưa một dĩa bánh cokkies nóng hổi kèm theo lời chúc “Merry Christmas and Happy New Year”. Không bao giờ chúng tôi quên được tình cảm của những người láng giềng dành cho chúng tôi trong thời gian đầu định cư. Ngay cả khi về ở với mẹ tôi trong khu low income Meadow, thời gian đầu vợ chồng con cái ít khi ra khỏi nhà nhất là vào ban đêm. Cái khu toàn người nghèo, lợi tức thấp đủ mọi sắc dân. Một ít gia đình người châu Á còn toàn là người Mễ và Mỹ đen. Nhìn bộ dạng mấy ông bà to lớn, hay tụ tập thành từng nhóm quanh khu xóm, cười nói ồn ào, nên cũng hơi sợ. Nhưng ở lâu lại thấy mến cái hiền lành và tốt bụng. Có lần trên đường đi làm về, tôi bị trượt xe dạt vào lề vì đường đông đá sau mưa tuyết, phải nhờ ông Mỹ hàng xóm ra kéo xe về giùm. Ở một thời gian rồi cũng quen dần cái nhộn nhịp và ồn ào của xóm nghèo nhưng cũng rất nghĩa tình này. Có lần mưa đá làm lũng một lỗ thật lớn trên mái nhà phòng ngủ. Nước vào đầy nhà từ mái. Qua hàng xóm cầu cứu báo hại nửa đêm 2 tay Mỹ đen cởi trần trùng trục leo lên mái hì hà hì hục lấy tăng che tạm cho khỏi dột. Sau này dọn nhà đi chỗ khác nhưng cứ thấy nhớ cái khu Meadow, lâu lâu lại chạy về thăm lại mấy ông bà hàng xóm.

Sau này vì cuộc sống vì nỗi khao khát được làm việc trong một công ty kỹ thuật lớn, có công việc phù hợp tôi di chuyển qua San Jose . Mặc dầu chưa bao giờ hối tiếc về sự lựa chọn của mình sau gần 20 năm sống trên miền đất phía Bắc Cali này, nhưng tôi luôn nhớ về thành phố hiền hoà nhỏ bé đó. Tulsa như Huế quê ngoại của tôi, trầm lắng, dễ thương và nghĩa tình.

Không chỉ Tulsa, San jose cũng đối xử với tôi thật ấm áp. Người Việt Nam đông, bạn bè nhiều, khí hậu tuyệt vời, Silicon valley cũng giống như thành phố Sài Gòn nhộn nhịp của tôi những năm trước 1975. Nơi bắt đầu lại của tôi và cũng là nơi đã cứu sống mẹ tôi không biết bao nhiêu lần.

Về sống với gia đình tôi khi bệnh của mẹ trở nặng. Mẹ vừa bị alzheimer, vừa bị tiểu đường, vừa cao huyết áp, vừa cao mở. Nói chung ở cái tuổi 76 khi mẹ vê đây, mẹ có đủ thứ bệnh. Nhờ khí hậu ấm áp, bác sĩ Việt Nam nhiều, vấn đề theo dõi bệnh dể dàng, sức khoẻ mẹ cũng đở hơn. Nhưng ở cái tuổi già thì những rũi ro, biến chứng cũng càng nhiều. Mẹ ra vào nhà thương không biết bao nhiêu lần.

Có lần đang ngồi coi tivi, cảm thấy hơi mệt nằm xuống sofa, mặt mày tái mét. Đo đường xuống dưới 40. Chưa kịp cho ăn ngọt thì mắt dại ra, mẹ gần như coma. Gọi cấp cứu. May mà chỉ 5 phút xe emergency tới ngay trước cửa nếu không là đi luôn.

Có lần áp huyết tăng cao (chắc là nửa đêm mở tủ bếp ăn hết chén mắm khoái khẩu), lại xỉu. Lại 911 cấp cứu. May mà tại xứ này chứ ở Việt Nam như mẹ vợ tôi thì ra đi từ lâu. Nội cái đợi xe cấp cứu vô được cái xóm nhỏ, qua hai ba cái chợ chồm hổm đầu đường chắc là không kịp với cái ông thần chết đang đứng chờ chực cạnh giường.

Phải công nhận với những người ở cái class lưng chừng như tôi thì mới lo chứ với những người già không tài sản như mẹ tôi, nước Mỹ đúng là thiên đường. Hàng tháng có tiền già, vô bệnh viện, tiền thuốc men không tốn một xu. Mà thuốc đâu phải rẽ. 13 loại thuốc. Vừa uống vừa chích. Nhìn cái giá thuốc chính phủ phải trả thay cho bệnh nhân là đủ chóng mặt. Chưa kể khi vào bệnh viện, nhìn cái bill bảo hiểm trả cho bệnh viện là xỉu.

Nội cái chi phí chữa chạy cái chân gãy của mẹ chắc cũng mất toi số tiền dành dụm của tôi trong suốt 20 năm trên đất Mỹ. Cũng nhờ vậy dù nhớ nhớ quên quên mẹ vẫn còn sống với chúng tôi cho đến hôm nay.

Cám ơn đất nước này và cám ơn cuộc đời đã cho tôi sống những thời gian với đầy đủ cung bậc của cảm xúc. Những vô tư của tuổi nhỏ, những lãng mạn của một thời mới lớn, những hạnh phúc của tháng ngày đoàn tụ và tự do. Dù không mong muốn nhưng cũng phải cám ơn cuộc đời đã cho tôi nếm được nỗi đớn đau của những chia xa trong những tháng ngày đen tối. Nỗi cô đơn của những ngày lưu lạc xa quê. Để rồi là những hạnh phúc của những lần gặp lại mẹ, anh em và bạn bè .

Xin được cám ơn ba, người sĩ quan chế độ Cộng Hoà chết trong trại cải tạo. Không có ba, không có những hy sinh của cha ông, đồng đội, bạn bè, chúng con đã không có những tháng năm thanh bình. Và khi cuộc chiến kết thúc, ba vẫn kịp đánh đổi mạng sống cùng với những tháng ngày bi thảm trong trại cải tạo để cho mẹ và các con, các cháu của ba cơ hội qua miền đất tự do này. Bao nhiêu năm ba vẫn luôn theo dõi và phù hộ gia đình chúng tôi.

Cám ơn mẹ, người đàn bà vĩ đại đã dành hết tuổi thanh xuân và đời mình cho chồng cho con. Người đàn bà goá chồng ở tuổi 49, một mình với 9 đứa con còn nhỏ dại, lăn lóc để tồn tại qua những nhiểu nhương và hận thù. Người vợ của một sĩ quan thua trận, vượt qua từng ngày, trải qua từng bữa, cuối cùng cũng đem được toàn bộ gia đình đến bến bờ tự do.

Xin được cám ơn em, đã cùng tôi vượt qua bao gập ghềnh sóng gió. Em đã luôn cạnh tôi trong những giờ phút bi thảm cũng như những khoảnh khắc yêu thương. Mới đó mà chúng ta đã ở bên nhau trọn vẹn 43 năm. Bắt đầu bằng một đám cưới với chiếc nhẫn đính hôn 1 phân vàng và thiệp mừng đám cưới là tấm giấy “mời” đi kinh tế mới vào ngày hôm sau, em đã cùng tôi nếm đủ mùi vị của gian khổ, cay đắng và tủi nhục. Vẫn luôn nhớ mãi cái chặng đường đã qua đó. Cám ơn tình yêu của em.

Còn phải cám ơn nhiều nhiều nữa. Cám ơn tình nghĩa bạn bè. Cám ơn tấm lòng những đứa cháu. Cám ơn những đứa em. Cám ơn những đứa con lương thiện của tôi. Trong những ngày cuối thu của miền Thung Lũng Silicon, đứa con trai đầu của một người tù chết trong trại cải tạo năm nào đã không còn trẻ nửa. Đang bước vào tuổi” Thất thập cổ lai hy”, rổi sẽ có ngày sẽ nhớ nhớ quên quên như mẹ. Nên trong cái ngày Thanksgiving này không thể nào không viết, không thể nào không nói những lời cảm ơn.

Sẽ chưa phải là lần cuối cùng, xin được nói tiếng cám ơn Việt Báo và Viết Về Nước Mỹ. Việt Báo đã làm một nhịp cầu cho chúng tôi được trải lòng qua những mẫu chuyện đời. Những câu chuyện thật đời thường nhưng nếu không được ghi, kể lại có lẽ rồi sẽ đi vào quên lãng. Có lẽ sẽ mất hút đâu đó trong cái trí nhớ đang già nua của tôi. Nhờ Việt Báo, qua những bài viết về cuộc đời, tôi đã tìm gặp lại những người bạn, những người thân đang lưu lạc khắp nơi. Như những mãnh vỡ của quê hương được góp nhặt để ghép lại thành một quê nhà thứ hai trên xứ người. Nhờ vậy chúng tôi sẽ không bao giờ mất đi quê hương Việt Nam yêu dấu.

Lê Xuân Mỹ (Việt Báo)

San Jose, Thanksgiving 2019

 

World By Drone—theworldtravelguy

Chúng Đi Buôn—Phan Văn Hưng

Sợ Chết—Trần Văn Giang

ThanChet1“Dù ngươi ở đâu đi nữa, sự chết sẽ tìm đến ngươi.” (Wherever you are, death will find you out.) Quraan [4:78]

Cũng chẳng có gì lạ. Tự nhiên, con người sẽ làm đủ mọi cách có thể làm được để sống… sống lâu hơn, để khỏi chết sớm.

Nếu quý vị tin vào Thánh kinh thì thấy rằng con người được Thượng Đế sinh ra để sống đời đời (Ecclesiastes 3:00); nhưng chỉ vì ông Adam nghe lời quyến dụ của ma quỷ làm trái ý Thượng đế cho nên con người từ đó sinh ra rồi sẽ chết để đền tội tổ tông (Romans 6:23.)

Nếu quý vị không tin vào Thánh Kinh thì xin mời đọc qua sách về bộ óc của con người (brain books).  Sách vở và các khảo cứu y khoa cho thấy, ngoài một số trường hợp ngoại lệ, bộ óc (và các cơ quan quan trọng khác) của con người không thể sống lành mạnh quá tuổi 80.  Thực tế quả thật như vậy; và cũng thực tế này làm chúng ta phải trở lại suy nghĩ về sự kiện Thánh kinh đã nói (?!)

Con người ta sợ chết vì không đủ khả năng để hiểu hết về thực tế của sự sống.  Từ lúc sinh ra, rồi lớn lên, chúng ta được dạy dỗ rất nhiều cái không tốt (negative) về “sự chết” qua ngay cả các giá trị và niềm tin tôn giáo.  Thiên Chúa Giáo chỉ nói một lần tốt (positive) về sự chết là việc Chúa sống lại (Resurrection of Jesus Christ) như một ám chỉ là không có sự chết; nhưng ngay sau đó Thiên Chúa Giáo lại dùng tất cả kinh sách còn lại để nhấn mạnh về sự chịu đựng đau đớn và cái chết của Chúa Giê-su. Trên tường của hầu hết các trường học và nhà thờ Công Giáo đều có treo các hình ảnh, tượng Chúa Giê-su chịu sự hành hạ thể xác đau đớn và cuối cùng Chúa bị đóng đinh chết trên thập tự giá. Đó là hình ảnh thật của sự chết chứ không phải vinh hiển của sự chết.

Có khi nào đó, quý vị tự hỏi là: “Tại sao, trong giấc mơ, khi thấy mình bị chết thì tự nhiên cũng là lúc thấy mình chợt thức giấc?” Lý do là vì bộ óc (và sự thông minh) của con người không cho chúng ta biết sau khi chết con người sẽ đi về đâu? Sẽ ra sao?!

Rất nhiều vấn đề thần học còn đang được tranh cãi.

Có địa ngục hay thiên đường hay không? Không ai biết.

Linh hồn mình sẽ thoát ra khỏi thể xác; có thể tiếp tục đi loanh quanh đâu đó; tiếp tục sinh hoạt cùng với các hồn ma khác; hay cùng với các người còn đang sống? Không ai biết.

Mình sẽ được đi đầu thai lại kiếp khác hay không? Không ai biết.

Có phải mình là người “Trang Tử mơ hóa bướm.” Có nghĩa là không biết đời sống này thật hay chỉ là giấc mơ (mình hiện đang là người? hay là bướm?): Lúc chết cũng sẽ là lúc thức dậy để sống một cuộc đời thật? Không ai biết.

Những cái “Không ai biết” vừa kể làm cho “Sự Chết” là một chuyện huyền bí.

Sợ chiều cao; sợ nước; sợ lửa; sợ động đất; sợ súng đạn; sợ dao búa, sợ ma; sợ thú dữ; sợ nhện; sợ rắn…. sợ lung tung đều  là tâm thức (conscious) của sự sợ chết; hay nói cách khác con người không muốn chết.

Tôi nhận thấy rằng sự đau đớn (thể xác hay tâm hồn – pain/suffering) và sự chết có nhiều liên quan mật thiết với nhau.

Khi một người tuyệt vọng muốn chết, muốn tự tử chẳng hạn, chỉ vì họ muốn đi thoát ra khỏi sự đau đớn hoặc khổ sở.  Người bệnh nặng muốn được chết vì không chịu nổi sự hành hạ của cơn bệnh. Không có người già nào muốn chết hay sẵn sàng chấp nhận cái chết. Họ muốn sống cho đến lúc… chết. Ngay cả những anh hùng chết vì các hy sinh cao cả; nhưng nếu họ có một lựa chọn khác, với cùng kết quả, thì tôi cam đoan là họ vẫn muốn chọn sự sống.

Không phải chỉ có con người mới sợ chết; Thú vật cũng sợ chết vậy. Thí dụ: Thú rừng thấy sư tử, cọp là hoảng, chạy dài vì sợ chết sớm. Tuy nhiên khi về già, thú vật có vẻ chấp nhận cái chết bình thản hơn con người. Chó già bắt đầu ngừng ăn để chờ chết; Voi già thường tìm mọi cách trở về lại chỗ nó sinh ra để chờ chết. Ngược lại, con người thì lại tìm đủ mọi cách để sống thêm ngày nào hay ngày đó; nếu được phép để cho chết một cách tự nhiên, không bắt đắc kỳ tử.

Nói chung, cá nhân tôi nhận thấy con người ai cũng sợ chết là vì:

– Người giàu sợ chết vì phải bỏ lại tài sản mà họ đã đổ mồ hôi, máu và nước mắt suốt cuộc đời để gây dựng. Họ muốn sống lâu để tạo ra thêm tiền; thêm của cải; và có dịp an hưởng sự giàu có.

– Người nghèo sợ chết vì thấy cuộc đời mình còn nhiều “bất công.” Mặc dù cái chết có thể giúp họ thoát khỏi những khó khăn, đau khổ của cuộc sống; nhưng họ vẫn muốn sống để mong thấy may mắn có thể sẽ xảy đến cho họ ở “phút cuối cùng.”

– Người bình thường (không giàu mà cũng không nghèo) đang sống yên ổn thì sợ chết vì phải bỏ lại những người thân yêu: cha mẹ già, con thơ, vợ dại. Bỏ lại những ước mơ, kỳ vọng, hạnh phúc dở dang chưa đạt được.

Đối với loại người “sợ đủ thứ” (sợ vợ, sợ vớ vẩn…) thì chết là một ác mộng (!) Không biết có đời sống sau khi chết hay không? Có còn ai nhớ đến mình sau khi chết?

