Mở đầu…
Phía Nam Hoành Sơn, tập truyện khởi từ giai đoạn lịch sử rối ren nhất của dân tộc. Giòng họ Lê đất Lam Sơn sau gần trăm năm trị vì bắt đầu suy vong khi vận nước lại trao vào tay hôn quân bạo ngược như Uy Mục, Tương Dực. Mạc Ðăng Dung đang nắm quyền bính, đảo chính lật đổ nhà Lê (Ðinh Hợi 1527). Trung thần nhà Lê, An Thành Hầu Nguyễn Kim cùng đám thủ hạ thân tín chạy sang Ai Lao, lập căn cứ tại Sầm Châu mưu việc trung hưng gây cuộc nội chiến Lê Mạc. Sau khi Nguyễn Kim chết, mâu thuẫn quyền lực phát sinh giữa hai họ Trịnh Nguyễn thúc đẩy Nguyễn Hoàng, con thứ Nguyễn Kim vào trấn thủ Thuận Hóa, âm mưu xưng hùng một cõi gây cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn. Sau 45 năm tranh hùng, hai bên ngưng chiến, đất nước phân ly. Giòng họ Nguyễn làm chủ phương nam tiếp tục cuộc hành trình lao nhọc đầy trí tuệ, diệt Chiêm Thành, chiếm Thủy Chân Lạp mở rộng cõi bờ. Ðến đời thứ chín, triều đình chúa Nguyễn gặp nạn quyền thần thao túng. Nhân dân phẫn uất, đói khổ lầm than. Nguyễn Nhạc, hào kiệt ấp Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa. Quân Tây Sơn chiếm Qui Nhơn, tràn ra phía bắc đánh phá vùng Quảng Ngãi, Quảng Nam. Không bỏ lỡ cơ hội, Tĩnh Ðô Vương Trịnh Sâm tổ chức hành quân nam tiến. Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần thất trận chạy trốn vào Gia Ðịnh ( Ất Mùi 1775)…
Tập truyện xếp theo thứ tự thời gian, được tham khảo và đối chiếu từ các tài liệu: Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư bản Chính Hòa (hoàn thành năm 1697 thời Tây Vương Trịnh Tạc). Các tài liệu của Quốc Sử Quán triều Nguyễn: Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Ðại Nam Nhất Thống Chí, Ðại Nam Liệt Truyện Tiền Biên… Các tài liệu khác : Vũ Biên Tạp Lục (Lê Quý Ðôn), Xứ Ðàng Trong năm 1621 (Giáo sĩ Cristophoro Borri), Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim), Việt Sử Tân Biên (Phạm Văn Sơn), Việt Sử Xứ Ðàng Trong (Phan Khoang), Việt Nam Giáo Sử (Phan Phát Huồn)… và một số những tài liệu mới đọc được ở trong, ngoài nước sau năm 1975.
Tuy diễn tiến theo giòng chính sử, Phía Nam Hoành Sơn hình thức vẫn là truyện. Vận dụng sáng tạo của người viết tiểu thuyết hóa các nhân vật lịch sử, hư cấu thêm nhân vật, gửi gắm đôi chút suy tư….. Cũng như nhà văn Alexandre Dumas từng nói:“ Lịch sử đối với tôi là gì? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo các bức họa của tôi thôi”. (Qu’est ce que l’histoire? C’est un clou auquel j’accroche mes tableaux).
Trung thu Quý Mùi 2003
TRÊN ĐƯỜNG TÂY TIẾN
Suốt trăm năm dưới triều đại nhà Hậu Lê. Giòng họ Nguyễn làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn Thanh Hóa nổi tiếng danh gia vọng tộc, bao đời phát công hầu khanh tướng. Họ Nguyễn không những là niềm kiêu hãnh của làng, mà của cả huyện, cả trấn Thanh Hóa. Nhất là sau này, con cháu họ Nguyễn trở thành chúa tể xứ Ðàng trong trên hai trăm năm. Lúc sự nghiệp suy tàn tưởng đã bị diệt vong, giòng họ Nguyễn lại vươn mình đứng dậy. Sau cuộc nội chiến đẫm máu gần ba mươi năm với anh em Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh thống nhất sơn hà mở đầu triều đại nhà Nguyễn.
Kể từ khi vua Thái Tổ Lê Lợi xuất thân áo vải, ba thước gươm bình định sơn hà đuổi giặc Minh khỏi bờ cõi dựng nghiệp nhà Hậu Lê. Nghe lời kêu gọi của Thái Tổ, tiên tổ họ Nguyễn làng Gia Miêu Nguyễn Công Duẫn cầm đầu đám dũng sĩ Tống Sơn, đầu trần chân đất tụ về đất Lam Sơn theo vua dựng cờ đại nghĩa diệt quân xâm lược. Trải bao phen nếm mật nằm gai, vào sinh ra tử. Công Duẫn được phong hầu tước. Lúc tuổi xế chiều trở về vui thú điền viên, Công Duẫn được vua phong tặng Thái Bảo Quốc Công, thật hiển vinh danh giá khó ai sánh kịp. Ðến đời con, xứng câu “hổ phụ sinh hổ tử”, Nguyễn Ðức Trung nối chí phụ thân trở thành tôi lương đống. Ðức Trung nhiều phen xông pha trận mạc, từng kéo quân chinh nam thảo phạt Chiêm Thành, được phong chức Ðô Ðốc Trinh Quốc Công. Ðức Trung có con gái tiến cung, sau thành Thái Hậu, là mẹ vua Hiến Tôn. Họ Nguyễn thời ấy nắm hết mối giềng xã tắc, giòng họ có đến gần hai trăm người làm quan tại triều. Con trai Ðức Trung là Văn Lãng sở học uyên bác, võ nghệ cao cường. Văn Lãng tính hào hiệp, nhập tâm câu “kiến nghĩa bất vi…”, thích làm việc nghĩa, thương giúp kẻ khốn khó.