Muốn sống cho lâu, thiển nghĩ hãy chịu khó làm theo lời hướng dẫn của các đấng thiêng liêng và một số hiền giả sau:

– Khổng Tử đã dạy chúng ta một chân lý muôn đời:

“Khôn chết. Dại chết. Chỉ biết mới sống.”

– Charles Darwin, một khoa học gia nổi tiếng về sự tiến hóa, giải nghĩa rõ hơn về điều mà Khổng Tử nhắc nhở (“biết”):

“Khôn chết. Dại chết. Biết thích ứng (adapt) thì sống.”

– Đức Phật

Có ngưởi hỏi Đức Phật là:

“Thầy ngồi thiền thì được (gained) gì?”

Đức Phật trả lời:

“Ta chẳng được gì cả (I gained ‘NOTHING’). Nhưng ta sẽ mất đi (have LOST) sự tức giận, sự buồn phiền, sự bất an và nhất là sự sợ chết…”

– Đức Chúa Giê-su

Chúa phán rằng:

“Ta là bánh hằng sống từ trên trời xuống; nếu ai ăn bánh ấy, thì sẽ sống vô cùng…”

“Jesus states that ‘he—who eats my flesh and drinks my blood has eternal life.’ “

– John 6:51

Tóm lại, chỉ lo cho sự sống thôi là đủ toát mồ hôi… trán rồi. Lo sợ làm cái quái gì vô ích về sự chết vì chuyện đó đã có cả một “kỹ nghệ chuyên ngành” (ngành thương mại về Hậu sự) lo rồi; Đâu có tới phần mình. Lo bò trắng răng hà?!

Mọi người đều có số cả. It is not over until it is over! OK.

Trần Văn Giang | HNPĐ

LQT

Đừng Nhớ Người Xa—Hoàng Thục Linh | Motif Music Group

 

 

Đoàn Vượn Vói Trăng—Nguyễn Thị Hải Hà

Ban đầu bà không chú ý, nhưng gặp nó nhiều lần bà bỗng đâm ra nghi ngờ, phải chăng đó chỉ là ảo giác của bà?

Hôm nọ, bà đi đám tang. Người qua đời là chị vợ của anh xếp, người Mỹ. Nhà quàn ở gần trạm xe lửa Fanwood cách trạm Dunellen của bà, ba trạm. Mặc dù những người làm việc chung đề nghị bà đi chung xe với họ, bà khăng khăng từ chối.

– Giữa mùa đông mà trời ấm đẹp quá tôi muốn lợi dụng cơ hội này đi bộ vài con phố chừng năm phút cho thoải mái. Sau đó tôi sẽ đón xe lửa về nhà, giản dị lắm, các bạn không phải mất công đưa đón tôi.

Bà thích đi một mình. Nhất là bà biết trong số người đi dự đám tang có bà thư ký thối mồm. Cứ tưởng tượng ngồi chung xe, bà ta nói luôn mồm, và hơi thở của bà được dịp toát ra. Chỉ nghĩ đến thế bà đã thấy buồn nôn.

Bà đến trạm xe lửa Fanwood sớm hơn giờ ấn định khoảng 15 phút. Mùa Đông năm nay ấm bất thường. Người ta bảo rằng đây là triệu chứng bầu khí quyển bị hâm nóng. Fanwood là một trạm xe lửa nhỏ, thuộc loại di tích cổ, xinh xắn nhưng ít người dùng. “Nó,” ngồi cạnh bụi hoa tú cầu. Hồi mùa hè, bụi cây mọc um tùm cao hơn đầu người lấn che khuất cả lối đi hơi hẹp. Bây giờ, bụi cây chỉ còn là cành khô nên lối đi dường như rộng hơn. Nó ngồi quay lưng về hướng bà, cách độ mười mét. Thoạt nhìn bà tưởng nó là con sóc. Nếu là sóc thì hơi bé và màu đen thì khá hiếm. Chung quanh vắng tanh, không có gì để nhìn ngắm nên bà để ý đến nó hơn. Nhìn một hồi, cách nó bóc vỏ hạt dẻ đưa vào miệng nhấm nháp thì bà nhận ra nó là con vượn. Vượn đen. Xứ này là xứ lạnh, khu này tuy vắng nhưng vẫn là phố xá, làm gì có vượn chạy rong ngoài đường? Loại vượn này cũng rất hiếm vì nó rất bé, có thể nắm gọn trong lòng bàn tay. Tò mò bà đứng dậy đi gần đến nó thì nó bỏ đi. Đi bằng hai chân sau, lom khom với hai cánh tay thật dài. Một tay sờ đầu tay kia để thõng chạm mặt đất. Từ xa, xe lửa đang hú còi trước khi vào trạm, ánh đèn lấp lánh làm bà lóa mắt. Bà quay lại nhìn có ý tìm nhưng nó biến mất.

Trước đó, bà đã thấy nó ở nhà quàn. Trong tấm ảnh treo trên tường, bà chỉ thấy cái lưng của nó thôi. Một phụ nữ tuy còn còn trẻ nhưng đã béo xồ xề, mặc áo màu xám bạc lóng lánh như dát kim tuyến với xâu chuỗi thật to che lấp cả vùng ngực đồ sộ của cô ta. Cô ta ngồi phía trước, lấp đi một phần tấm ảnh. Tấm ảnh sống động đến độ bà có cảm tưởng con vượn ngồi trên vai của cô ta. Bà thầm nghĩ, không biết cô này chưng diện để đi đám tang hay đi dạ tiệc. Ối sao bà khắt khe, bà tự mắng thầm. Nhà quàn vẫn là chỗ cho người ta tìm cách ký hợp đồng mua bán, hay móc nối để thăng quan tiến chức từ trước đến nay kia mà. Bà tò mò ngắm chung quanh, tự hỏi đến ngày mình qua đời khung cảnh có như thế này không. Khi mắt bà quay trở lại chỗ cũ, cô gái to béo mặc áo màu xám bạc lóng lánh đã rời chỗ ngồi. Con vượn không còn ở trong tấm ảnh nữa mà thay vào đó là con đường hun hút đi vào vô tận. Chắc là mắt mình quáng chứ ai lại treo ảnh vượn trong nhà quàn. Bà thầm trách mình.

Bà lại thấy nó ở cánh rừng sau nhà. Nó ngồi thu lu trên cành cây khô, thoạt nhìn tưởng con chim quạ. Nhưng khi nó đánh đu vắt vẻo rồi chuyền từ cành nọ qua cành kia. Lại cũng chính là nó, con vượn bà nhìn thấy ở nhà quàn. Bà gặp nó trước đó nhiều lần, ở góc phố, gần tiệm Pizza, thậm chí trong tường kính cửa sổ. Bà cho đó là ảo giác nhưng tự hỏi tại sao lại là con vượn mà không là một cái gì khác. Con vượn xuất hiện cùng lúc với cơn đau âm ỉ ở phía sau cần cổ, phía phải. Thỉnh thoảng hai chân bà yếu hẳn. Bà ngồi nhiều hơn đi.

Rừng có rất nhiều dây leo. Những sợi dây leo thật chắc, nhỏ thì bằng ngón tay, to thì bằng cổ chân. Có sợi từ bên trên thòng xuống khoanh thành nhiều vòng trên mặt đất. Nhìn thấy những dây leo này tận mắt sẽ nghĩ rằng chuyện đu dây của Tarzan, không phải chỉ hoàn toàn dựa vào tưởng tượng. Có sợi dây leo, lại dường như mọc từ dưới đất lên, vì nó chôn cứng dưới mặt đất và mọc song song với chiều cao của cây. Những sợi dây này giúp con vượn tuột từ trên cao xuống mặt đất dễ dàng và nhanh chóng.

Bà muốn gọi báo Cảnh sát là có con vượn ở đằng sau nhà, nhưng ngại hình ảnh con vượn chỉ là ảo giác trong mắt bà, khi Cảnh sát đến không thấy nó bà sẽ khó giải thích. Dẫu con vượn là sự thật thì chưa chắc nó đã ngồi yên một chỗ. Dự báo thời tiết sẽ lạnh nhiệt độ đêm nay sẽ rơi rất nhanh và có tuyết làm bà lo ngại. Đây không phải là vượn trắng mặt đỏ của người Nhật nên chắc là nó không chịu lạnh nổi. Bà tự hỏi có cách nào để dụ con vượn vào nhà để tránh cơn tuyết đêm nay không?

Con vượn dần dần đến gần bà. Từ trên ngọn cây, tụt xuống gốc cây, mon men đến ngồi trên đầu hàng rào bê tông, vượt khoảng sân nhỏ, rồi lên trên sàn gỗ. Nó ngồi ở bụi cúc khô nhìn bà như chờ được cho ăn. Da mặt nó đen bóng nhưng nét mặt giống một đứa trẻ. Một con vượn rất bé cao chừng chưa đầy hai tấc. Bà nhớ có nghe đến một loại vượn màu đen rất bé gọi là Hầu Viên, người bình dân gọi là con lọ nồi. Có mấy hạt walnut bóc vỏ sẵn đang cầm trên tay bà đưa cho Hầu Viên. Bà ngạc nhiên khi nó tiến đến gần đưa tay nhận walnut mà không có chút gì sợ hãi. Khi bà mở cửa sau trở vào nhà, Hầu Viên, như một đứa bé, nắm tay bà đi theo.

– Hầu Viên không sợ loài người à? Tôi đang định gọi Cảnh Sát đây.

Bà hỏi, không nghĩ là sẽ được nghe câu trả lời. Tuy nhiên, khi Hầu Viên chạm tay, bà nghe, âm thanh như vọng từ giếng sâu. Hầu Viên móc từ lỗ tai ra một cái gì đó giống như một quả nho đen, đưa cho bà rồi ra hiệu cho bà nhét vào lỗ tai. Đó là một viên ngọc đen bóng loáng. Hầu Viên giải thích.

– Đây là cái máy thông dịch các loại ngôn ngữ giữa người-và-người và người-và-vật. Chỉ cần một người có nó là cả hai sẽ hiểu ngôn ngữ của nhau như cùng nói một ngôn ngữ. Mãi đến lúc này bà vẫn không tin là bà nhìn thấy một con vượn đi theo bà khắp nơi nên tôi biết bà sẽ không nói với ai cả. Bà sợ người ta nghĩ là bà bị bệnh ảo giác. Bà chỉ than đau đầu mà người ta đã bắt đầu soi rọi bộ não của bà mấy lần.

– Vâng, họ bảo sợ rằng tôi có bệnh khối u trong não. Bà nói.

– Thật ra, chỉ có người tôi muốn cho thấy mới có thể nhìn thấy tôi. Vả lại, loài người không phải ai cũng đáng sợ. Chỉ có bóng tối trong tâm hồn họ mới đáng sợ thôi. Tôi không sợ bà vì biết tôi bà đã lâu, tôi biết bà trước khi bà nhận ra tôi, biết cả bóng tối trong tâm hồn bà.

– Biết tôi? Sao hay vậy?

– Tôi ở trong nhà bà từ lâu. Chỉ có điều là bà không nhìn thấy tôi thôi.

– Ở trong nhà tôi? Bằng cách nào? Bà hỏi. Nếu đã ở sẵn trong nhà tôi thì tại sao lại đi theo tôi vào cửa sau. Có phải tôi đã gặp Hầu Viên ở Fanwood không?

– Vâng. Chính là tôi đó. Còn ở nhiều nơi nữa, bà biết những nơi bà đã nhìn thấy tôi mà. Tôi muốn bà quen với sự hiện diện của tôi, kẻo đột ngột quá tôi e bà sẽ có những phản ứng không hay. Bà đã khá yếu rồi dù bà cứ tưởng là bà còn khỏe lắm. Chúng ta gặp nhau từ mấy mươi năm về trước, ở cửa hiệu bán quà trong viện bảo tàng Sackler Washington DC. Hôm ấy bà mua một món đồ giá chín mươi chín đồng chín mươi chín xu. Bà trả bằng tờ giấy một trăm. Người bán hàng không có một xu để thối lại. Bà quên mang thẻ tín dụng. Người bán hàng cứ dặn dò bà phải trở lại để anh ta có thể thối tiền cho bà. Bà còn nhớ không?

– Tôi không nhớ vụ một xu, nhưng tôi nhớ mang máng có mua vài món quà trong đó có một xâu chuỗi chữ.

– Đúng là nó. Xâu chuỗi màu đen, bao gồm những chữ có nghĩa là khỉ bằng nhiều thứ ngôn ngữ trên thế giới. Hầu Viên đáp lời tôi. Ngưng một chút, nghiêng đầu nhìn tôi, Hầu Viên nói tiếp. Tôi là một chữ trong xâu chuỗi chữ ấy.

– Thảo nào, tôi nhìn thấy hình dáng Hầu Viên rất quen thuộc mà tôi không nhớ là gặp ở đâu.

– Thân người tôi, hai tay, và hai chân là hình chữ K, cùng với cái đuôi tạo thành chữ Khỉ theo tiếng Việt.

– Tuy nhiên cặp mắt của Hầu Viên rất giống cặp mắt của chữ Viên tiếng Hàn, người ta tạc làm sao mà đôi mắt giống như hai đóa hoa nho nhỏ.

– Cám ơn bà, đã khen tôi có đôi mắt đẹp như hai đóa hoa. Ít ra tôi cũng không đến nỗi xấu xí như Yoda.

Nghĩ cũng lạ, vì là loài vượn nên bà không sợ, chứ nếu đây là một người đàn ông chưa chắc là bà đã dám mời vào nhà. Dù đã nhiều lần nghe kể về loài khỉ hay bắt chước người, bật diêm quẹt làm cháy nhà, thấy người ta tắm trẻ bắt chước rồi nhận chìm đứa trẻ, thậm chí con vượn có thể giết người vì nổi giận; bà không thấy sợ hãi. Có lẽ một phần vì Hầu Viên có vẻ hiền lành thân thiện. Và có lẽ cũng vì Hầu Viên nhỏ bé lại có khuôn mặt giống người.

Ở cửa hàng bán quà của bảo tàng viện Sackler, bà nhìn xâu chuỗi, khắc bằng gỗ thông, sơn đen, giống y như xâu chuỗi chữ do Từ Băng sáng tác nhưng nhỏ hơn. Mỗi chữ to cỡ bàn tay của bà. Chuỗi chữ của Từ Băng treo từ tầng cao nhất của viện bảo tàng thòng xuống tầng hầm rồi chấm dứt nơi mặt hồ tĩnh tâm[1]. Khi cầm trên tay xâu chuỗi chữ bà cảm thấy như có luồng điện chạy dọc trên người rồi thoát ra trên từng đầu ngón tay. Trong lúc cảm thấy luồng điện bà cũng nhìn thấy những vùng sáng lóa. Trong những vùng sáng ấy là hình ảnh giống như những đoạn phim ngắn, hay những giấc mơ ngắn không ý nghĩa. Xâu chuỗi nóng ran lên, và bà có cảm tưởng xâu chuỗi sẽ thay đổi cuộc đời bà. Không biết là sẽ tốt hay xấu hơn nhưng sẽ là một thay đổi lớn.