Người gia làng Gia Miêu thường kể con cháu nghe chuyện hổ thần núi Thiên Tôn, ngọn núi hùng vĩ nằm phía bắc huyện Tống Sơn. Mạch núi như chuỗi ngọc gồm mười hai ngọn liền nhau đẹp như tranh vẽ. Trong núi có hổ thần to như bò mộng, ban đêm tia mắt tỏa như hai làn sáng xanh biếc. Ác thú khát máu chẳng đụng đến gia súc mà chỉ thích thịt người. Ðêm đêm hổ về làng, biến hiện như ma gieo kinh hoàng khắp xóm thôn… Ðêm Gia Miêu hãi hùng u uất, đêm thẳm sâu nhà chẳng dám lên đèn. Ðêm trăng sáng, lũ trẻ thèm dỡn trăng bị trói chân trong nhà. Người người kinh hãi khi nghe tiếng chiêng trống, tiếng mõ, tiếng phèng la đập liên hồi báo động hổ về. Giữa rừng âm thanh hỗn loạn, chợt nghe tiếng thét hãi hùng thất thanh cùng với tiếng khóc. Ðó là lúc đã có nạn nhân làm mồi cho ác thú.
Làng họp khẩn tìm cách đối phó. Ðám tráng đinh trang bị cung tên tẩm thuốc độc, gậy gộc giáo mác tuần phòng hàng đêm nhưng số đinh ít ỏi không đủ bảo vệ cả làng. Trấn đầu làng thì hổ vào cuối thôn, trấn cuối thôn hổ lại đến đầu làng. Ác thú tinh quái, trong tuần trăng bảy lần về làng là bảy người vong mạng. Cụ tiên chỉ bàn với chức việc nên lập miễu thờ “ngài”, hứa bốn mùa cúng tế xin “ngài” động lòng thương xót. Ðúng lúc ấy, công tử Văn Lãng, con trai Quốc Công Ðức Trung từ Ðông Ðô về thăm quê. Nghe chuyện hổ thần tác quái, Văn Lãng tức giận quyết ra tay trừ khử, bác bỏ việc lập miễu cúng tế. Suốt mấy ngày, Văn Lãng suy nghĩ lung, tự mình nghiên cứu kỹ đường đi nước bước ác thú.
Một đêm trăng mờ lung linh, Lãng đeo báu kiếm, khoác nỏ, dẫn mười tráng đinh đến khe núi, ven con suối nhỏ lặng lẽ mai phục. Mọi người nín thở hồi hộp dưới sương đêm buốt giá. Ðêm tàn dần, bóng hổ biệt tăm… Ðoàn người lục tục về thôn khi nghe tiếng gà xao xác vọng lại. Qua đêm thứ hai, thứ ba… Có kẻ ngã lòng muốn bỏ cuộc. Văn Lãng giận, lặng yên rút báu kiếm tung tuyệt chiêu chém đứt cay soan già ven đường. Tra kiếm vào vỏ trước vẻ thán phục của đám tráng đinh, Lãng nói”Các người nhắm cốt hổ có cứng hơn cây kia chăng”. Nói xong giương nỏ lắp tên bắn trúng chạc ba cách hàng trăm bộ. Mọi người cảm phục yên tâm theo Lãng vào núi mai phục đêm thứ tư. Ðêm rừng khuya âm u tĩnh lặng đe dọa, trăng non cao tỏa mờ. Quá nửa đêm trời nổi gió. Gió lên, hây hây rồi mạnh dần mang mùi hôi nồng nặc. Hổ đến, giờ quyết định là đây. Mọi người hồi hộp, mắt dồn về phía khe núi theo dõi bóng hổ chậm bước. Hổ từ từ đến ven suối, ngừng lại nhìn giòng nước rồi ngước nhìn trời. Không lỡ cơ hội, Văn Lãng bật dây nỏ. Mũi tên xé gió cắp ngập mắt phải hổ. Hổ gầm, quay ngược định phóng vào núi, bị mũi tên thứ hai bắn trúng hạ bộ. Hổ lăn mình lại nhận mũi tên thứ ba vào bụng… Hổ đau gầm vang cố chạy đã bị Văn Lãng phi thân đón trước, chém sả lưỡi kiếm ngang đầu… Tiếng soạt khô khan, ác thú bị chém vỡ sọ ngã bật ngửa, vật vã vài lần rồi bất động.
Ðám tráng đinh như qua cơn mê, reo hò mừng rỡ mang xác hổ về làng. Thôn xóm reo vui trống chiêng ầm ĩ chào mừng người hùng đả hổ. Sau Văn Lãng là đệ nhất công thần dưới thời vua Tương Dực. Lúc mất được phong tặng vương tước, tạc tượng thờ ở miếu công thần. Ðời cháu Văn Lãng là An Thành Hầu Nguyễn Kim, cơ nghiệp nhà Lê đứng trước nguy cơ diệt vong do các vua cuối bất xứng, thất đức bất tài… An Hưng Vương Mạc Ðăng Dung thao túng triều đình chuẩn bị đoạt ngôi báu.
Năm Ðinh Hợi 1527, thời tiết thật lạ. Cuối hạ trời vẫn nắng gắt, cái nóng như đổ lửa nhất là buổi trưa khi mặt trời đứng bóng, cơn gió tây khô khốc từ xứ Lào âm u ào ào tràn về. Gió nồng nực, nóng khô giường cong chiếu, nóng chó le lưỡi chảy dãi phát điên.
Tại cổng tả thành Tây Giai, ngôi thành kiên cố do vua nhà Hồ là Quý Ly xây dựng tại huyện Vĩnh Lộc đã trên trăm năm. Dưới trời gắt nắng, hàng ngàn dân quân nhễ nhại mồ hôi, những khuôn mặt xạm nắng lờ đờ mệt nhọc im lặng chịu đựng vẫn gò lưng đẩy những xe đất đá. Trăm năm qua, chiến tranh rồi bão lụt cộng với thời gian, ngôi thành kiên cố không chịu đựng nổi sức tàn phá của trời và người, nhiều chỗ bị sụt lở dù nền đá tường xây gạch. Hơn một tháng xây lại thành đã có hai người chết vì say nắng, một người bị đá đè do tường lở. Nguyên một tảng đá lớn đè trên người nạn nhân. Rồi đất lở ào ào vùi lấp thi thể. Nạn nhân chết không kịp kêu. Tường thành làm mộ chí. Người ta bó tay không thể bới lấy xác, đành thắp một nén hương, tất cả đứng lặng yên cúi đầu như lời chào vĩnh biệt. Nén hương tàn, mọi người lại tiếp tục công việc. Có cụ già chứng kiến cái chết thương tâm nói: “ Ông nội tôi thuở trước cũng từng làm phu xây thành kể lại. Có tay cống sinh người huyện Vĩnh Lộc chống việc xây thành bị Hồ Quý Ly chôn sống ngay chỗ tường này. Người vợ uất ức kêu oan đập đầu vào đá tự tử, tảng đá nứt một mảnh tạo thành vết lõm oan nghiệp đến giờ vẫn còn dấu tích. Những đêm thanh vắng, dân quanh vùng nghe văng vẳng tiếng khóc não nùng ai oán. Có người bảo chính mắt thấy bóng người đàn bà áo trắng xõa tóc lượn lờ trên thành. Mãi đến khi Hồ Quý Ly bị giặc Minh bắt về Tàu tiếng khóc mới dứt.”