– Lần đó tôi đi chơi với một người bạn trai. Không hợp tính, cãi nhau luôn, chuyến đi là cơ hội để chúng tôi suy nghĩ có nên tiếp tục duy trì mối tình không hạnh phúc hay không. Sau chuyến đi chúng tôi không còn gặp nhau. Anh ấy biến mất như tan loãng vào hư không. Không một lời từ biệt. Tôi ngỡ là anh ấy giữ xâu chuỗi và tôi vì không muốn gặp lại, cũng không muốn anh ấy ngờ rằng tôi viện cớ để gặp lại anh ấy nên cũng không gọi điện thoại hay nhắc nhở gì cả. Tôi không ngờ xâu chuỗi chữ vẫn ở trong nhà tôi. Và hôm nay gặp Hầu Viên, chắc phải có duyên gì, chứ không lẽ Hầu Viên gặp tôi chỉ để hoàn lại một xu mà ngay từ đầu đã không phải là món nợ của Hầu Viên?

– Bà sẽ ngạc nhiên vô cùng khi thấy cuộc đời là những chuỗi nợ chỉ nhỏ bằng một xu. Hầu Viên mỉm cười, giọng thong thả như nói đùa.

– Thế Hầu Viên sẽ trả nợ như thế nào?

– Tôi sẽ chữa bệnh cho bà.

– Tôi không có bệnh gì cả.

– Bà bị bệnh chấn thương tâm lý sau chuyến vượt biển của bà. Tuy bệnh của bà không phá hủy nếp sống thầm lặng của bà, nhưng nó ngăn cản bà có một cuộc sống hạnh phúc. Bà sợ hãi nhiều thứ và bà quá cầu toàn.

Hầu Viên kê khai chứng bệnh của tôi và tôi công nhận là nhiều cái cũng có lý. Thí dụ như tôi sợ đi xa vì đi xa thì phải lái xe. Tôi sợ lái xe vì sợ hư xe, xe chết máy

dọc đường, và những bất trắc trên đường như gặp kẻ xấu lúc xe hư. Tôi sợ người yêu giết tôi chết bằng cách dàn xếp cho xe gặp tai nạn, chọn đường nhỏ vắng để dễ giết tôi. Đi máy bay thì sợ máy bay rớt, sợ không tặc. Đi tàu thì sợ tàu chìm và nhớ lại cảm giác khi vượt biển bằng thuyền. Tôi luôn luôn nhìn thấy những thói hư tật xấu của bạn bè và người thân. Tôi đòi hỏi sự sạch sẽ, ngăn nắp tuyệt đối do đó tôi không thể sống chung với người khác hay nuôi thú vật. Tôi không muốn đi du lịch sang các nước khác vì sang Nhật thì sợ phóng xạ, sóng thần, động đất. Sang Việt Nam thì sợ bắt bớ vô cớ, xe cộ không theo đúng luật lưu thông, thức ăn có chất độc.

– Tôi thấy khó đồng ý với Hầu Viên. Cho dù bản tính tôi có hơi kỳ quặc nhưng tôi không nghĩ đó là bệnh tâm lý. Tôi yêu đàn ông nhưng không đủ để chịu đựng nỗi khổ do sống chung với họ. Và tôi cũng từng nuôi mèo. Con mèo cũng là nỗi khổ của tôi vì tôi phải thu dọn săn sóc nó, nhưng dẫu sao vẫn ít nhọc nhằn hơn nuôi một đứa bé. Nhưng giả tỉ như Hầu Viên nói đúng thì Hầu Viên sẽ chữa trị bằng cách nào? Dùng trò chuyện như một phương pháp trị liệu tâm lý? Hay đưa tôi vào bệnh viện tâm thần?

Hầu Viên dẫn tôi xuống hầm. Khi người bạn trai của tôi biến mất, anh ấy có để lại một ít đồ vụn vặt chứa trong một cái thùng nằm khuất ở góc hầm. Tôi tránh nhìn đến nó. Thỉnh thoảng nhìn thấy nó tôi hậm hực, tình yêu ra đi nhưng rác rưới còn sót lại. Hầu Viên biết chỗ của xâu chuỗi chữ vì nó đã từng là nơi trú ẩn của Hầu Viên. Mang xâu chuỗi chữ lên tầng trên, Hầu Viên treo một đầu của xâu chuỗi chữ lên cái đèn treo trên trần. Sau đó, Hầu Viên giúp tôi đẩy cái bàn trong phòng học dạt qua một bên.

Chuỗi chữ dài chấm đất trông giống như một đàn khỉ đang níu tay nhau. Hầu Viên, lấy hộp phấn màu, loại dùng để vẽ lên mặt đất tôi mua vào dịp xem triễn lãm vẽ trên đường phố, vẽ thoăn thoắt trên nền nhà. Nền nhà tôi biến thành một cái hồ gợn sóng.

Đúng như thời tiết đã dự đoán. Trời đổ tuyết. Những hạt tuyết mềm rơi tạt vào cửa kính những âm thanh dịu dàng. Ngoài tiếng tuyết vơi vạn vật trở nên êm đềm tĩnh lặng.

– Bà rời bỏ quê hương xứ sở vì không thể sống ở đó. Bà cũng không thích nơi bà ở bây giờ, coi nó chỉ là nơi tạm trú. Bà có một nơi chốn lý tưởng nào không?

– Ý của Hầu Viên muốn hỏi là tôi có mơ ước được sống ở thiên đàng hay một utopia phải không? Hầu Viên có tin là có thiên đàng hay không?

– Tôi tin là có một thế giới hoàn hảo hơn thế giới chúng ta đang sống. Hầu Viên trả lời. Nhưng trước hết tôi phải chữa bệnh cho bà đã. Bệnh của bà là do có quá nhiều tính khỉ trong người.

Hầu Viên nắm nhẹ ngón tay út của bà, và từ từ rút ra, ban đầu chỉ là sợi tơ rồi sợi tơ dần dần lớn lên biến thành một người giống như bà nhưng nhỏ hơn, chỉ cao cỡ bàn tay, đầu ngón tay út của người này vẫn còn nối vào đầu ngón tay út của bà. Hầu Viên bứt sợi tơ giữa hai đầu ngón tay út, nhẹ nhàng hơn bứt một cọng kẹo kéo. Bà có cảm giác một phần tư tưởng bị rứt ra khỏi thể xác nhưng không làm cho bà cảm thấy đau đớn. Trái lại bà thấy người nhẹ nhõm như vừa trút được một mối lo âu nào đó. Hầu Viên rút một hơi ra cả chục người bé tí như thế. Hầu Viên chỉ từng người và giải thích. Bà này tự cao, cứ nghĩ là mình giỏi, thông minh hơn người những lời bà thốt ra toàn là chân thiện mỹ. Bà này ghét người giàu, người đẹp hơn bà. Bà này ham mê quyền lực, muốn mọi người phải phủ phục tuân lệnh bà. Bà này tuy giàu nhưng có tật ăn cắp vặt, vì cho rằng những thứ người ta bán quá đắt, không xứng đáng với giá trị món đồ. Bà này yêu người có vợ và luôn nuôi ý tưởng ngoại tình. Bà này cố chấp và ngoan cố không biết phục thiện. Bà này có tật thù dai. Bà này lường gạt vài mối tình chân thật dùng lời ngon ngọt chinh phục trái tim người ta rồi bỏ vì chán. Bà này cứ tự cho những gì mình viết là văn chương đáng lưu giữ muôn đời, cố gắng cạnh tranh dùng mưu mẹo để được ghi vào văn học sử.

Những người phụ nữ bé nhỏ này có hình dáng rất giống bà. Họ rủ nhau ra phòng khách chuyện trò sôi nổi về văn học, âm nhạc, và phim ảnh. Tuy nhiên chỉ một lúc sau họ đã tranh cãi chí chóe những vấn đề về nữ quyền, dịch thuật, văn học di dân. Và chính trị nữa, Giời ạ! Họ ném nhau bằng cà chua và trứng bẩn thỉu cả cái phòng khách sạch sẽ của bà.

– Không ngờ trong tôi có nhiều cái tính khỉ đến thế. Bà thở dài nói với Hầu Viên. Cái xấu đã ra khỏi người tôi và bây giờ tôi phải sống trong cảnh hỗn độn này. Tôi không thể mang họ trở lại vào bên trong tôi.

– Bà đừng buồn. Chập sau họ sẽ rủ nhau ra đi cả trả lại nếp sống yên tĩnh của ngôi nhà này. Nếu bà muốn tôi sẽ tặng bà một chuyến đi chơi xa, coi như là một hình thức chữa bệnh cho bà.

Hầu Viên dẫn bà đến xâu chuỗi chữ thòng xuống mặt hồ bảo bà nhìn vào. Bên cạnh bà, trong hồ là một thanh niên mặt vuông, tóc dợn sóng. Bà thấy quen mà không nhớ ra là ai. Anh ta bảo rằng bà nợ anh ta một món nợ lớn. Và hôm nay là ngày bà phải trả nợ. Mặt hồ biến thành một màn ảnh, và trên màn ảnh là một khúc phim xưa đã phai màu.

Bà thấy những hình ảnh như sau. Chàng trai đứng trong một nhà thờ nói chuyện với những người ăn mặc đơn giản nghèo nàn như những người tị nạn. Chàng trai dẫn một cô gái trẻ đi mua sắm ở một thương xá đắt tiền. Chàng đòi hôn, cô gái từ chối. Kẹt xe, chàng trai cáu kỉnh mắng chửi người lái xe chung quanh. Chàng trai người dính đầy máu, cảnh sát còng tay, đang ấn đầu chàng trai cúi xuống lúc vào xe cảnh sát.

– Bà vừa xem lại quá khứ của bà ở hồ tĩnh tâm. Bà không nhớ gì phải không? Khi tâm lý của bà không chịu đựng được một sự thật đắng cay, ký ức bị đẩy vào lãng quên. Mấy mươi năm về trước, khi bà mới sang Mỹ, bà có quen một người Thân, người đàn ông bà nhìn thấy trong mặt hồ. Anh ta là người H’ Mong sống ở Lào. Bà và Thân gặp nhau ở nhà thờ nơi bà học Anh ngữ. Thân nhiều lần đưa bà đi chơi và mua sắm quần áo quà cáp cho bà. Bà nhận quà và Thân nghĩ là bà cũng yêu Thân nên bày tỏ tình yêu. Bà lợi dụng Thân và khi thấy Thân muốn tiến xa hơn, bà tuyệt giao với Thân. Những món quà ngày xưa là món nợ lớn của bà.

– Bây giờ tôi nhớ ra rồi. Anh ta làm phụ bếp cho một nhà hàng Tàu, so với đồng lương của anh ta thì những món quà anh ta cho tôi quả là rất lớn, rất tốn kém. Lúc ấy tôi nghèo quá, Thân cho tôi những món quà quá xa xỉ và nó khêu gợi lòng kiêu căng và tham lam muốn sở hữu những thứ mà đàn bà con gái đều yêu thích. Tôi không yêu anh ấy không phải vì anh ấy nghèo và ít học, mà vì anh ấy rất nóng nảy cộc cằn. Tôi nhìn thấy vẻ hung tợn của anh ấy và e ngại sau này sẽ trở thành nạn nhân dưới tay của anh ta. Tôi dứt khóat không gặp anh ta nữa. Ngoài tôi ra anh ấy còn quen nhiều người nhưng ai cũng lảng tránh anh ta. Tôi nghĩ tôi đã quyết định khôn ngoan.

– Sự từ chối tình yêu của bà, cộng thêm sự từ chối của nhiều phụ nữ khác, với Thân đó là sự phản bội. Anh ta nảy sinh lòng thù hận phụ nữ. Anh cưới một người phụ nữ người Hispanic. Nghi là người phụ nữ này ngoại tình, anh ta giết chết người phụ nữ này. Giết bằng dao, moi móc cả tim gan ra ngoài để xem trái tim của người đàn bà ra thế nào mà người nào cũng phản bội anh ta.

– Vâng, tôi có đọc tin ấy trên báo. Cảnh Sát đến bắt người anh ta đầy máu me. Và nội tạng của người phụ nữ vương vãi khắp phòng.

– Bây giờ tôi phải làm gì? Tôi không nghĩ những món quà anh ta cho tôi có thể xem là nợ, tại vì anh ta tự nguyện tặng quà cho tôi.

– Anh ta tặng quà cho bà với ý nghĩ tặng quà cho người yêu. Hễ bà nhận quà tức là đồng ý đáp lại tình yêu.

– Cho dù ban đầu tôi có cảm tình với anh ta thì tôi cũng sẽ rời bỏ vì cái tính hung tợn của anh ta. Anh ta trút nỗi hận vào một người đàn bà điều đó không làm anh ta đáng được tha thứ và cũng không làm tôi cảm thấy đó là lỗi của tôi. Thật đáng thương cho người phụ nữ bị anh ta giết chết như vậy. Tôi rất tiếc đã không thể đáp

lại những món quà anh ta cho tôi nhưng không đồng ý với quan điểm của Hầu Viên. Người Việt Nam thường nói, bắc thang lên hỏi ông trời, có tiền cho gái có đòi được không. Dẫu đó là nợ thì tôi cũng sẽ không trả nợ này.

Hầu Viên khoát tay, tỏ ý không muốn tranh cãi với bà. Bà nghĩ thầm chuyện kỳ lạ thật. Hầu Viên không phải là người nợ bà một xu, bà cũng không hề đòi món nợ này, thế mà hắn vẫn tìm đến bà để trả nợ. Giả tỉ như Thân cứ nhất định đòi nợ thì bà phải phản ứng thế nào đây?

– Tôi không đòi nợ. Tôi chỉ muốn rút ra hết những tính khỉ trong người bà và sau đó sẽ giới thiệu với bà một thế giới khác có thể hợp ý với bà, sẽ được xem là tốt đẹp hơn cái cõi người mà chúng ta đang sống.

Những người phụ nữ nhỏ bé, một phần trong con người bà ở ngoài phòng khách đã thôi cãi nhau. Mỗi người cắm cúi vào smart phone, tablet, notebook, laptop hướng về cõi người của riêng họ. Hầu Viên mời bà nhìn vào mặt hồ tĩnh tâm lần nữa.

Bên ngoài, tuyết rơi lặng lẽ, bầu trời đầy mây có ánh sáng màu hồng nhạt như thể ở bên kia lớp mây dày có một vầng ánh sáng. Hồ tĩnh tâm, hay là cái hình vẽ không gian ba chiều giống như vũng nước ngay bên dưới xâu chuỗi chữ khỉ, lăn tăn gợn sóng với vầng trăng. Hầu Viên nói như một hướng dẫn viên du lịch.

– Đi theo hướng vầng trăng, bà sẽ đến nơi đó. Một vùng đất gần như toàn hảo. Không khí sạch, thức ăn sạch, có thiên nhiên ngay trong thành phố, không chiến tranh, không tội ác. Người ta có thể kiểm soát cái chết, tự thiết kế cách chết cho mình trong tương lai. Thí dụ như một người sau khi sống lâu quá cảm thấy muốn chọn cho mình một cái chết không đau đớn hay bệnh tật thì ý muốn này có thể thực hiện được.

– Bằng cách nào?

– Người ta đến một trại an dưỡng dành cho người tự thiết kế cái phần kết thúc cuộc sống, chọn chương trình và ghi vào máy.

– Như là programming vậy? Tôi ngắt lời.

– Vâng. Hầu Viên gật đầu, nói tiếp. Người ấy sẽ rút ra một phần người (hay nói đúng hơn, một phần khỉ) để nằm ngủ ở trại an dưỡng và cái phần người muốn làm gì tùy thích cho đến lúc cái program ấy bắt đầu.

– Thú vị nhỉ?

– Thú vị gấp nhiều lần hơn cái tôi vừa kể. Tôi không thể miêu tả cho hết cuộc sống ở thế giới đó. Mỗi người phải tự trải nghiệm mà thôi.

– Giả tỉ như tôi đến đó một thời gian sau tôi muốn quay về nơi này, thì điều này có thể thực hiện không?

– Có chứ. Thì bà cứ đi ngược hướng trở lại. Xâu chuỗi chữ này sẽ là nhịp cầu nối của hai thế giới. Tôi tin là khi đến đó bà sẽ không muốn quay về.

– Nguyên xâu chuỗi này có nhiều chữ, tại sao chỉ có một mình Hầu Viên đến đây? Bà hỏi.

– Đây không phải là xâu chuỗi độc nhất. Và mỗi chữ khỉ đi về nơi ngôn ngữ gốc của nó, nơi có nguồn nợ của nó.

– Hầu Viên rút ra từ tôi nhiều người giống tôi và chứa tính khỉ của tôi. Những người này sẽ như thế nào?

– Họ có thể biến thành khỉ và đi đến bất cứ nơi nào họ thích. Hay họ có thể ở lại nhà này. Họ sẽ là bạn của nhau, là chị em với nhau, vì không ai biết rõ ý thích và tính nết của họ hơn.

– Suốt đời tôi ở mãi một nơi, nhiều khi lòng tôi mơ ước được thăm viếng hay sống một nơi hoàn toàn khác hẵn cuộc sống hiện nay. Tôi muốn thử đến nơi có vầng trăng dưới hồ tĩnh tâm. Nếu không thích sống ở đó tôi sẽ quay trở lại.

Hầu Viên gật đầu, nắm tay bà dẫn đến miệng hồ. Tay bà cầm lấy một đầu xâu chuỗi chữ. Chân bà vừa chạm mặt nước hồ thì ngay lập tức bà biến thành một con khỉ nhỏ bằng bàn tay, leo thoăn thoắt xuống lòng hồ về hướng mặt trăng. Hầu Viên nói vọng theo.

– Nếu bà trở ngược đầu, bà sẽ nhìn thấy vầng trăng biến thành mặt trời, và ánh đèn này sẽ trở thành mặt trăng. Một trong những cách có thể giúp bà trở lại căn nhà này là bà phải tìm cho ra một người nào đó đồng ý mua xâu chuỗi chữ khỉ này và làm sao cho họ thiếu nợ bà ít nhất là một xu. Phần tiếp theo là tất cả những chi tiết vừa xảy ra tối hôm nay, bà biết rồi. Bà cần gom lại tất cả tính khỉ của bà, mỗi con người rút ra từ thân xác của bà có mang một phần trí tuệ của bà. Nếu thiếu nhiều phần người, bà sẽ bị mất trí nhớ.

Hầu Viên tháo xâu chuỗi từ đèn treo trên trần rồi ném vào nó vào trong hồ tĩnh tâm. Mặt nước khô dần để lại sàn nhà với nhiều nét phấn vẽ. Hầu Viên chọn một tấm ảnh của bà đắp lên mặt và từ từ biến thành một phụ nữ giống như bà. Những người đàn bà nhỏ bé biến thành một những con khỉ nhỏ rất đáng yêu. Người đàn bà ra đứng cạnh cửa sổ, hé rèm nhìn ra bên ngoài. Tuyết đã ngưng rơi.

Hầu Viên vốn là một người sống ở thế giới dưới đáy hồ đi về hướng mặt trăng. Sau một thời gian sống quá lâu ở một nơi thật nhạt nhẽo, không có cái xấu vì thế không có cái tốt, không có nỗi buồn nên không có niềm vui, không có cái chết nên cái sống trở nên vô nghĩa. Hầu Viên chọn cách chết cho Hầu Viên bằng cách trở lại cõi thế gian.

[1] Từ Băng, nghệ sĩ điêu khắc đương đại, đã sáng tác một xâu chuỗi khắc bằng gỗ bao gồm chữ khỉ của nhiều ngôn ngữ trên thế giới như tiếng Ả rập, Đại hàn, Trung quốc, và Anh quốc. Xâu chuỗi chữ này được treo từ trên tầng cao nhất đến tầng hầm của viện bảo tàng Sackler (Washington DC). Chuỗi chữ này chấm dứt bên trên một hồ nước. Xâu chuỗi chữ là hiện thân của một câu chuyện dân gian. Ngày xưa có một đàn vượn chơi đùa trên cây cao dưới bóng trăng. Một con khỉ nhìn thấy bóng trăng trong hồ tưởng rằng mặt trăng đã rơi xuống nước nên kêu gọi cả đàn đi vớt mặt trăng. Từ trên ngọn cây đàn vượn nắm tay nhau tạo thành một chuỗi dài thả xuống hồ. Khi đụng vào mặt nước mặt trăng vỡ vụn. Loài vượn bảo nhau mặt trăng, kho tàng quí giá của thiên nhiên mất rồi, buồn quá kêu khóc vang trời. Một con vượn khác bình tĩnh hơn chỉ lên trời bảo rằng, mặt trăng vẫn còn, dưới hồ chỉ là bóng trăng trong nước.

Nguyễn Thị Hải Hà

Chuyện Tình—Quốc Khanh & Hoàng Thục Linh | Motif Music Group

Theo Con Thuyền Ngược—Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

Cơn sốt hành hạ Trần Vũ đã một tháng liền. Những liều thuốc xuyên tâm liên, ký ninh nội địa không đủ độ triệt hạ họ hàng lũ vi trùng sốt rét độc địa đã bám trụ cả ngàn năm tại khu rừng già nầy. Nhìn khuôn mặt tóp rọp vì thiếu ăn thêm màu da vàng tái vì mất máu, không ai nhận ra chàng phi công  hai mươi tám tuổi lái chiến đấu cơ thuở nào..

Trần Vũ  dáng người dong dỏng cao, khuôn mặt thanh tú. Cặp mắt to đen với hàng lông mi dài đậm lại thêm ánh mắt nhìn cuả Vũ đầy quyến rũ. Thời “oanh liệt”, không biết có bao nhiêu con tim nữ giới đã đắm đuối trong vòng tay chàng trai pilot hào hoa nầy?

Khi ra khỏi bệnh xá, Vũ hoàn toàn kiệt sức. Ban giám thị trại sắp xếp cho  hắn vào toán làm việc nhẹ. Vì còn trẻ và nhanh nhẹn nên Vũ được điều đến giúp việc cho cán bộ Quản lý..
Buổi sáng đầu tuần, nhận lệnh của cán bộ trực ban, Vũ đến trình diện cán bộ Hạnh. Hắn lững thững đến khu nhà tập thể của cán bộ  tìm chị quản lý. Vừa tới khu chứa thóc, Vũ chợt thấy một cô gái mặc áo trắng quần tây xanh với mái tóc đen dài xõa kín bờ vai rất “nữ sinh” cũng lững thững đi ngược chiều. Vũ gục đầu chào và lên tiếng hỏi:

– Có phải tên cô là Hạnh không ạ?

Cô gái dừng chân, trừng mắt nhìn Vũ rồi nghiêm nghị hỏi lại:

– Nội qui có cho phép Tù Cải Tạo gọi cán bộ bằng cô không nhỉ?
Vũ chưa kịp trả lời, chị tiếp:

– Anh phải gọi tôi là cán bộ Hạnh.

– Vâng ạ, báo cáo cán bộ, tôi tên Trần Vũ thuộc toán làm việc nhẹ được lệnh Ban Giám Thị điều lên kho phụ việc.

Ánh mắt chị quản lý lướt nhanh trên tòan thân Vũ rồi với giọng chua chát:

– Mất sức còn cho lên đây làm gì nhỉ? Kho, đâu phải là chỗ dưỡng sức, các đồng chí trên ấy… Chị bỏ lửng câu nói rồi hất đầu về phía dãy nhà chứa thóc bảo:

– Thôi được, anh vào đấy ngồi chờ, tôi đến làm việc với thủ trưởng một khắc, sẽ bố trí công tác cho anh sau.

Chị quày quả bước chân về hướng khu nhà của Ban Giám Thị. Những căn nhà xây, mái ngói đỏ rực, đứng ngạo nghễ trên đỉnh đồi. Một công trình do sức lực, mồ hôi và nước mắt của tù dựng lên. Vũ thở dài ngao ngán. Dãy nhà kho nằm lưng chừng đồi nối dài ba căn. Tất cả đồ tiếp liệu cho trên một ngàn tù nhân và cán bộ được chứa trong đó.

Nửa giờ sau, cán bộ Hạnh trở lại, hất hàm bảo:

– Tôi tạm thời dùng anh một tuần lễ. Nếu anh không đủ sức làm việc, tôi sẽ trả anh về trại.

Vũ lặng thinh, bụng bảo dạ: “Nước sông công tù, nơi nào vẫn thế!”

Chị quản lý vừa mở cửa kho vừa gọi:

– Anh vào đây.

Vũ bước theo. Mùi gạo mốc, cá khô, nước mắm xông lên nồng nặc.

– Anh hốt hết gạo đổ trên nền kho, lượm sạch sạn, cứt chuột, xong dồn vào bao.

Chị quản lý ra lệnh cho Vũ,  rồi chỉ tay về hướng góc nhà:

– Đồ dùng ở đằng kia.

Vũ lặng lẽ đến nơi chứa dụng cụ lấy cây chổi quét gom số gạo vung vãi vào một nơi. Cán bộ Hạnh  đưa cho hắn chiếc sàng và nia. Vũ xúc gạo vào sàng, hai tay đưa chiếc sàng qua lại. Đất bột, cát và những hạt tấm lọt qua các lỗ nhỏ, còn lại trên mặt sàng là gạo, sạn, lúa và cứt chuột trộn lẫn với nhau. Vũ cố nhớ ngày xưa mẹ hắn đã sàng bằng cách nào mà gạo nhóm vào giữa, sạn thóc nổi lên trên.
Chị cán bộ xẵng lời:

– Nhìn cách làm của anh đủ thấy cái thói ăn bám vào nhân dân, không chịu lao động.
Vũ tức điên người trước thái độ xấc láo của con bé quản lý. Anh cố đè nén cơn giận đang bùng lên. Vũ muốn thét to vào mặt ả:

– Nghề nghiệp của tao là lái máy bay, đâu phải nghề làm gạo hàng xáo!

Vũ được đào tạo tại Hoa Kỳ và đã thực hiện hàng bao nhiêu chục  phi vụ với mấy trăm  giờ bay. Mỗi lần máy bay cất cánh là Cộng quân “hồn xiêu phách lạc”. Anh luôn luôn mang về chiến thắng. Điều khiển một chiếc máy bay biết bao là động tác phức tạp. Tấm bảng điều hướng phi cụ chằng chịt những đồ thị, đối với anh chỉ là việc thường tình. Vậy mà cái công việc sàng gạo đối với Vũ lại khó khăn, nhiêu khê đến thế!

Sàng gạo, một việc làm thường xuyên của mẹ. Với đôi tay mềm dẻo, mẹ nhẹ nhàng hất sàng lên, tay quay đều là gạo nhóm vào giữa, những hạt thóc nổi lên trên mặt sàng. Mẹ đã chọn những hạt gạo trên sàng dành cho anh mang ra tỉnh ăn học. Mẹ giữ lại phần gạo nát, tấm mẳn cho suốt cuộc đời mình. Ngày Vũ trở về nước, mẹ không còn nữa. Người chưa kịp thấy mảnh bằng phi công của con trai mình.

Cha Mẹ mất cả rồi. Người chị giờ lưu lạc phương trời nào. Vũ cảm thấy thương thân mình đơn độc, bỗng dưng nước mắt Vũ trào ra rơi trên sàng gạo. Anh giật mình, sợ cán bộ Hạnh trông thấy những giọt lệ, Vũ vội vàng lau mắt vào cánh tay áo. Chợt nhìn vào sàng gạo, Vũ ngạc nhiên thấy gạo trên sàng nhóm vào giữa chẳng khác gì sàng gạo của mẹ chàng ngày xưa. Thì ra, khi sàng gạo không nên chú ý quá vào đôi tay của mình, Vũ đã tìm ra nguyên tắc…

Chị cán bộ đi đâu đó quay về, nhìn đôi tay Vũ quay đều có vẻ sành sỏi y thị gúc gắc đầu.
Mồ hôi vã ra ướt đẫm cả lưng áo, Vũ đã gắng hết sức mình vượt thắng đôi tay rã rời để hoàn tất một công việc mà anh cho là của đàn bà con gái. Công việc nhẹ của nhà kho dành cho người mất sức trong buổi đầu như thế đấy!

Kẻng điểm giờ ăn trưa. Vũ báo cáo cán bộ về trại. Chị quản lý đưa cho chàng một trái chuối chín. Chuối, trước kia là món ăn tráng miệng hàng ngày, bây giờ là món “cao lương.” Qua bốn năm trong tù, lần đầu tiên Vũ mới ngửi được mùi chuối chín. Tay anh thọc vào túi áo vuốt ve vỏ chuối mịn màng, mát rượi. Vũ mân mê, trân quí nó như thuở còn bé mẹ đi chợ mua quà về cho con mà bé Vũ cố để dành thật lâu.

Ăn xong chén sắn độn cơm, Vũ mới bắt đầu thưởng thức cái giây phút ngất ngây: “ăn chuối chín.” Cắn từng miếng nhỏ, nuốt thật chậm, Vũ sợ không cảm nhận hết chất ngọt ngào và hương vị thơm lừng của chuối. Nhìn cái vỏ chuối vàng rực, Vũ chợt nhớ đến bài viết về Tân Dưỡng Sinh của một tác giả người Nhật đã khuyên rằng: “Ăn rau thì dùng luôn cả rễ, ăn trái cây đừng bỏ vỏ. Có như thế mới kết hợp được âm dương vốn luôn luôn cân bằng của thiên nhiên.” Một chén sắn trộn cơm đối với tù có thấm vào đâu. Nó chỉ làm kích thích thêm cái bao tử thèm ăn kinh niên. Và Vũ không đắn đo, nhai ngấu nghiến cái vỏ chuối còn đắng chát, rồi tự an ủi mình: “không bổ bề dọc cũng bổ bề ngang!”

Trở lại nhà kho, Vũ ngạc nhiên thấy cán bộ Hạnh đã có mặt. Chị trao cho Vũ hai tập vở học trò đã cuốn góc, bảo anh rà soát lại phần xuất và nhập hàng tiếp liệu có ăn khớp với nhau không. Nhìn vào hai cuốn sổ, đầu Vũ lùng bùng trước sự ghi chép vô cùng cẩu thả, chứng tỏ nghiệp vụ của “con bé” còn rất lơ tơ mơ.

Điểm đầu tiên được lòng cán bộ là anh đã phát hiện những nhầm lẫn sai biệt giữa phần xuất và nhập. Qua mấy ngày kế tiếp, Vũ đã bỏ ra rất nhiều thời gian để trình bày hai cuốn sổ điều hành mới có tính “chính quy” hơn. Mỗi trang đều có chung cột ghi ngày tháng, số lượng, tên loại hàng, chữ ký của người nhận, tên giới chức ra lệnh xuất, v. v…
Khi hai cuốn sổ khổ lớn bìa cứng trình bày khá đẹp mắt hoàn tất, cán bộ Hạnh mới thật sự cảm phục óc sáng kiến và sự khéo tay của Vũ. Qua hai tuần lễ thử thách, giờ đây Vũ nghiễm nhiên trở thành người giúp việc cho cán bộ quản lý.