Ðầu tháng bảy công việc hoàn tất. Ðứng trên vọng lâu, An Thành Hầu Nguyễn Kim nở nụ cười bằng lòng. Nụ cười hiếm có trên khuôn mặt cương nghị phong sương dạn dầy chiến trận. Nguyễn Kim hiện lĩnh chức Hữu vệ Ðiện tiền Tướng quân trấn thủ vùng bắc Thanh Hóa. Cạnh ông, Quản Lĩnh Trịnh Duy Liêu trông dáng thư sinh. Duy Liêu ngoài tài văn chương lỗi lạc lại là người đa mưu túc kế, trên thông thiên văn dưới đạt địa lý, thiên hạ khó ai bì. Với Nguyễn Kim, cái đáng trọng nhất ở con người này là sĩ khí nho gia, chẳng mê giầu sang, chẳng khuất phục uy vũ. Với tài năng ấy thì cái bảng nhãn thám hoa chẳng khó, nhưng Liêu thấy thời buổi nhiễu nhương chưa muốn dấn thân. Nể tình bạn, Liêu ra giúp Nguyễn Kim, giữ vai trò quân sư. Liêu chơi với bạn một mực thủy chung, trước sau như nhất.
Nguyễn Kim và Duy Liêu cùng là người Thanh Hóa nhưng khác huyện. Người ở Tống Sơn, kẻ ở Lôi Dương. Tình đồng hương và lòng cảm mến gắn bó hai người thành đôi bạn tâm giao, bên nhau như hình với bóng. Nhìn một vòng quanh thành, Nguyễn Kim nói:
-Tôi thấy thành này xây trên thế đất phẳng, quanh có hào sâu, bốn phía lũy tre bao bọc chó chui không lọt. Cảnh quan nhiều núi lắm sông là thế phòng thủ vững chắc. Hồ Quý Ly là kẻ tinh đời từng trải chọn đây làm kinh đô. Từ đây tiến ra bắc hoặc lùi về nam đều thuận tiện, hợp cả thời loạn lẫn thời bình. Ý ông thế nào?
Duy Liêu trầm ngâm giây lát, chậm rãi nói:
-Tôi nghĩ hơi khác. Thành cao hào sâu kiên cố nhưng chẳng đạt lòng dân tất cũng bại vong. Hồ Quý Ly cuối cùng thất bại. Thời nay tuy bình nhưng mầm loạn vẫn nhen nhúm. Triều đình không hòa hợp chia phe này phái nọ. Vua Chiêu Tôn vụng về nông nổi nên Mạc Ðăng Dung có cớ bành trướng thế lực nắm trọn uy quyền. Nay đến vua Cung Hoàng thực sự chỉ là bù nhìn. Mầm loạn ngay ở chỗ ấy. Nghĩ như thế, ta trấn thành này là hợp. Thế đất huyện Vĩnh Lộc theo tôi chỉ hợp với thời loạn, chẳng nên với thời bình vì nằm hẻo lánh, người thưa đất cằn.
-Thế nước biến, quyền thần gây loạn, bề tôi trung chẳng lẽ khoanh tay ngồi nhìn nhà vua bị hà hiếp? Tôi muốn ra tay chấn chỉnh mối giềng xã tắc, phục hồi vương quyền. Vậy phải hành động ra sao?
-Phục ông trung nghĩa nhưng muốn thành công phải biết sức mình sức người. So sức ta kém xa họ Mạc. Ta có hai ngàn binh, Mạc có hàng chục vạn. Các xứ quanh Thăng Long đều do người của Mạc Ðăng Dung trấn giữ. Thăng Long được bảo vệ rất vững. Tại triều đình, người ta thường phù thịnh, mấy kẻ phù suy. Một số văn quan trung với nhà vua lại lặng lẽ cúi đầu, rụt rè sĩ khí. Ta thế yếu lại ở xa. Nước xa không cứu được lửa gần.
-Vậy ta đành khoanh tay thúc thủ? Nguyễn Kim nói giọng buồn. Duy Liêu trấn an:
-Ta không thúc thủ mà ẩn nhẫn chờ thời. Quan trọng là nhà vua phải khôn khéo tìm cách đứng vững, tự bảo vệ mình. Tôi nghĩ vận số nhà Lê chưa tận, thế nào cũng vượt cơn quốc biến.
Duy Liêu bước xuống vọng lâu. Còn một mình, Nguyễn Kim ngó mông lung. Phía bắc thành Tây Giai, Ðốn Sơn nổi lên hai ngọn cao vút hùng vĩ. Mờ xa là núi Hí Mã trông như trường đua ngựa. Chếch về phía tây là núi Mông Cù, đứng trên núi có thể nhìn thấy biển đông, vùng thượng lưu sông Mã. Sừng sững phía đông là Côn Sơn có khối đá lớn tựa hình sư tử hý châu, lại có Kim Sơn, mạch núi từ phía đông núi Hùng Lĩnh nổi lên 29 ngọn như chuỗi ngọc. Từ xa trông thế núi hùng vĩ hiện nhiều hình dáng như lâu đài, cờ xí, tàn lọng… Có núi trông như muông thú, cảnh sắc linh hoạt thay đổi. Trong núi có động lớn có thể chứa vài trăm người gọi là Trú Quân Sơn. Trên trăm năm trước, thời bị giặc Minh đô hộ, dân thường trốn vào động tránh phu dịch. Bên trên có cầu thiên nhiên gọi là cầu Tiên. Tương truyền những đêm trăng sáng, các tiên nữ thường hiện ra đùa vui trên cầu. Phía tây, sông Mã uốn lượn như con rồng xanh.