Câu nói ví von của tù: “Làm nhà bếp đánh chết cũng no, gần nhà kho có lo gì đói,” giờ đây Vũ mới nhận chân được ý nghĩa của nó. Thân thể của Vũ có phần đầy đặn và da dẻ hồng hào nhờ những phần ăn từ nhà bếp do cán bộ Hạnh mang cho cùng với trứng vịt, chuối, đường bồi duỡng hàng ngày.

Vào ngày cuối tháng, Vũ ngồi liệt kê các loại thực phẩm đã xuất ra. Bàn bên cạnh, cán bộ Hạnh lo phần báo cáo số hàng tồn kho. Bất chợt nàng gọi:

– Anh Vũ!
Vũ ngửng đầu chờ đợi.

– Tôi muốn hỏi anh một điều. Nàng ngập ngừng…, nhưng phải trả lời thẳng thắn kia. Vũ gật đầu.

– Anh còn nhớ ngày đầu tiên lúc sàng gạo, anh đã khóc. Tôi ngại ngùng bỏ ra ngoài. Có phải vì câu nói của tôi đã làm anh tủi thân?

– Tôi bực mình thì đúng hơn. Vũ nhìn vào mắt chị cán bộ, trung thực tiếp, nhưng đó không phải là nguyên nhân đâu.

– Vậy, vì lý do nào?

– Thuở bé, khi mẹ tôi sàng gạo, tôi thường ngồi bên chờ lượm những hạt lúa  trên sàng vứt cho bầy gà đang đứng trước hiên. Đôi tay mẹ quây sàng thuần thục như ngày nay tôi điều khiển phi cơ. Những thao tác nghề nghiệp trở thành phản xạ tự nhiên. Tôi ngồi sàng gạo mà nghĩ đến mẹ. Ngày xưa Người không bao giờ tưởng tượng sẽ có ngày con trai mình phải cặm cụi làm cái công việc tầm thường này, bỗng nhiên tôi nhớ mẹ xót xa. Mẹ tôi góa bụa từ  lúc còn thanh xuân, thủ tiết thờ chồng, nuôi con. Ngày tôi giã từ mẹ lên đường sang Mỹ theo học lái máy bay, miệng mẹ nở nụ cười mà nước mắt Người đầm đìa trên khuôn mặt nhăn nheo. Mẹ vừa mừng, vừa thương đứa con trai đã hai mươi năm chưa lần nào xa mẹ. Người dặn dò tôi phải giữ gìn sức khoẻ, cố gắng học tập để mang mảnh bằng phi công về cho mẹ hãnh diện. Nhưng ngày về, mẹ tôi đã lìa đời. Mẹ mất vì bạo bệnh mà người chị đã cố ý giấu tôi.

– Chị anh bây giờ ở đâu? Hạnh tò mò hỏi.

– Bặt tin từ sau ngày 30 tháng 4.  Vũ lặng lẽ tiếp tục làm việc. Hạnh buông tiếng thở dài:

– Anh lái loại máy bay nào?

–  F5E.

– Có phải máy bay cánh cụp cánh xoè?

– Không, đây chỉ là loại khu trục chiến đấu dội bom và tác xạ.

– Nghe nói các nữ sinh Miền Nam mê mấy ông giặc lái lắm phải không?  Hạnh hỏi Vũ với giọng giè bỉu… Danh từ  giặc lái khiến cho Vũ khó chịu. Anh cúi đầu làm việc, giả vờ không nghe.

Cán bộ Hạnh không có nét đẹp quý phái nhưng khá duyên dáng, mặn mà. Một thân hình đầy đặn, cân đối.  Màu da nâu sáng khoẻ mạnh, thể hiện một mẫu người nghị lực và xốc vác. Khuôn mặt trái soan, với đôi hàm răng trắng đều, khiến cho nụ cười của nàng toát lên tính hồn nhiên đầy quyến rũ.

Vũ đến giúp việc cho cán bộ quản lý mới đó mà đã hơn ba tháng rồi.

Khác với ngày đầu tiên khi anh đến trình diện nhận việc, tính đanh đá, chua ngoa, đốp chát ở cán bộ Hạnh gần như biến mất mà thay vào đó là tính điềm đạm, lời nói trở nên dịu dàng lịch sự. Thái độ dằn mặt làm Vũ hụt hẫng trong buổi đầu dường như Hạnh đã cảm thấy mình vụng về. Dẫu biết địa vị mình là một “cán bộ cách mạng” và bên kia là tù cải tạo, nhiều lúc Hạnh lại thấy lúng túng khi xưng hô xẵng xớm với Vũ. Mỗi lần tiếp xúc với chàng, nàng không giữ được bản lãnh của một cán bộ quyền uy… Có một chút gì len lỏi trong nàng như tình cảm giữa hai người khác phái. Tính hồn nhiên trong Hạnh dần dà bộc lộ không gìn giữ như những ngày đầu đối với chàng. Từ những câu hỏi vụn vặt cách riêng “con gái”, cung cách xưng hô, sai bảo đã khiến Vũ cảm nhận có cái gì khang khác nơi người cán bộ quản lý.

Những ngày có Vũ, nhà kho trở nên ngăn nắp, sạch sẽ. Cán bộ Hạnh tiến bộ nhiều về mặt nghiệp vụ. Đặc biệt hơn cả là nàng đã bỏ cách nói năng kiểu “ bài học thuộc lòng như loài vẹt,” trở nên ngọt ngào và trí thức hơn. Sau nầy, Vũ còn phát hiện bản chất hiền hoà và thương người của Hạnh. Có lần nàng tâm sự:

– Tôi không chịu nổi cái cảnh tù cải tạo bị đói phải ăn cả cào cào, châu chấu.

Anh biết không, Hạnh nhìn Vũ rồi hạ thấp giọng:

–  Gia đình ông nội của Hạnh theo đạo Thiên Chúa, bố theo cách mạng bỏ đạo. Lần đầu tiên vào miền Nam, điều làm cho tôi ngạc nhiên nhất là nhà thờ nào cũng đồ sộ, còn ngoài Bắc thì tàn tạ. Ngừng một lúc, nàng đột ngột hỏi:

– Tại sao cấp trung học ở miền nam lại phải học tới mười hai  năm?

Vũ không trả lời trực tiếp câu hỏi mà chỉ nở nụ cười kiêu hãnh:

– Vì lẽ đó mà trình độ của học sinh tốt nghiệp Trung học giữa hai miền cách nhau một trời một vực.

Hạnh đồng ý với nhận xét của chàng và thú thật:

– Ngày giải phóng miền Nam, tôi đang theo ngành Quản lý Xí Nghiệp tại Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Khi tốt nghiệp ra trường họ xét lí lịch đưa tôi vào đây coi như trong giai đoạn thực tập. Qua nhiều lần tiếp xúc, gặp gỡ với các anh chị ở trong nầy tôi mới thấy mình còn rất non kém.

Hạnh nói một hơi dài như ngại không có cơ hội bày tỏ một tâm sự thầm kín. Vũ lặng im nhưng rất ngỡ ngàng và lòng đầy xúc động. “Con bé” đã nói thật lòng mình. Rất hiếm những tên cán bộ cộng sản lại bày tỏ lai lịch mình cho tù nhân nghe. Hình như tâm hồn trong sáng của một nữ sinh chưa bị tập nhiễm lề thói dối mình dối người. Vũ đưa ánh mắt nhìn Hạnh với lòng mến phục và thoáng chút biết ơn. Nàng bắt gặp ánh mắt đó và đáp lại chàng bằng nụ cười đầy cảm thông và trìu mến.

*  *  *

Từ sáng sớm, cán bộ quản lý nhận thêm một số tiếp liệu gồm gạo, mắm, bột ngọt và áo quần tù. Hạnh và Vũ phải làm tất bật cả ngày.

Thời tiết chuyển mùa, khí trời oi bức, ngột ngạt. Cây rừng đứng chết lặng trước sức ép của bầu khí quyển nặng nề. Rồi mây đen kéo về che kín cả bầu trời. Gió thổi. Sấm sét. Trận mưa đầu mùa trút xuống mờ mịt cả núi đồi. Mưa đổ trên mái ngói, mưa nổi bong bóng ngoài sân.

“ Nước! nước!”

Nước dột từ trên nóc nhà chảy xuống kho, Hạnh vừa hốt hoảng kêu lên vừa vội vã lấy vải nhựa đi mưa phủ lên đống hàng mới nhập. Vũ phát hiện một viên ngói trên nóc nhà bị bể.  Anh nhanh chân bắc thang trèo lên mái nhà thay viên ngói lành.

Mưa mỗi lúc mỗi đậm lại thêm sấm sét, gió to. Năm phút rồi mười phút Vũ vẫn chưa làm xong. Hạnh cuống cuồng lo cho Vũ, nàng chạy ào ra mưa gọi chàng. Đúng lúc Vũ vừa thay xong viên ngói, tuột khỏi mái nhà. Cả người Vũ ướt sũng nước, lưng áo bị rách toạc một đường dài. Hạnh bảo Vũ vào trong nhà thay bộ đồ khác. Anh chần chừ, định chạy về trại, nhưng Hạnh nói như ra lệnh: “Vào đi!.”  Nàng đẩy Vũ vào trong rồi đóng cửa lại để tránh những cơn gió thốc. Hạnh lấy bộ áo quần tù mới nhập đưa cho Vũ. Anh đứng yên, ngần ngại. Nàng năn nỉ:

– Anh nghe lời em, đừng để nước mưa đầu mùa thấm vào người, vi trùng sốt rét sẽ hành hạ anh trở lại.

Vũ thật sự ngỡ ngàng đến độ bàng hoàng khi nghe Hạnh xưng em với mình. Vũ một mực đòi về trại thay áo dù cơn lạnh đã làm cho môi chàng thâm tím và hai hàm răng đánh vào nhau không còn kìm giữ được. Hạnh xốc tới tự động cởi nút áo cho Vũ. Bộ ngực nở nang đầy nam tính hiện ra, bất giác Hạnh áp mặt vào ngực chàng khóc nức nở. Lòng chùng xuống, Vũ đưa tay vuốt mái tóc ướt đẫm nước mưa của nàng.

Hạnh ngẩng đầu lên với ánh mắt dỗi hờn:

– Anh bướng bỉnh quá làm cho em đau khổ!

Trời tạnh mưa. Vũ xin Hạnh về trại trước nửa giờ. Chàng không muốn ở đó lâu hơn. Hạnh có tình ý với chàng, Vũ cảm thấy lo âu, rồi sẽ xảy ra những bất trắc mà nàng không thể lường trước được. Bạo lực sẽ bóp nát trái tim nàng. Người ta sẽ không để cho trái tim cán bộ cách mạng có cùng chung một nhịp đập yêu đương với trái tim của người tù.
Những ngày sau đó, Vũ thố lộ những cảm nghĩ của chàng và yêu cầu nàng trả chàng về đội. Hạnh buồn bã trả lời:

– Anh nhát gan quá. Hạnh mới là người chủ động. Em không để phiền lụy đến anh.

Lễ Lao động kết hợp với ngày kỷ niệm 30 tháng 4, cả Ban giám thị được lệnh về thành phố nhận khen thưởng. Tù nhân được nghỉ một buổi. Đang sửa lại vạc giường nằm, Vũ có lệnh lên văn phòng quản lý gặp cán bộ Hạnh.

– Chào cán bộ.

– Đâu cần phải cẩn trọng như thế! Hạnh vừa vén mái tóc qua một bên vừa buông lời trách móc.

Vũ cười, giả lả hỏi:

– Hạnh không về thành phố à?

– Các đồng chí ấy có công trạng. Em đâu được cái danh dự đó. Hạnh nhoẻn miệng cười nhìn Vũ:

– Hôm nay ngày lễ, cán bộ được bồi dưỡng, em đem ít thịt heo và xôi để anh ăn tối.  Nàng vừa nói vừa đứng lên cầm gói thức ăn trao cho Vũ. Anh nhận gói giấy từ tay Hạnh, nói đùa:

– Vậy là cán bộ hối lộ cho tù nhân đấy nhé.

– Ừ, thế đấy! Hạnh nhìn Vũ thách thức, rồi choàng tay ôm cổ chàng, thỏ thẻ:

– Chỉ là món quà hối lộ nhỏ nhoi đầu tiên cho anh.

Hạnh lại ôm chầm lấy Vũ, ép đôi vú căng đầy vào ngực chàng khiến máu trong người Vũ chạy rần rật, nóng bừng trong từng tế bào trương cứng. Cảnh vắng lặng của văn phòng kho như đồng lõa cơn dục tình quật ngã ý chí chàng. Vũ nâng đầu Hạnh hôn vào môi, đôi môi dày đầy dục tính. Lưỡi chàng quyện lấy lưỡi nàng. Hạnh run lên, toàn thân như tê dại. Gió đánh bật cánh cửa văn phòng khép lại, tạo điều kiện thuận lợi cho hai người. Hạnh nằm xuống kéo Vũ theo. Nàng nhanh tay lột hết áo quần phơi bộ ngực trắng ngần vun cao. Không kìm chế nổi, Vũ đặt môi vào núm vú son hồng đó. Hạnh trân người, siết Vũ vào lòng. Đã trên bốn năm vắng bóng đàn bà, tất cả sinh lực tích tụ dồn vào trong đó. Nàng ưỡn người lên, bấu vào lưng Vũ. Anh chủ động dìu nàng qua những cơn sóng ngầm cho đến khi oà vỡ. Ánh mắt Hạnh đắm đuối nhìn Vũ với gương mặt tràn đầy hạnh phúc.

Sau lần ân ái đầu tiên, Hạnh thường tạo điều kiện thuận lợi cho hai người gặp nhau. Càng ngày nàng càng gắn bó với Vũ hơn. Có lần Hạnh thủ thỉ với chàng:
– Em muốn có con với anh.

– Hạnh sẽ không đạt được ý nguyện đó đâu.

Vừa trả lời, Vũ vừa xoa nhẹ bàn tay nàng, lo ngại tiếp:

– Nếu Hạnh bảo vệ được đứa bé thì sau nầy, nó sẽ mồ côi cha, tội nghiệp. Nàng xoay người lại, ôm cổ Vũ hỏi:

– Câu nói của anh có ý gì vậy?

– Vũ vén những sợi tóc mai loà xoà trên mặt nàng rồi điềm tĩnh trả lời:

– Họ sẽ giết anh!

Hạnh thở dài trước sự thực phũ phàng mà nàng chưa hề nghĩ tới.

* * *

– Em đi công tác bảy ngày. Hạnh báo cho Vũ và dặn dò thêm:

– Anh vẫn làm việc tại kho với cán bộ Toả, ngày mai em lên đường, anh ghi những vật dụng cần dùng để em mua cho.

– Cám ơn Hạnh, đời sống tù quen rồi, tôi chẳng cần gì đâu, Vũ thẳng thắn trả lời.

Ngày hôm sau, Toả đến kho. Hắn coi sơ qua hai sổ xuất nhập hàng tiếp liệu. Hắn luôn giữ khoảng cách giữa hai người. Toả là cán bộ chỉ huy đơn vị võ trang, tạm thời thay Hạnh, vì vậy phần ghi chép đều nhờ tay Vũ… Tỏa không nghiêm khắc mà cũng không thân thiện. Hình như hắn muốn truy tìm cái gì đó nên hay lục lọi trong tủ hồ sơ của Hạnh.