Trời ngả nắng. Nguyễn Kim bước xuống. Ông nghĩ phải đặt thêm đài quan sát trên mấy ngọn núi cao, đêm dùng lửa, ngày dùng cờ đỏ báo hiệu khi nguy cấp…
Sáng hôm sau Nguyễn Kim nhận tin khẩn do viên đội trưởng toán thám sát vừa từ Thăng Long trở về: Ngày rằm tháng sáu, An Hưng Vương Mạc Ðăng Dung buộc vua Lê Cung Hoàng hạ chiếu nhường ngôi báu cho mình. Tân Vương đặt niên hiệu Minh Ðức. Cơ nghiệp nhà Lê kể từ khi Thái Tổ dựng nghiệp ởợ đất Lam Sơn Thanh Hóa chấm dứt sau đúng trăm năm.
Là người trầm tĩnh nhưng Nguyễn Kim vẫn choáng váng. Viên đội trưởng kể: Mấy ngày trước, dân kinh đô nghe đồn An Hưng Vương sẽ tổ chức diễn binh thường niên vào rằm tháng sáu. Ngày mười bốn, đoàn quân áo đen của họ Mạc từ Hải Dương tiến về kinh, dân chẳng ai ngờ vực. Trưa hôm sau, tất cả ngỡ ngàng khi đọc bảng bố cáo.
Lát sau ông hỏi đội trưởng:
-Ngươi thấy tình hình chung ra sao?
-Thưa tướng công, tình thế rối ren, lòng người hoang mang lo sợ. Giới quan lại đa phần giữ yên lặng nghe ngóng tình hình. Có kẻ từ quan mai danh ẩn tích. Lại có kẻ tuẫn tiết chết theo cơ nghiệp nhà Lê cho trọn nghĩa trung quân. Mạc Ðăng Dung ban chiếu phủ dụ thần dân, vỗ yên trăm họ, kêu gọi các cựu thần nhà Lê hãy hợp tác với triều đại mới, chức vị bổng lộc giữ nguyên. Họ Mạc không bắt tội, lại truy phong cho đám bầy tôi tiết nghĩa nhà Lê. Ngay cả đền miếu của tiên triều cũng vẫn được trùng tu, bốn mùa cúng tế.
Nguyễn Kim cho viên đội trưởng lui, cùng Duy Liêu bàn luận. Ông nói:
-Ông liệu việc như thần. Chúng ta đều là tôi nhà Lê, bấy lâu hưởng lộc nước không lẽ khoanh tay ngồi nhìn bọn phản nghịch lộng hành. Hơn nữa, ta lại là người đất thang mộc, cùng quê hương với đức Thái Tổ. Ðã từ lâu ta biết Ðăng Dung là đứa thâm độc, từ lâu nuôi mộng vương bá. Chỉ tiếc quần thần khoanh tay rũ áo, ngậm miệng cầu an để nó thao túng mới nên cớ sự. Cổ nhân từng dậy: Tôi trung không thờ hai chúa, gái chính chuyên chỉ lấy một chồng. Kẻ sĩ quyết không cam tâm làm thân trâu chó, thề một lòng trung quân ái quốc dù thịt nát xương tan. Ta có nên hưng binh sống chết một trận với bọn phản nghịch?
Duy Liêu đáp không suy nghĩ:
-Ông một lòng với nhà Lê. Nếu hưng binh phải trung hưng lại được cơ nghiệp nhà Lê, thế mới nên trang hào kiệt, rạng danh thiên cổ. Còn hưng binh liều chết tỏ lòng trung, lấy trứng chọi đá theo tôi không phải là hành động của bậc tài trí. Ðăng Dung là người cẩn trọng, việc soán nghịch chắc chuẩn bị từ lâu. Tôi nghĩ hắn chưa dám làm mạnh nhất là tại xứ Thanh. Tốt nhất ta lặng yên nghe ngóng tránh ba quân giao động, tuyệt không lộ ý định, từ từ sẽ liệu sau.
Tối hôm ấy, hai người ngồi đối ẩm trước hiên nhà. Nguyễn Kim uống liền mấy chung rượu, lòng dạ rối bời. Duy Liêu cũng trầm ngâm yên lặng. Mãn canh hai, cơn gió nhẹ hây hây. Trời tối mù mây đen giăng kín. Lát sau trời đổ mưa. Mưa ào ào thác lũ. Nguyễn Kim trằn trọc giữa cơn cuồng nộ đất trời. Trời giận họ Mạc hay khóc nhà Lê? Quá canh ba mưa ngớt hột rồi tạnh. Tiếng ểnh ương cóc nhái rền rĩ dần dần rời rạc buồn thảm. Những ngày tiếp, Nguyễn Kim biết tâm trạng quân sĩ hoang mang. Lính gặp ông cúi chào không dấu cái liếc trộm dò xét nhưng tuyệt không ai dám bàn tán gì. Duy Liêu bàn:
-Vùng núi Tam Ðiệp là nơi trọng yếu, là cuống họng của con đường thông thương nam bắc. Dựa vào thế hiểm núi rừng trùng điệp, ta có thể lấy một chọi mười. Ông nên tăng thêm quân, cử người thân tín trấn giữ. Ðộng tịnh gì chỉ nên chống cự cầm chân địch và phi báo. Cẩn thận không để nước đến chân mới nhẩy.
Nguyễn Kim cho là phải. Ông nói:
-Mươi tháng nữa là vụ gặt, ta nên trữ nhiều lương phòng khi nguy cấp.
Ngày qua ngày, hàng năm sau tình hình vẫn êm ả chưa thấy có biến động nào lớn chống lại họ Mạc. Nguyễn Kim nôn nóng bàn với Duy Liêu:
-Cứ thế này mộng trung hưng rồi sẽ tàn theo thời gian. Ta phải ra tay hành động. Xưa Ðức Thái Tổ từ đất này khởi nghĩa dựng nghiệp. Nay ta cũng từ đây xuất phát diệt lũ nghịch thần, đại nghĩa phải thắng hung tàn. Ông nghĩ sao?
-Xưa khác nay. Giặc Minh bạo ngược, lòng dân phẫn uất, thấm thía cái nhục mất nước nên khi Thái Tổ khởi nghĩa người người hưởng ứng. Có đủ yếu tố thiên địa nhân thế mà mười năm gian lao mới thắng trận. Nay trải qua nhiều năm loạn lạc, loạn từ triều đình loạn ra do thượng bất chính. Lòng dân ngao ngán chỉ mong sống yên lành. Nay kẻ hoài Lê cũng nhiều nhưng kẻ phù Mạc cũng lắm. Ta cần kiên gan, chiến thắng không thể đến ngày một ngày hai. Ông quen với vua Ai Lao, ta nên ngoại giao với y nhượng cho đất Sầm Châu làm cứ điểm, khai khẩn đất hoang, trữ lương mộ binh. Chọn Sầm Châu vì là đất xa hiểm trở, địch không để ý cũng như không nắm rõ tình thế quân ta. Sau đó tìm con cháu nhà Lê tôn làm vua dành chính nghĩa. Có hậu cứ, có lực lượng từ đó xuất binh diệt phản nghịch. Ấy là thượng sách.