Buổi chiều, chị cán bộ nuôi quân đến lãnh gạo hàng ngày. Tỏa sai Vũ mang gạo xuống nhà bếp. Chị nuôi nhìn Vũ rồi nói với Toả:

– Người ta đồn “ Có kẻ chê thuốc Bắc khoái thuốc Nam cũng có lý đấy chứ!” Cả hai cùng cười.

Cán bộ Hạnh đi công tác về sớm hai ngày. Chiều thứ Hai nàng trở lại làm việc. Vũ vừa bước vào phòng, Hạnh vội kéo anh vào góc nhà ôm hôn cuồng nhiệt.

Vũ đẩy nàng ra xa vì sợ có người vào bất chợt. Hạnh thì thầm:

– Em nhớ anh, nhớ điên người! Nàng bồng bột tiếp:

– Từ nay em bất chấp tất cả. Mấy ngày qua gặp Hoàng, em đã trả lời dứt khoát với anh ta rồi.

– Có vấn đề gì thế? Vũ ngạc nhiên hỏi.

– Em hủy bỏ lời hứa hôn. Hạnh thẳng thắn trả lời.

Vũ sững sờ. Chẳng biết điều gì đã xảy ra cho Hạnh. Tên Hoàng là ai. Tại sao từ hôn? Chờ nàng bình tĩnh, Vũ yêu cầu Hạnh giải thích.

Hai tay chống cằm, mắt nhìn về hướng hàng cây bạch đàn chạy dài theo con đường đất đỏ ngập ánh nắng chói chang, Hạnh tâm sự:
– Trước đây, anh đã từng trông thấy một người đàn ông thường đến với Hạnh vào những ngày lễ hoặc cuối tuần. Đó là Thiếu tá Hoàng, người dự tính sang năm cưới em. Hoàng hiện giờ là Trưởng Phòng Hình Sự Ty Công An. Chuyến công tác vừa rồi em đã gặp anh ấy và nói rõ quyết định của em.
– Ông ta đã nói gì với Hạnh? Vũ thận trọng hỏi.

– Anh ấy bảo: “Quyết định đó là đồng chí tự hủy hoại sự nghiệp của mình”

Việc xảy ra quá bất ngờ khiếnVũ vô cùng băn khoăn và lo lắng. Chúng sẽ theo dõi, điều tra tìm hiểu nguyên nhân nào khiến cho Hạnh thay đổi tình cảm. Hạnh ngây thơ và nông nổi. Nàng sống cho mình, theo tiếng gọi trái tim mà quên đi những thủ đọan tàn độc. Vũ thở dài, rồi nhẹ nhàng trách:

– Hạnh cần phải đắn đo trước khi quyết định một việc làm có ảnh hưởng đến cả cuộc đời mình. Hạnh có biết việc từ hôn đó sẽ mang đến một hậu quả vô cùng tai hại không?

– Biết chứ, nhưng lấy Hoàng em sẽ không có hạnh phúc.

– Hạnh mạo hiểm quá và cả Vũ nầy cũng thế! Ngày mai Hạnh trả tôi về lại đội, trả gấp. Tôi không muốn thấy sau nầy Hạnh phải chịu khổ đau và ân hận. Tôi cũng tránh được ngón đòn thù giáng trả.

Kẻng cơm chiều cũng vừa điểm, chàng vội vã về trại. Nàng nhìn theo Vũ với ánh mắt cảm thông.

Sáng hôm sau, chờ các đội xuất trại xong, Vũ mới báo cáo cán bộ gác cổng lên kho. Hạnh đang sắp xếp lại giấy tờ với đôi mắt đăm chiêu. Hình như có vấn đề gì rắc rối, trông gương mặt của nàng phờ phạc hẳn đi. Vũ lấy sổ ghi chép báo cho Hạnh biết số lượng thực phẩm mà cán bộ Tỏa đã xuất mấy ngày nàng đi công tác. Hạnh vừa đến bên Vũ, bất ngờ hai công an xông vào phòng la lên:
“Mày làm gì cán bộ Hạnh đấy?”

Cán bộ quản giáo bảo vệ chính trị đứng bên ngoài cửa văn phòng Quản lý ra lệnh còng tay Vũ trước cặp mắt ngơ ngác của Hạnh. Họ đẩy Vũ ra khỏi cửa tiến thẳng đến khu kỷ luật. Sau khi cùm hai chân Vũ,  một người trừng mắt bảo:
“Mầy cả gan thật, dám cuỡng hiếp cả cán bộ”.
Vũ đặt lưng xuống mặt sàn, hai cổ chân đau nhói. Chàng thở dài: “Điều mình tiên đoán đã đến rồi!”

Mỗi ngày, Vũ bị áp giải lên phòng trực hỏi cung và viết kiểm điểm. Chủ tâm của họ là gán ghép cho anh tội cưỡng hiếp Hạnh. Hai ngày, rồi một tuần, Vũ cương quyết không chịu nhận tội. Đến ngày thứ tám quản giáo hỏi cung bảo:
– Cán bộ Hạnh gởi đơn tố cáo anh đã cưỡng hiếp đồng chí ấy và có kèm theo vật chứng. Anh nên khai báo sự thật và sớm nhận tội. Nếu ương ngạnh, chúng tôi sẽ chuyển nội vụ qua hình sự. Chừng đó, anh sẽ ngồi tù đến mọt gông.
Hắn ngừng nói, đưa cho Vũ điếu thuốc, chàng từ chối. Hắn tiếp:
– Anh khai rõ tình cảm của anh đối với cán bộ Hạnh kể cả quà cáp mà cán bộ Hạnh đã cho anh. Hắn châm lửa điếu thuốc, hít một hơi dài:

– Như anh thấy đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương giáo dục chứ không trừng trị. Tội giặc lái của anh đã giết hại biết bao dân lành vô tội, làng quê bị tàn phá tiêu điều, đổ nát là do bom đạn của anh trút xuống. Thế mà cách mạng vẫn khoan hồng, tha tội chết, lại còn nuôi dưỡng bảo vệ các anh khỏi sự trả thù cuả nhân dân. Một lần nữa, tôi lưu ý anh, đây là lần viết kiểm điểm cuối cùng, nếu không thành khẩn, buộc chúng tôi phải đưa anh ra trước tòa án nhân dân.
Vũ nhủ thầm: “ Đây là thủ đọan họ cố hại mình.” rồi lặng lẽ viết và ký tên vào tờ tự kiểm.

Đọc bản tự kiểm Vũ vừa trao, cán bộ đập bàn quát:

– Mầy cứng đầu thật. Đã mấy chục tờ rồi mà tờ nào cũng chừng ấy lời khai. Mầy không phạm tội gì à, còn đồng lõa với “tên hủ hóa” đó nữa hả? Đôi mắt hực lửa, hắn nhìn Vũ rồi ra lệnh đưa anh vào phòng kiên giam, cắt thêm tiêu chuẩn phần ăn tối đa để trừng phạt.

Ba ngày yên ổn, Vũ không bị đưa đi hỏi cung. Những cơn đói hành hạ anh mấy ngày qua, giờ đã trở lại bình thường, bao tử bớt phần đau rát. Vũ nghĩ đến Hạnh, không biết tình trạng của nàng hiện giờ ra sao. Chắc chắn là lũ chúng nó quần thảo dữ lắm. Chẳng thế mà tên quản giáo đã miệt thị nàng là “tên  hủ hóa” trước mặt anh.

Tiếng mở khóa lách cách, Vũ giật mình nhìn ra cửa, ánh đèn pin chiếu thẳng vào mặt. Hai bóng đen tiến vào phòng:

– Ngồi dậy!

Một người ra lệnh, người kia mở cùm chân. Cả hai xốc vai Vũ đẩy ra khỏi cửa hầm kỷ luật.

Họ đưa vào một căn phòng lạ, ấn anh ngồi xuống ghế. Ánh sáng bóng điện tròn tỏa màu vàng vọt trong căn phòng xông mùi ẩm mốc. Một người đàn ông trung niên mặc áo quần đại cán màu xanh rêu bước vào và ra hiệu cho lính bảo vệ mở khóa cùm tay Vũ.

Người cán bộ có dáng cao gầy, mặt vuông. Phần quai hàm bạnh ra trông khắc khổ. Nhờ đôi gương cận thị gọng vàng giúp cho khuôn mặt ông ta cân đối phần nào và có vẻ trí thức. Hắn nhếch mép cười gượng gạo, rồi một giọng nói sắc, khô của người xứ Nghệ:

– Tôi là Thanh Hoàng, cán bộ Công an hình sự. Cấp trên có nhận được đơn tố cáo của đồng chí Quản lý Đỗ thị Hồng Hạnh về việc anh đã cưỡng dâm đương sự. Hôm nay tôi cần làm việc với anh một số vấn đề. Nhưng trước hết hãy xác nhận tên anh có phải là Trần Vũ không?

– Vâng, tên tôi là Trần Vũ.

-Anh làm những công việc gì ở kho?

– Làm theo lệnh của cán bộ Quản lý..

– Mà lệnh đó thường là công việc gì?

– Quét dọn, khuân vác hàng tiếp liệu, giúp làm sổ sách cho cán bộ Hạnh.

– Láo, anh là tù nhân, ai cho phép anh làm sổ sách. Anh biết cóc gì về kế toán mà lo chuyện sổ sách. Vũ ngước mắt nhìn ông ta. Ông ta trừng mắt nhìn lại Vũ trấn áp, rồi hỏi tiếp:

– Thời gian ở kho, cán bộ Hạnh có cho anh quà cáp gì không?

– Không.

Anh thành khẩn đi, cán bộ Hạnh đã báo cáo cho cấp trên đầy đủ rồi. Im lặng…

Công an Hoàng tiếp:

– Ngày 25 tháng 5 năm 1979 anh đã cưỡng bức và xâm phạm tiết hạnh cán bộ Đỗ thị Hồng Hạnh?

– Không, không bao giờ, Vũ xác định.

– Láo, láo! Hắn đập bàn hét lên giận dữ. Đây là bản chất của lính ngụy. Trước đây, các anh đã cưỡng hiếp biết bao đàn bà con gái trong các trận càn. Chứng nào tật nấy. Đã cải tạo trên bốn năm mà chưa bỏ được thú tính. Có cả vật chứng và người chứng, anh làm sao chối cãi. Hãy thật thà khai đúng, chúng tôi sẽ đề nghị cấp trên ân giảm, anh mới hy vọng có ngày đoàn tụ với gia đình. Vũ im lặng, nghĩ ngợi:  “Họ muốn đánh gục mình.”

Trước sự lặng thinh khá lâu, tưởng Vũ đã bị khuất phục, cán bộ Hoàng mỉm cười, với giọng đầy kịch tính, bảo:

– Như thế là tốt đấy, anh chỉ cần viết vào đây một câu thôi. Hắn chìa cây viết và trang giấy cho Vũ rồi đọc: “Tôi xin nhận đã có hành động sai trái với cán bộ Quản lý trong ngày 25 tháng 5 năm 1979.”  Ngưng một chốc, hắn bồi thêm lời khuyến dụ:

– Chừng ấy cũng đủ chứng minh anh đã ăn năn hối lỗi.

Vũ điềm tỉnh cầm viết ghi:

“Tôi Trần Vũ không hề có một hành động nào mang tính cách cưỡng hiếp cán bộ Đỗ Thị Hồng Hạnh trong ngày 25 tháng 5 năm 1979.”

Cán bộ Hoàng nhìn vào tờ khai cung, đôi môi đang cười gượng gạo, chợt khuôn mặt đanh lại. Hàm răng cắn chặt vào nhau khiến cho quai hàm của y đã bạnh lại càng bạnh hơn, nom như đầu loài rắn mang gương xứ Ấn Độ. Hắn đứng dậy chồm qua bàn, một tay nắm bâu áo của Vũ, tay kia đấm tới tấp vào mặt Vũ. Hắn vừa đấm vừa hét lên: “Khốn nạn, đểu cáng.” Máu từ mũi Vũ phụt ra văng tung tóe, đỏ cả xấp hồ sơ. Thuận đà, y kéo Vũ về phía mình. Cạnh sắc của chiếc bàn chấn ngang bụng, Vũ cong người lại vì đau đớn rồi ngất xỉu trên bàn. Cán bộ Hoàng bỏ giấy tờ vào túi dết, gọi lính bảo vệ áp giải Vũ về lại hầm kỷ luật.

*  *  *

Tin Trần Vũ giúp việc trên kho đã cưỡng hiếp nữ cán bộ Quản lý gây xôn xao trong toàn trại. Đề tài nầy được xem là nóng hổi mấy ngày qua. Sau buổi cơm chiều, anh em tù thường tản bộ trên sân hội trường chuyền miệng cho nhau những mẫu chuyện vừa nghe lóm được. Một bạn nhận xét:

– Quả là một việc làm tầy trời, chỉ nghe thoáng qua cũng đủ xanh máu mặt, nổi da gà. Thế mà thằng Vũ dám “rờ dái ngựa!”

Phần lớn tù nhân đều chê trách Vũ, nào là: “ăn no bò cỡi, được voi đòi tiên.”

Những bạn gần gũi thì tỏ ra không tin, bởi họ hiểu Vũ là người có tư cách và giàu ý chí.

“Biết đâu, vì gần gũi lâu ngày nên hai người ghiền nhau, nhất là Trần Vũ vừa đẹp trai, lịch sự vừa có nghệ thuật đắc nhân tâm thuộc loại siêu đẳng.” Anh đội trưởng rau xanh nhận xét, rồi ghé tai anh bạn bên cạnh hỏi:

– Đằng ấy có nghe mấy cha cán bộ đùa cợt với nhau câu: “Thuốc bắc không chịu uống, lại đi ghiền thuốc nam!” trong mấy ngày qua không?

Một bạn tù thuộc đội chăn nuôi đột ngột đến báo:

– Thằng Vũ bị bắt tại trận khi có tiếng kêu cứu của chị Quản lý và tịch thu được bộ áo quần của nó.

Người đứng bên cạnh bổ túc thêm:

– Tên trật tự đem cơm vào nhà cùm, tiết lộ rằng Vũ bị cán bộ Hạnh đánh vào mặt để thoát thân, mặt mày hắn còn sưng vù.

Một bạn tù cao niên tỏ ra am tường luật pháp phát biểu:

– Phàm“ bắt dâm bôn lấy l… làm chứng” là áp dụng cho tội ngoại tình kia. Tội hiếp dâm chỉ cần nạn nhân tố cáo là đủ rồi, đằng nầy còn  tịch thu được cái quần là thừa tang chứng kết tội rồi.

Một bạn trẻ xen vào:

– Ăn vụng mà còn ham cởi cả áo thì bị bắt là đúng thôi.

Cả bọn cười ồ! Ông bạn già với giọng từng trải tiếp:

– Án cải tạo của thằng Vũ nhiều lắm sáu năm, bây giờ vướng vào án hình sự nầy e ngày ra tù của nó chắc phải chống gậy!

Sáng Thứ Bảy, tù nhân cơm nước xong đợi giờ lên đường lao động. Bỗng có lệnh trên ban xuống: “Tất cả nghỉ làm ngày hôm nay, chuẩn bị lên hội trường.”

-“Lại có chuyện gì đây?” Mọi người xôn xao.