Nguyễn Kim khen kế sách hay. Vài ngày sau, Nguyễn Kim cử Trịnh Duy Liêu làm sứ giả lên đường sang gặp Quốc vương Ai Lao. Ðội trưởng Lê Toàn chỉ huy hai trăm binh hộ tống lên đường.
Ðoàn quân băng rừng vượt suối. Tháng bảy nhiều mưa. Những cơn mưa buồn lây lất. Người ta bảo vợ chồng Ngâu đang nhỏ những giọt lệ mừng nhìn chim ô thước bắc cầu xum họp mỗi năm vào ngày song thất. Ðêm rừng thẳm thâm u, thác suối ào ào nghe như trời mưa to. Lê Toàn nằm trong lều nghe tiếng chim ăn đêm kêu vọng từ cõi xa xăm mơ hồ. Toàn buồn, con người như con sâu cái kiến, nhỏ nhoi giữa núi rừng u tịch. Nỗi nhớ quê âm ỉ.
Quê Toàn ở huyện Nga Sơn, ngôi nhà tranh nghèo ngay chân núi Thần Phù. Mẹ chết cũng vào một ngày mưa buồn tháng bảy, thoắt đã sáu năm nhưng Toàn vẫn nhớ hình ảnh lúc mẹ lâm chung. Cha ngồi bên giường lặng lẽ dằn nỗi đau nhìn người vợ sắp lìa cõi thế. Cha nghẹn ngào:“Bà có điều chi trăn trối?” Mẹ mệt nhọc thở hắt những hơi cuối cùng. Toàn đứng lặng dưới chân giường nhìn thi thể mẹ teo tóp chỉ còn da bọc xương sau nhiều tháng nằm liệt. Ngoài bốn mươi tóc mẹ đã bạc nhiều. Biết bao buổi trưa Toàn ngồi nhổ cho mẹ từng cọng tóc sâu. Mẹ ốm, cha phải bán cả thóc gạo, vay mượn thêm láng giềng cố chạy chữa thuốc thang. Ðã nghèo càng nghèo. Lúc sau cha lấy manh chiếu trải xuống đất. Hai cha con khiêng mẹ đặt trên manh chiếu. Cha mong hơi đất lạnh làm mẹ hồi sinh. Cha nói một mình:“May ra bà thương cha con côi cút chẳng nỡ bỏ đi.” Cha ngồi cạnh mẹ rất lâu rồi như thất vọng, ra hiệu Toàn phụ khiêng mẹ đặt lại trên giường. Cha bảo:“Con bước ra cửa chiêu hồn mẹ. Gọi ba hồn chín vía, mẹ ơi về với con.” Toàn bước ra cửa gọi hồn ba lần. Tiếng hú hồn vang trong đêm khuya rờn rợn ma quái. Mẹ chẳng động lòng. Mẹ nhất quyết ra đi. Vĩnh viễn. Hôm chôn mẹ, Toàn bật khóc nghe người đọc văn tế:“Than ôi! Thân mẫu vội đi, bỏ cửa bỏ nhà, cây buồn đứng lặng, tên còn người mất, xót xa đôi ngả phân ly..”
Từ đấy cha sống đơn độc, thường ngồi một mình đăm chiêu. Toàn biết cảnh nhà túng quẩn, cha phải nài nỉ khất nợ nhiều người nhưng chưa ai nỡ nặng lời trách mắng. Dân làng vốn trọng người văn học. Cha đỗ tam trường nhưng không chịu thi tiếp làm quan. Cha bảo “chốn quan trường rẫy đầy phường trộm cắp”. Toàn thương cha ngày ngày vào rừng đốn củi, bó củi mỗi ngày to hơn, nặng hơn.
Ngày nọ, cha chất đầy tay nải sắn khô, chuẩn bị búa rìu, cuốc mai. Toàn không hiểu ý cha. Cha bảo:
-Cha con mình đi tìm trầm. Cha biết vùng rừng núi Tam Ðiệp có cây dó trăm năm, ruột biến thành kỳ nam tỏa hương ngào ngạt khắp vùng. Kiếm được nó sẽ khá to. Có gan làm giầu con ạ.
Hai cha con ngày đêm bương chải. Giấc mơ kỳ nam đẩy bước chân qua bao khu rừng chằng chịt âm u, đèo cao lũng sâu. Qua những ngày nắng, những trận mưa rừng dây dưa trắc ẩn. Ðã ba chuyến đi, kỳ nam đâu chẳng thấy. Cũng may cha còn kiếm được vài loại trầm thường, bán đi có đồng tiêu vặt vãnh, trả vài món nợ vặt.
Chuyến đi thứ tư, cha quyết định đổi hướng, vào ngay khu rừng già ít người dám lai vãng vì nghe rừng có con hổ ba móng thành tinh. Bao kẻ mạo hiểm vào rừng đã không trở về. Toàn e dè, cha hối thúc:“Làm thằng đàn ông phải can đảm bản lĩnh”. Toàn lầm lũi theo cha. Qua ngày thứ hai sau khi vượt qua ngọn thác cao, dù mệt tả tơi nhưng cả hai cha con nghe thoang thoảng mùi hương trầm. Mắt cha rực sáng. Cha bảo Toàn cố lên, mình quyết tâm nên trời thương ngó lại. Hương trầm lúc thoảng lúc đậm, chập chờn quyến rũ như ma lực hút cha con vào sâu trong rừng thẳm. Tối mịt cha mới chịu dừng chân nghỉ trong hang đá lạnh âm u. Mờ sáng cha dục lên đường, băng băng đi tìm cây dó phát mùi hương kỳ ảo. Toàn dừng rửa mặt bên con suối, hốt hoảng nhận ra bộ xương người nằm kẹt giữa hai tảng đá lớn. Phải chăng đó là kẻ đã mê mẩn đi tìm kỳ nam như cha con Toàn. Toàn chỉ cho cha, ý muốn cha lùi bước trở về. Cha điềm nhiên bảo “có chí thì nên”. Cha quyết không bỏ cuộc. Ðến ngày thứ mười, hai cha con vẫn đi trong vùng hương trầm. Toàn chỉ mong cái mùi hương quái ác kia tan biến. Toàn chán ngán vô vọng nhưng không có cách gì thuyết phục ý chí sắt đá của cha. Chiều hôm ấy sau khi dừng nghỉ ăn cơm, cha kêu mệt nằm nghỉ. Buổi tối cha lên cơn sốt, trán nóng nhưng người lạnh run. Toàn đốt lửa, trùm kín chăn, cha vẫn lạnh rên hừ hừ, môi khô kêu khát nước. Toàn nói với cha:“ Ta nên về, sức thầy kiệt không thể đi nổi, ngộ có bề gì thì khốn. Cái số mình nghèo đành chịu. Ăn của rừng rưng rưng nước mắt”. Cha thều thào:“Thà ăn của rừng còn hơn ăn của dân đen. Nhưng thôi, con đưa thầy về”.”
Sáng hôm sau Toàn cõng cha trở về. Cũng may có lúc cha tỉnh tự đi được nên đỡ vất vả. Về đến nhà, Toàn mừng còn hơn bắt được vàng. Lại cậy ông thầy thuốc người Mường chữa trị cho cha cả tháng mới hồi phục nhưng sức cha yếu hẳn không còn được như xưa. Từ đấy, cha con an phận thủ thường sống với ruộng nương. Ngày lại ngày, bốn năm trôi qua thầm lặng. Toàn ngoài hai mươi gặp cô Nụ cùng thôn trong lễ hội ngày xuân. Chỉ có lễ hội giúp trai gái gần gũi trao nhau câu hò điệu hát, cuộc sống phóng túng bay bổng vượt qua khuôn mẫu ngày thường. Nụ xinh gái, phúc hậu hồn nhiên. Toàn ngây ngất nếm hương vị ngọt ngào tình yêu ban đầu, đôi trai gái phải lòng nhau từ buổi ấy. Buổi sáng xuân nắng vàng rực rỡ phơi phới cởi mở đôi lòng. Lúc chia tay Toàn nhắn Nụ” nhớ chờ trầu cau chạm ngõ”.
Toàn lấy vợ, cha mừng nhà có đàn bà, bếp núc lại lửa khói đỡ cảnh lạnh tanh. Cô con dâu dễ bảo chăm làm. Nhưng niềm vui chỉ được vài tháng Toàn phải đăng lính, xót xa giã cha già vợ trẻ. Hai năm chưa một lần về thăm, nỗi nhớ khắc khoải ăn nằm trong lòng người lính trẻ. Toàn nghĩ nay thời bình sao chủ tướng Nguyễn Kim vẫn chưa cho phép lính thăm nhà. Chủ tướng muốn chuyển quân đi Ai Lao? Muốn chống lại vua Mạc? Bao câu hỏi quẩn quanh… Rồi Toàn còn xa nhà đến bao lâu mới có ngày vui đoàn tụ? Thôi đành phận lính, chủ tướng ra lệnh phải nghe, biết làm sao… Chuyến đi này hẳn quan trọng lắm. Toàn nghĩ lan man chìm dần vào giấc ngủ chập chờn…
Ðoàn quân tiếp tục lên đường đi vào xứ Ai Lao thâm u huyền bí rừng núi chập chùng đất rộng người thưa. Ngày trở lại quê hương thấy Quản Lĩnh Duy Liêu vui vẻ tươi cười. Toàn đoán Quản Lĩnh hoàn thành sứ mệnh.
Hai tháng sau, Quản Lĩnh lại lên đường sang Sầm Châu với quân số gấp ba lần trước. Lê Toàn dẫn quân đi tiên phong. Ðến Sầm Châu, Quản Lĩnh ra lệnh dừng chân tại vùng đất tương đối bằng phẳng. Quân chia nhiều toán, có toán làm trại binh, toán phát nương rẫy trồng lúa, sắn khoai. Toàn hiểu ra chủ tướng Nguyễn Kim sẽ dùng Sầm Châu làm căn cứ kháng vua Mạc. Những chiều sau công việc, Toàn nhìn bốn phía núi rừng trùng điệp, thương mình luân lạc, thương cha nhớ vợ quê nhà côi cút. Thời gian sau, vùng rừng núi Sầm Châu trở nên gần gũi với con người. Muông thú lùi vào rừng sâu nhường chỗ cho những mái tranh san sát, mầu xanh mơn mởn của nương lúa đồi sắn bạt ngàn. Toàn mừng phát điên nhận lệnh dẫn vài chục quân sĩ trở về Thanh Hóa trao thư Quản Lĩnh gửi chủ tướng. Có xa quê mới hiểu thế nào là nỗi nhớ, mới nghe, mới cảm được tiếng gọi tha thiết quê nhà, mới yêu cái hương vị tuyệt vời của quả cà dầm tương, của bát canh rau muống còn nghi ngút khói…
Cuối năm, Toàn được lệnh đến huyện Nga Sơn vận lương. Toàn mừng có dịp về gần nhà, định tâm dành vài ngày thăm cha già vợ trẻ. Ðợi chờ nôn nao mãi rồi cũng tới ngày lên đường. Toàn cỡi ngựa dục quân đi mau, viên đội phó chỉ huy hậu quân đi sau cùng. Ðoàn quân đến núi Tam Ðiệp, nhìn ngọn núi hùng vĩ nhấp nhô một dải xanh biếc, Toàn nhìn về phía hữu núi nhận ra động Bích Ðào, tương truyền đời nhà Trần có người Từ Thức gặp tiên nữ Giáng Hương ở đấy nên dân gian nhiều người thường gọi động Từ Thức. Từ Thức khát vọng yêu đương, chẳng màng danh lợi ra đi tìm Giáng Hương rồi lạc vào cõi tiên. Kìa là biển Thần Phù. Quê nhà, nơi chôn nhau cắt rún. Toàn nghẹn ngào, ra lệnh đoàn quân tạm dừng chân nghỉ. Viên đội phó với Toàn cũng là chỗ thân thiết. Y nói:
-Ông xem chốn đây phong cảnh hữu tình, núi non mây trời hùng vĩ.. Kìa là biển đông xanh biếc thấp thoáng mấy cánh buồm lẻ loi căng gió, vài cánh hải âu lượn lờ…
Toàn lặng yên nhìn xuống chân núi:
-Sau khu rừng cây um tùm là nhà tôi. Trên hai năm tôi chưa một lần trở về.
-Ông còn cha mẹ vợ con anh em?
-Tôi chỉ còn cha già. Vợ cưới mới vài tháng là bị đăng lính, chưa con cái gì.
-Kể cũng lạ, thời bình mà hơn năm nay chủ tướng chớ hề cho quân nghỉ phép. Tôi xa nhà cũng lâu. Hay ông cứ tạt qua nhà chơi dăm bữa. Tôi lo sổ bộ thu thóc xong sẽ hẹn ông cùng về. Tôi cũng có vợ ở tận xứ Nghệ. Vợ chồng trẻ xa nhau thật tội, chăn đơn gối lẻ, sớm hôm côi cút. Chỗ anh em ông chớ ngại ngần.
Nghe bạn nói Toàn như mở cờ trong bụng nhưng làm vẻ ngần ngừ. Viên đội phó thúc dục. Toàn giã ơn bạn lên ngựa từ từ xuống núi. Ðược một quãng thấy viên đội phó chạy tới quàng túi gạo trên yên:“Ông mang về ít gạo có cái mà dùng”.
Trời ngả nắng, cái nắng mùa đông vàng nhẹ như tơ. Người cha đang ngồi chẻ lạt ở đầu hè thấy con về buông dao cười rạng rỡ, hàm răng lưa thưa. Toàn nao nao:
-Lạy thầy con mới về. Thầy vẫn mạnh khỏe?
-Nhờ trời thầy cứ làng nhàng. Anh đi đã hơn hai năm, kể cũng lâu. Ra sau vườn gặp vợ cho chị ấy mừng.
Toàn bước vào căn nhà lạnh tanh, đặt tay nải lên chõng rồi bước ra khu vườn nhỏ sau nhà. Toàn gọi “Mình ơi”. Nụ thấy chồng mừng vui ngỡ ngàng, họ nhìn nhau ánh mắt xót thương. Nụ nói:“Bố mới về, bố vẫn khỏe? Vào nhà nghỉ tôi đang bận tay hái nắm lang luộc ăn bữa chiều”. Toàn đứng lặng, lưỡi tê cứng. Nụ hơi gầy, sạm nắng nhưng vẫn nụ cười phúc hậu trên khuôn mặt đầy, vẫn cái áo cánh nâu sồi, cái váy thâm bạc điểm vài chỗ vá. Toàn vòng ra hiên ngồi cạnh cha. Cha hỏi:
-Chuyến này anh về được lâu?
-Chắc chỉ độ dăm ngày thôi thầy ạ. Rồi Toàn kể cha nghe chuyến đi Ai Lao, những suy nghĩ của mình về An Thành Hầu Nguyễn Kim. Toàn đoán chủ tướng đang chuẩn bị kháng vua Mạc. Toàn linh cảm ra đi chuyến này không biết bao lâu nữa mới quay về. Cha lặng yên xa vắng:“ Thầy sẽ bàn chuyện với anh. Có dăm con cá rô, anh bảo chị ấy rán lên, kiếm tí rượu cha con đánh chén mừng xum họp”.
Nụ trải manh chiếu ngay giữa nhà dọn bữa. Hai cha con ngồi nhâm nhi đối ẩm. Có tiếng muỗi vo ve. Cha nói:
-Anh vắng nhà nhưng nhờ chị ấy chăm làm nên không đến nỗi túng bấn. Năm nay được mùa, đức vua tha thuế, thầy mua trữ thêm ít thóc phòng khi mưa bão thất vụ.
Cha uống hết bát rượu, rót đầy bát mới. Toàn nhìn khuôn mặt cha nhăn nhúm chịu đựng. Cha chưa đến sáu mươi mà tóc bạc trắng đầu, bao cay đắng mùi đời từng trải. Cha uống rượu, như nhờ men rượu nóng chống tuổi già đơn lạnh, cái lạnh chui rúc tận xương tủy. Toàn chậm rãi:
– Con nghĩ mình đang sức trai mà hóa vô dụng, biền biệt tha phương. Chỉ mong sớm hôm được gần gũi săn sóc thầy, đỡ đần nhà con lúc vất vả.
Cha nhìn thẳng vào mắt Toàn. Cái nhìn thấu hiểu sâu thẳm. Toàn cúi xuống tránh tia nhìn. Cha nói:
– Thầy nghe anh nói chuyến này đi không biết bao giờ mới trở về. Thầy hiểu ý anh. Tương lai của thầy chỉ là vuông đất ngoài bãi. Ðời anh còn dài. Sao không tự chủ, hoặc sống vì mình, vì hạnh phúc của những người thân, hoặc làm con cừu nhắm mắt bước theo con đầu đàn. Không dám quyết định than thở mà chi?
-Con chưa hiểu ý thầy?
-Lúc nãy anh nói chuyện An Thành Hầu lập căn cứ Sầm Châu chống lại nhà Mạc trung hưng cơ nghiệp nhà Lê. Chuyện đúng sai, nên hay không thầy chẳng dám bàn. Thầy đọc kinh sử, cũng đôi lần nói cho anh nghe, nay thầy nhắc lại. Nước nam ta tự thuở lập quốc trải qua biết bao đổi dời,bao triều đại. Ấy là lẽ hưng phế thường tình, nào có triều đại nào tồn tại mãi. Cứ kể tự thời tự chủ, Ngô Vương mất đi, cơ nghiệp lọt vào tay Dương Tam Kha. Anh em họ Ngô dành lại quyền bính lại để xẩy ra loạn thập nhị sứ quân do không tập trung được sức mạnh. Vạn Thắng Vương Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên tất cả, cơ nghiệp nhà Ðinh tưởng đâu bền vững, nào ngờ Ðinh Tiên Hoàng Ðế lại chết vì Ðỗ Thích. Ðến đời con thơ dại không giữ nổi cơ nghiệp, ngôi vua về tay Lê Ðại Hành. Họ Lê chết, các con tranh cướp ngôi vua. Long Ðĩnh giết anh Long Việt. Long Ðĩnh hoang dâm bạo ngược mở đường cho Lý Công Uẩn lên ngôi báu lập nhà Lý… Anh xem, ba triều đại đầu tiên tồn tại không quá hai đời do ngôi vương bá không ngừng bị tranh cướp. Lê dân khổ lây vì loạn lạc chiến tranh…
Cha ngừng mân mê bát rượu. Toàn lặng yên chờ. Cha tiếp:
-Ðời thầy cũng từng chứng kiến bao cuộc dâu bể. Vua Uy Mục tàn ác sa đọa, vua Tương Dực hoang dâm xa xỉ. Dân è cổ nộp sưu thuế. Quyền thần làm loạn giết vua này lập vua khác. Chiêu Tôn bất lực nhìn cảnh hỗn loạn. Vua là chúa tể trên cả thần linh, nay đâm ra sợ các quyền thần. Mối loạn từ trên loạn xuống, từ trong loạn ra. Các vị trung quân ái quốc, khi vận nước nguy ngập sao không cứu nguy, bao kẻ mũ cao áo dài, bằng nọ cấp kia ngậm miệng im hơi hưởng bổng lộc khác nào kẻ sĩ thời Chiến Quốc, đến nỗi dân thời ấy phê câu “Chiến Quốc chi sĩ tiện”, có nghĩa kẻ sĩ thời Chiến Quốc hèn hạ! Những kẻ xác còn mà lòng đã chết. Thậm chí các võ tướng mưu bá đồ vương kéo quân đánh lẫn nhau gây cảnh điêu tàn tang tóc. Quân của Vĩnh Hưng Hầu Trịnh Tuy giao tranh với An Hòa Hầu Nguyễn Hoằng Dụ ngay tại kinh đô. Vua can cũng mặc, chẳng coi đấng chí tôn ra gì. An Hòa Hầu nào ai xa, ngài chính là thân phụ chủ tướng của anh. Thầy như bao người chỉ là dân đen thấp cổ bé miệng. Ai làm vua cũng mặc, ai làm tướng cũng thế. Chỉ mong có đấng minh quân, đất nước thái hòa, không có cảnh núi xương sông máu, người người yên ổn làm ăn cơm no áo ấm… Thầy chẳng mong gì lại có các vua như Uy Mục Tương Dực.
Ðêm khuya trăng mờ, có cánh dơi lẻ loi vờn quanh ngọn xoan trước nhà. Cha bảo Toàn đi nghỉ sáng dậy sớm. Toàn vào nằm bên Nụ, ngửi lại hương tóc mùi bồ kết nồng nồng ngây ngất. Tình yêu rồi cũng như hương một thoáng bay xa? Nụ còn thức nhưng làm như đã ngủ. Toàn lay lay thì thầm:“Mình ơi, ta nên có mụn con nối dõi tông đường”.
Vài hôm sau, Toàn giã cha lên đường. Cha dặn Toàn cẩn trọng, chín chắn nghĩ suy. Nụ gói cho chồng dăm nắm cơm, ít muối vừng, bước vội ra sau nhà như sợ cảnh ly biệt. Toàn đứng lặng, chút hạnh phúc nhỏ nhoi chừng sắp tan biến. Lúc Toàn lên ngựa, chợt nhận ra cha cúi mặt khóc. Toàn quay vội. Ôi những giọt nước mắt hiếm hoi trên khuôn mặt cha già. Bao lâu cha mới một lần khóc. Một đời trải qua sướng khổ buồn vui. Những sum họp biệt ly, nụ cười nào cũng có nước mắt. Nhìn cây chuối lão trước ngõ gầy còm xác xơ đeo buồng quả trĩu nặng, hình ảnh cha già còng lưng đeo sầu năm tháng. Toàn nghẹn ngào…
Mùa xuân năm Kỷ Sửu 1529, Toàn lại thêm cái tết xa nhà. Ra giêng, chủ tướng Nguyễn Kim bí mật xúc tiến kế hoạch chuyển quân sang Sầm Châu. Ông tin tưởng hầu hết lính của ông là dân Thanh Nghệ rất mực trung thành với nhà Lê, sẵn sàng theo chủ tướng đi bất cứ nơi đâu.
Một đêm hè tĩnh lặng lác đác sao mờ. Tiếng trống điểm canh ba vừa dứt. Chủ tướng Nguyễn Kim ra lệnh cuốn cờ dẹp trống. Quân sĩ đội ngũ chỉnh tề lặng lẽ rút khỏi thành đi về hướng tây.
Sau vài ngày hành quân trong núi thẳm rừng sâu. Buổi sáng sớm, sau đêm di chuyển mệt nhọc, chủ tướng ra lệnh dừng chân nghỉ điểm binh bên giòng suối. Ðộầi trưởng Lê Toàn và viên đội phó vắng mặt. Hỏi không ai biết đi đâu, từ bao giờ. Chủ tướng thương hai người lính trẻ, sợ đã gặp bất trắc khi di chuyển trong rừng đêm, ra lệnh mấy mươi lính tỏa nhiều hướng đi tìm.
Buổi chiều, mặt trời thoi thóp trên sườn non, các toán quân lục tục kéo về báo cáo. Tất cả ra sức tìm kiếm không thấy vết tích đội trưởng đội phó, chỉ thấy rừng núi tiếp nối chập chùng…
Thủ Lĩnh Sầm Châu
Ðộng Lam Sơn thuộc huyện Thụy Nguyên xứ Thanh Hóa vốn là đất tổ nhà Lê. Chuyện xưa kể: Tổ ba đời Thái Tổ Lê Lợi là Lê Hối vốn người hào hiệp phóng túng, giầu của giầu lòng. Tuổi ngoài năm mươi, ngài trút bỏ thế sự, phân chia gia sản cho các con, một mình một ngựa ra đi ngao du sơn thủy. Mải mê cảnh mây trời non nước, vó ngựa một chiều dừng chân trên ngọn đồi nhỏ bên giòng sông Lam xứ Nghệ. Giòng nước trong xanh lững lờ như rồng xanh uốn lượn giữa đôi bờ cỏ cây xanh biếc. Mờ xa, vài cánh buồm lẻ loi căng gió mờ ảo khói sương. Kìa là vùng núi non chập chùng kỳ vĩ mang dáng tứ linh long ly quy phụng. Lê Hối vào tận huyện Nghi Xuân nhìn Hồng Lĩnh Sơn, mạch núi từ Trà Sơn kéo đến uy nghi hùng vĩ ngất trời với 99 ngọn cao thấp trùng điệp. Có ngọn tựa hình sư tử