Mười lăm phút sau, tiếng kẻng gióng lên. Tù nhân hồi họp kéo đến hội trường. Cán bộ quản giáo, cán bộ vũ trang, các chị nuôi đều có mặt. Trên sân khấu được đặt ba chiếc bàn theo hình chữ U. Một tốp người vận đồng phục công an tiến vào hội trường, rồi lần lượt ngồi vào ghế đã được phân định trước. Bàn giữa gồm có: Giám thị trưởng, Thiếu tá công an Thanh Hoàng, và một người được giới thiệu là cán bộ phòng Kiểm Sát Nhân Dân của huyện. Hai Phó Giám Thị và một thư ký ngồi bàn cánh trái. Bàn bên phải bỏ trống.

Thiếu Tá Thanh Hoàng mở đầu cuộc họp bằng giọng nói đầy uy quyền:

– Ty Công An nhận được bản tường trình của Ban giám thị trại về vụ cưỡng dâm đã xảy ra tại văn phòng quản lý trong ngày 25 tháng 5 năm 1979. Can phạm là cải tạo viên Trần Vũ, nghề nghiệp: Trung uý lái máy bay của ngụy quyền Sài Gòn. Nạn nhân là cán bộ Quản lý Đỗ Thị Hồng Hạnh. Đây là cuộc họp xét tội công khai trong nội bộ để lấy đầy đủ lý chứng chuyển qua Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tỉnh. Dù có bằng chứng rõ ràng, tên Trần Vũ vẫn ngoan cố không chịu nhận tội. Để chứng tỏ công tác thi hành luật pháp của Nhà Nước là vô tư và đúng đắn, hôm nay chúng tôi cho nạn nhân, đồng chí Đỗ Thị Hồng Hạnh đến đây đối chất trực tiếp với can phạm Trần Vũ và trưng dẫn vật chứng để chúng tôi đúc kết hồ sơ truy tố can phạm ra trước Tòa Án Nhân Dân. Trước tiên, yêu cầu các đồng chí vũ trang áp giải phạm tù Trần Vũ ra trước Chủ Tọa Đoàn. Yêu cầu đồng chí Hạnh vào bàn bên phải.

Tiếng rì rào nổi lên khi Trần Vũ xuất hiện giữa hội trường. Với bộ áo quần tù màu xám tro còn mới, trước ngực dính lấm tấm những vệt máu khô, Vũ bước đi xiêu vẹo, khó khăn bởi dây xích chân quá ngắn. Khuôn mặt Vũ bị biến dạng do những vết sưng bầm. Cùng lúc, cán bộ quản lý Hồng Hạnh cũng bước vào ngồi trên ghế đã chỉ định, với khuôn mặt bơ phờ, tư lự.

Mở đầu buổi tố khổ, cán bộ thư ký đọc bản tường trình nội vụ gồm có những điểm chính sau:

“Ngày 25 tháng 5 năm 1979, lúc 8 giờ sáng, tù cải tạo Trần Vũ bị bắt tại văn phòng quản lý về tội cưỡng dâm nữ cán bộ Đỗ Thị Hồng Hạnh. Tang chứng thứ nhất là bộ áo quần của can phạm bị tịch thu tại phạm trường. Tang chứng thứ hai là vết bầm trên mặt Trần Vũ là do nữ nạn nhân đánh để thoát thân. Thứ ba là chứng từ  trong lời khai của Trần Vũ đã thú nhận có cảm tình với cán bộ Hạnh.” Bản tường trình kết thúc với ý kiến đề nghị: “Yêu cầu cấp trên làm sáng tỏ nội vụ để trừng phạt đích đáng kẻ phạm pháp hầu ngăn chận hành vi tương tự của kẻ khác.”

Công an Hoàng với tư cách là người trách nhiệm điều tra vụ án phát biểu:

– Sau đây là phần xác minh của nạn nhân Đỗ Thị Hồng Hạnh. Lời khẳng định nầy là dữ kiện chính yếu để truy tố đương sự. Yêu cầu đồng chí Hạnh đứng lên.

Với thái độ điềm tĩnh, cán bộ Hạnh nói:

– Tôi xét thấy sẽ vấp phải sai lầm lớn lao nếu không đứng ra tố cáo kẻ phạm pháp. Tôi đoán biết thế nào Trần Vũ cũng sẽ không nhận tội. Điều đó không quan trọng mà quan trọng là điều xác minh của chính tôi. Nhưng trước tiên tôi yêu cầu Trần Vũ hãy trung thực trả lời câu hỏi của tôi:

– Anh có công nhận vết sưng bầm trên mặt anh là do tôi đánh? Không thành khẩn, anh là kẻ yếu hèn.

– Đồng chí Hạnh không cần phải nhiều lời, nên đi thẳng vào vấn đề. Cán bộ  Hoàng chận lại.  Hạnh tiếp:

– Tôi muốn chứng tỏ cho mọi người thấy bản chất của con người mang tên Trần Vũ, một tù cải tạo, có đủ nghị lực nhận tội hay không.

Bỗng, từ dưới chân khán đài, Vũ la lớn:

-Tôi xác nhận là không đúng! Vết thương trên mặt tôi là do cán bộ điều tra gây ra. Công an Hoàng quắc mắt nhìn Vũ rồi nhìn Hạnh. Chị Quản lý quay mặt về phía bàn chủ tọa, tiếp:

– Được, bây giờ tôi đề cập đến vật chứng… Hạnh vừa nói vừa cầm bộ đồ tù đặt trên bàn đưa ra trước mặt hỏi:

– Trần Vũ hãy xác nhận bộ áo quần nầy của ai?

Trần Vũ lớn tiếng trả lời:

– Của tôi.

Hoàng lên tiếng:

– Tôi xét thấy lời xác nhận của can phạm về vật chứng như thế là đủ rồi.

– Không, hãy cho tôi trình bày diễn tiến của sự việc. Hạnh bác bỏ ý kiến của công an Hoàng, tiếp:

– Cách đây trên một tháng, trong trận mưa đầu mùa, nước từ viên ngói bể trên nóc kho  đổ xuống đống hàng tiếp liệu, Trần Vũ đích thân lên thay viên ngói bể ấy. Chiếc áo bị rách toạc sau lưng, nước mưa ướt đẫm cả áo quần, tôi đã tự động ứng trước cho Vũ bộ áo quần mới và giữ lại bộ áo quần cũ để đối chiếu khi vào sổ sách sau nầy.

Đây là lưng áo bị rách, cán bộ Hạnh vừa nói vừa trình chiếc áo ra trước cử tọa, rồi tiếp:

– Bộ đồ cũ nầy tôi cất trong kho, bỗng nhiên biến mất từ hơn hai tuần nay.”

Hoàng đập bàn đứng lên, nhưng Hạnh vẫn tiếp tục nói với nhịp độ nhanh và quả quyết hơn:

– Tôi xin xác định rằng Trần Vũ không hề cưỡng hiếp tôi… Tôi không phải là nạn nhân của Trần Vũ mà là nạn nhân của ông, thưa ông Thanh Hoàng. Vừa dứt lời, Hạnh ôm mặt gục lên bàn khóc tức tưởi.

Những lời chứng của cán bộ Đỗ Thị Hồng Hạnh là cú tát đau điếng đối với Thanh Hoàng. Hắn tái da mặt, đôi hàm răng nghiến lại.

Bên dưới hội trường, tù nhân xúc động, âm thầm bấm tay nhau. Những âm thanh lào xào nổi lên như khi ta đứng giữa rừng lau sậy trong cơn gió. Đó là âm thanh của hàng trăm bàn tay tù xoa vào nhau trong niềm phấn kích.

Cuộc tố khổ bất thành. Nhân chứng đã can đảm lội ngược dòng. Giám thị trưởng cho lệnh giải tán. Trần Vũ trở lại nhà kỷ luật.

Đêm nầy, đôi chân của Vũ nằm trong cùm, nhưng trái tim chàng ở bên Hạnh, người con gái can trường.

Hai ngày sau, Hạnh nhận được lệnh về trình diện ty Công an. Dù vô tội, Trần Vũ cũng bị cùm thêm bảy ngày nữa mới được thả. Đôi chân sưng vù, chàng phải lê từng bước. Máu rỉ ra từ những vết thương do miệng cùm cứa đứt. Niềm hân hoan trong trận “chiến thắng con tim” đã xoa dịu phần nào cơn đau đang hành hạ thể xác Trần Vũ.

*    *    *

Đã hai tháng qua rồi, cán bộ Hạnh không quay lại trại tù nầy nữa. Trần Vũ được trả về đội sản xuất rau xanh cùng làm việc với anh em những tháng ngày vui vẻ. Bạn tù đều cảm thông và thương mến chàng hơn.

Buổi sáng Chủ nhật, tù nhân lần lượt xuất trại làm công tác xã hội chủ nghĩa. Riêng Trần Vũ và bốn bạn tù nữa được lệnh ở lại thăm nuôi. Đây là lần đầu tiên trên suốt bốn năm Vũ mới được diễm phúc nầy. Anh vô cùng hồi hộp và nôn nóng tự hỏi, ai là thân nhân đến thăm mình. Hảo, người chị ruột đã mất tin tức sau ngày 30 tháng 4 năm 75? Tân, thằng bạn không quân được tha trước? Thời gian đợi chờ là lò lửa đốt nóng tim gan.

Một giờ, rồi hai giờ người ta mới kêu tên năm người ra khu thăm nuôi. Bốn bạn kia gặp được ngay vợ con. Họ nắm tay nhau mừng mừng tủi tủi. Riêng Vũ thì ngơ ngác tìm thân nhân. Chợt, một thiếu phụ đến bên Vũ hỏi nhỏ:

– Chú là Trần Vũ?

Hai người cùng đến bàn ngồi. Thiếu phụ thấp giọng giới thiệu:

– Tôi tên là Hồng, chị của Hạnh. Cô ấy nhờ tôi lên thăm chú. Nó gởi ít quà và mười đồng cho chú bồi dưỡng. Tôi đã khai báo với cán bộ rằng, tôi là chị bà con của Trần Vũ và đưa số tiền đó cho ông ấy “quản lý” theo nội qui của trại. Chị vừa nói vừa luồn tay dưới bàn chuyển cho Vũ một gói giấy. Vũ vội lận vào lưng quần. Hai bên trao đổi với nhau về sức khỏe của Hạnh và đặc biệt Vũ muốn biết hiện giờ nàng đang làm gì, ở đâu? Chị Hồng không trả lời trực tiếp mà chỉ bảo từ từ rồi sẽ rõ.

Hai mươi phút trôi qua, giờ thăm nuôi chấm dứt. Dù mới gặp nhau lần đầu mà phút chia tay cũng nghe lòng quyến luyến.

Về đến trại, Vũ vứt xách quà trên sạp, vội mở gói giấy xem bên trong có gì. “Ôi, thư của Hạnh!”, Vũ thốt lên mừng rỡ. Tim anh vừa rộn ràng, vừa thương cảm. Nét chữ thân quen dịu dàng trải đều trên mặt giấy vàng đục:

Anh Vũ Yêu Thương;

Không thể lên thăm anh được, nên Hạnh nhờ chị Hồng, người chị cả của em cũng trạc tuổi chị ruột anh. Em muốn mượn chị em để thay thế hình ảnh chị Hảo của anh hiện giờ ở rất xa. Em đã đến tận quê anh thăm dò mới biết chị ấy đang sống ở Mỹ cùng với chồng và một con. Đã có người hứa giúp liên lạc với chị Hảo để báo tin về anh. Sức khỏe của em vẫn tốt. Em đã nộp đơn xin chuyển cơ quan và đang chờ đợi cấp trên giải quyết.

Bố em đã biết mọi chuyện đã xảy ra. Ông mắng em là thiển cận và hồ đồ. Chị Hồng là người cảm thông và thương em nhiều nhất.

Anh yêu ơi, hôm trên hội trường, nhìn những vết sưng bầm trên mặt anh, em rất đau lòng. Thanh Hoàng đã buộc em làm chứng gian để trị tội anh, bởi anh là nguyên nhân của việc em quyết định từ hôn. Đối với Thanh Hoàng sự phản bội là một sỉ nhục ông ta. Hôm ấy em nói như kẻ lên đồng. Em không nói bằng lý trí mà nói bằng trái tim em. Trước đây, em đã có giao tình với Hoàng. Làm vợ Hoàng, trên một bình diện nào đó thì có lắm phụ nữ mong ước. Bởi anh ấy xuất thân từ  một gia đình có bề dày công lao cách mạng.

Từ ngày gặp anh, ngoài những kiến thức hiểu biết tổng quát, anh còn cho em những xúc cảm rất mới mẻ về thể xác lẫn tâm hồn. Hoàng đã đến với em gần một năm nay, thật tình mà nói em rất khờ khạo. Nhờ anh, em mới phát hiện sự cục mịch, thô lỗ và ích kỷ của người đàn ông trong tình trường.

Vũ ơi! anh là tù nhân của chế độ. Nhưng trái tim không là tù nhân của một ai. Con tim không phân biệt kẻ chiến thắng, người bại trận, không phân biệt chủ ngục với người tù. Con tim chỉ biết yêu và dâng hiến. Tại sao phải dựng bức tường ý thức hệ để ngăn cản tình yêu? Em ngồi viết cho anh mà nghe lòng mình tận cùng cô đơn. Em chán ngấy cái xã hội nầy, cứ để hận thù dày xéo con tim. Em yêu anh và muốn được sống bên anh. Có lẽ trọn đời em sẽ không quên quảng thời gian trên ấy. Dù rất ngắn ngủi nhưng lại sâu đậm hơn bất cứ lúc nào. Ta đã từng yêu nhau trong khoảnh khắc, vụng trộm, nhưng đầy ngọt ngào nồng ấm. Với Hoàng, chỉ để lại cho em những giây phút nhạt nhẽo và chán chường.

Em không hề đặt hy vọng hai ta là đối tượng hôn nhân của nhau, nhưng em vẫn quyết định từ chối làm vợ của Hoàng, bởi em tin rằng làm vợ Hoàng sẽ không còn hạnh phúc.

Thư không viết được nhiều đâu. Bị phát hiện sẽ làm khổ anh. Chị Hồng sẽ thay em thỉnh thoảng lên thăm anh. Rất nhớ anh.

Hồng Hạnh.   

Thời gian qua nhanh, nhưng “Hội chứng Trần Vũ” vẫn còn âm ỷ trong đám tù nhân. Ngoài hiện trường lao động hay trong láng trại hễ có dịp là bạn bè trêu chọc. Một bạn tù cuốc đất bên Vũ ngâm nga:

“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối, còn hơn tù thui thủi biết bao năm?” (nhại theo thơ Xuân Diệu)

Những cặp mắt đổ dồn về phía Vũ rồi những tiếng cười ha hả vang lên. Bạn khác chen vào với giọng thương cảm:

“Thương cho cây quế giữa rừng, để cho con Mán mụ Mường nó leo.” (nhại theo ca dao)

Tiếp theo là một giọng than vãn:

 “Muội ơi nắng quá bình khô nước, đời vắng nị rồi ngộ chết khô!” (nhại theo thơ Vũ Hoàng Chương)

Bốn tháng sau, Vũ lại được chị Hồng lên thăm. Lần nầy, sau khi lén đưa được bức thư, chị dặn Vũ phải cẩn thận. Chị cho biết Hạnh chưa được cápp trên chấp thuận chuyển cơ quan và hiện phục vụ tại thành phố Hội An.

Về đến trại, Vũ vội vàng bóc thư ra đọc:

Anh yêu thương, mới đó mà đã xa nhau hơn sáu tháng rồi. Em nhớ anh ray rứt trong những đêm dài thao thức. Có lẽ anh là người mới cảm nhận sâu sắc nỗi đau của đợi chờ vô vọng. Hiện giờ, người ta dùng thế lực gây sức ép không cho em chuyển cơ quan. Hoàng bảo với em hắn sẽ không bao giờ tha thứ trước hai cái tát phản bội của em: Một tình yêu và một nghề nghiệp. Tay nầy khá nhiều thủ đoạn. Em biết hắn đang tìm cách trả thù em. Em nhắc anh nhớ hãy hủy bỏ những thư em gởi. Thân phận tù đày của anh như “chỉ mành treo chuông”xin anh cẩn thận giữ thân mình. Không cần phải viết cho em. Vắn tắt mấy lời tin anh rõ. Nhớ anh.   

Hồng Hạnh.

*  *  *

Vũ nhận lệnh mang hết đồ dùng cá nhân trình diện Ban Trực Trại. Họ xáo tung áo quần của Vũ và lục soát tất cả không bỏ sót cả lai quần, bâu áo. Chỗ nằm của Vũ cũng có người đến lật từng thanh giường từng miếng gỗ. Chẳng có kết quả nào, Vũ bị chuyển đến một đội khác, đội hình sự. Chỗ nằm của Vũ được sắp vào giữa hai tay tù hình sự khét tiếng ngoài đời, Đại và Phi. Cả hai mang án tù mười năm về tội đâm chết người trong sòng bạc.

Tính trầm tĩnh và kiên nhẫn là hai yếu tố giúp cho Vũ vươn lên và yêu đời. Chàng làm việc rất hăng say và xốc vác, sẵn sàng tiếp tay cho những bạn tù yếu sức. Những kiến thức trong trường, ngoài đời của Vũ đã giúp cho đội đi cây đạt được tiêu chuẩn của trại ấn định dễ dàng mà lại bớt phần vất vả. Công tác thường xuyên của đội là hạ những cây danh mộc xẻ thành ván chuyển về cho toán thợ mộc sản xuất bàn, ghế, tủ, giường.

Trời vào Đông, cơn mưa phùn rả rích đêm ngày. Đây là thời điểm gây khốn khổ nhiều nhất cho đội đi rừng.  Với dốc đèo trơn trợt, loài vắt, loài ve xuất hiện dày đặc trên lá cây rừng. Vắt bám vào lưng, vào cổ người tù. Vắt luồn lách vào nơi kín đáo nhất của con người. Chúng hút máu mà ta không hề hay biết, đến khi no nê là tự động buông mình rơi xuống đất để lại vết cắn  máu vẫn tiếp tục chảy ra.

Trời tạnh mưa, nhưng rừng già còn sũng nước… Đội đi rừng khá vất vả mới hạ được cây gỗ lim. Toán dùng cưa dứt cây thành từng đọan. Vũ cùng anh em khác có trách nhiệm tỉa cành.

Ngọn cây ngã đổ về hướng dốc đứng cao, bên dưới là con suối, nước nguồn đang chảy về cuồn cuộn. Vũ khó khăn lắm mới bám được bờ dốc đổ thoai thoải về hướng suối làm nơi đứng để chặt cành. Tên Phi và Đại với áo mưa trùm đầu, cũng đến bên Vũ tìm chỗ đứng. Vũ đưa chiếc rựa ra xa, người chênh vênh trên bờ dốc. Bỗng một bàn chân đạp mạnh vào lưng Vũ. Mất đà, anh lộn nhào từ trên cao rơi dọc theo triền dốc đầy đá tảng rồi rớt xuống dòng suối.

Chiếc áo mưa đang mặc trở thành cái phao cứu Vũ. Nước đẩy trôi một đoạn, anh bình tĩnh nắm được ngọn cây chìa ra trên mặt nước. Khi nghe tiếng la: “tai nạn, tai nạn!” của tên Phi, mọi người chạy dọc theo bờ suối cứu Vũ. Chân trái bị gãy, đầu và mặt có nhiều thương tích. Quản giáo cho người khiêng Vũ về trạm xá.

Những ngày chân bị bó bột, nằm buồn, Vũ chợt nhớ đến mẫu chuyện Phúc Họa Khôn Lường trong Cổ Học Tinh Hoa, rồi ngâm nga câu thơ của Huỳnh Thúc “Kìa tụ tán chẳng qua là tiễn biệt, Ngựa Tái Ông họa phúc biết về đâu”.

Vài ngày sau Trần Vũ được chuyển qua toán làm việc nhẹ, ngày ngày chẻ mây đan giỏ. Từ khi Hạnh thẳng thừng bác bỏ những cáo buộc Vũ về tội cưỡng dâm do cán bộ Hoàng sắp đặt, anh luôn canh cánh nhớ ơn nàng vì mình mà Hạnh phải gánh chịu bao đắng cay, trù dập.

*   *    *
Sáng ngày 15 tháng 2 năm 1980, sáu tháng sau ngày Vũ bị tai nạn, tù nhân chuẩn bị xuất trại đi làm, Vũ được lệnh mang tất cả đồ dùng cá nhân trình diện Ban Giám Thị. “Lại có chuyện gì sắp xảy ra cho hắn?”, bạn tù xì xào bàn tán. Người đoán Vũ bị chuyển qua đội khác, kẻ hoài nghi chẳng lẽ họ đưa hắn đi Bắc?  Dự đoán nào cũng khoác màu đen lên cuộc đời Vũ. Riêng Vũ thì rất điềm nhiên tự tại, bởi anh sẵn sàng chấp nhận bất cứ hoàn cảnh nào.

–  “Anh đã thể hiện một cải tạo viên tiến bộ về mặt tư tưởng và lao động. Nay, Đảng và Nhà Nước  quyết định tha anh về đòan tụ với gia đình.”

Lời tuyên bố quá bất ngờ của Giám thị trưởng, khiến Vũ đứng ngây người như trong cơn mơ. Anh không tin lỗ tai mình nữa, đến khi quản giáo trực gọi chàng vào ký giấy tờ, Vũ mới chắc chắn rằng chàng thật sự thoát được cảnh đọa đày.

Sau một giờ làm thủ tục, Vũ nhận một giấy “Quyết Định Ra Trại” và 20 đồng bạc đi đường. Vũ rời trại với bộ áo quần tù mới phát. Tất cả đồ cá nhân còn lại, Vũ yêu cầu cán bộ chuyển cho hai tù hình sự tên Đại và Phi kèm theo mảnh giấy có ghi lời nhắn: “Xem như món quà mọn dành cho hai bạn với lời cảm ơn chân thành của tôi. Trần Vũ.”

Vũ lê đôi nạng gỗ suốt quãng đường dài mười cây số. Khi mặt trời chiều vừa gối đầu trên đỉnh ngọn núi cao nhất của Trường sơn, Vũ mới đến được bến xe huyện lỵ. Bác tài xế đỡ Vũ lên chiếc xe khách cuối cùng rời thị trấn.

Quyết định đầu tiên của Vũ là đến nhà chị Hồng để hỏi thăm tin tức của Hạnh. Có thể Hạnh đã lấy chồng hoặc đã thuyên chuyển đến một đơn vị nào rất xa. Điều quan tâm của Vũ là phải cảm ơn nàng lần cuối cùng, trước khi gởi đời mình vào nơi bị cưỡng bức cư trú: Khu Kinh Tế Mới.

Nhà chị Hồng ở làng Cẩm Lệ, một địa phương nổi tiếng trồng thuốc lá. Ngôi nhà màu vàng nhạt, mái ngói lâu đời đã xanh rêu, nổi bật là chiếc sân rộng lát gạch bát tràng. Nghe tiếng chó sủa, chị Hồng  ra mở cửa. Chị trố mắt, kinh ngạc kêu lên:

– Vũ, chú được tha rồi hả? Nhìn vào cặp nạng với ánh mắt đầy lo âu:

– Chuyện gì đã xảy ra cho chú thế? Vũ không trả lời ngay, anh lục túi lấy tiền trao cho bác xe ôm. Chị Hồng ngăn lại dành phần trả, bác xe ôm tươi cười nói:

– Tôi chở giúp đấy, người anh em cũ của chúng tôi mà. Vũ chưa kịp cám ơn, anh xe ôm đã vội vàng phóng xe đi.

Vũ quay qua chị Hồng hối hả hỏi:

– Hạnh thế nào, bây giờ làm gì, ở đâu?

Chị Hồng nhìn Vũ bảo:

– Việc ấy sẽ nói sau, giờ đây mời Vũ dùng cơm với mẹ chị và gia đình.

Bóng đêm phủ trùm cảnh vật, nhà nhà đều lên đèn. Bữa cơm đầu tiên với không khí gia đình đầm ấm khiến cho lòng Vũ cảm xúc dâng trào. Được biết chồng chị Hồng là công nhân của một Lâm trường cách xa nhà, lâu lâu mới được phép về thăm gia đình. Hồng và Hạnh là hai chị em cùng cha khác mẹ. Chị Hồng ở lại miền Nam với mẹ. Người cha tập kết ra Bắc lấy vợ khác, sinh ra Hạnh tại thành phố Vinh.

Đầu mùa Xuân mà tiết trời khá oi bức. Chị Hồng bắc ghế ngoài hiên cùng Vũ ngồi tâm sự. Sau khi nghe Vũ tường thuật những việc xảy ra cho chàng từ ngày Hạnh bị triệu hồi về Ty, cùng mưu đồ ám hại do hai tên tù hình sự thực hiện, Chị Hồng lắc đầu thốt lên:

– “Ghê thật!”  rồi tiếp:

– Đã trên một năm rồi, Hạnh không cho chị lên thăm Vũ vì tên Hoàng theo dõi chị. Phần Hạnh thì gặp muôn vàn khó khăn. Một mặt chúng lưu giữ không cho nó chuyển cơ quan, mặt khác cố truy tìm những vật chứng về sự liên hệ mật thiết giữa hai người. Đó là phương cách duy nhất để hủy họai danh dự của Hạnh mà Hoàng đã thề sẽ không bao giờ tha thứ.

Chị Hồng ngưng kể, nhìn Vũ một hồi lâu rồi ân cần bảo:

Đêm nay Vũ nghỉ lại đây. Ngày mai chị sẽ đưa chú đến thăm Hạnh. Con nhỏ vẫn còn tốt số, Chúa đã che chở cho nó! Vũ giật mình, nôn nóng ngắt lời:

– Hạnh đã gặp tai nạn phải không?

Gần như thế, thằng Hoàng hăm he sẽ đòi lại món nợ đời mà Hạnh đã gây ra cho nó. Rất may là thư của Hạnh chú đã tiêu hủy. Bằng không, lần khám xét trên ấy mà họ bắt gặp chỉ một bức thư của Hạnh là hai người sẽ bị khốn đốn. Thằng ấy đầy mưu mô quỉ kế.

Mới đây, Thanh Hoàng bỗng làm lành với Hạnh. Hắn yêu cầu cô ấy rút lời từ hôn và  trở lại với hắn. Con nhỏ cứng rắn bảo:  –  Nước đổ ra sàn còn mong gì hốt lại, đồng chí tìm một người khác xứng đáng hơn.    Hoàng gằn từng tiếng:

– Đến bây giờ mà cô vẫn còn mê muội.

Con nhỏ nổi giận quát lên:

– Đồng chí nói ai mê muội?

Hoàng trợn mắt, hét vào mặt Hạnh:

– Tôi nói đồng chí mê muội đấy, được không? Tao sẽ trị thằng giặc đó liệt đời luôn.

Con bé không vừa, dang tay tát vào mặt Hoàng một cái như trời giáng, rồi thét lên:

– Quân đốn mạt!

Bất ngờ, Hoàng rút súng lẫy cò. Một tiếng nổ vang lên chát chúa. Hạnh ngã xuống, máu chảy tràn trên mặt đất. Người ta vội chở cô ấy đi bệnh viện cấp cứu ngay. Rất may là viên đạn không trúng tim mà đi chệch lên trên làm gãy xương vai.

– Sự việc xảy ra bao lâu rồi hả chị? Vũ lo lắng hỏi.

– Vừa tròn một tháng. Với tấm chân tình Hồng tiếp:

– Hạnh, nó yêu em thật lòng Vũ à. Con nhỏ nầy cứng đầu lắm. Mẹ ruột nó mắng chửi, ông già khuyên răn mãi mà nó cương quyết không chịu trở lại với thằng Hoàng, nó bảo:

-Vợ chồng mà không hòa hợp làm sao chung sống với nhau cho tròn vẹn.

Thiếu Tá Thanh Hoàng hiện nay đã bị ngưng chức. Hắn ra Hà Nội đã nửa tháng nay.

Suốt cả đêm Vũ không hề chợp mắt, trông trời mau sáng. Tình yêu trong trái tim đóng kín giờ đây như được thoát ra khỏi lớp vỏ bọc mặc cảm thân phận người tù và đang thôi thúc Vũ nhanh chân đến với Hạnh.

Trời còn tối mịt, chị Hồng cùng Vũ đón xe đi Hội An, một thành phố cổ nổi tiếng ngày xưa nằm về hướng đông nam Đà Nẵng.

Hội An mới trải qua 6 năm sau ngày “giải phóng” mà như người mắc bệnh cùi, khuôn mặt lở lói, nhớp nháp, xanh xao. Đường phố loang lổ ổ gà. Nhà nhà cửa đóng then cài, lưa thưa một vài bóng người thất thểu trên vỉa hè đầy rác rưởi.

Hạnh ở trong một tòa nhà chung cư ba tầng. Thang gác chật hẹp lại thêm dốc đứng, với đôi chân đi nạng, Vũ trèo lên vô cùng khó khăn. Trên lan can, người ta phơi áo quần giăng mắc khắp nơi. Ngay cả những quần đùi, xì líp họ cũng chẳng ngần ngại bày ra.

Dọc theo một hành lang tối tăm, ẩm thấp là những cánh cửa có ghi số phòng: P311, P312, P313… Chị Hồng dừng lại cửa P319 rồi gõ vào đó bốn tiếng. Vũ hồi họp đợi chờ.

Cánh cửa từ từ xịch mở. Hạnh xuất hiện nơi khung cửa, vai trái bó bột, gương mặt xanh xao, tiều tụy nhưng đôi mắt nàng vẫn còn ngời lên ánh tự tin. Hạnh cười với chị Hồng. Bất chợt nàng trông thấy người đàn ông đi nạng đứng ngoài xa. Hạnh nhìn chị Hồng, rồi nhìn Vũ, bỗng nàng la lên:

– Vũ, anh đã về!

Hạnh chạy tới ôm chầm lấy Vũ. Chàng buông cặp nạng gỗ, hai tay giữ đầu Hạnh. Họ gục mặt vào nhau. Dòng nước mắt nhớ thương tích tụ lâu ngày của đôi tình nhân đầy nghịch cảnh đã chan hòa. Họ uống những giọt lệ hạnh phúc qua làn môi mặn. Chị Hồng lặng lẽ lau khô dòng  nước mắt xúc động đang chảy dàn dụa trên má.

Vừng thái dương đã lên cao. Đôi bồ câu tha những sợi rác về làm tổ cũng vừa sà cánh trên nóc dãy nhà dân trước mặt. Nắng chan hòa trên mái ngói rêu xanh làm dịu bớt nét già nua của thành phố cổ.

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích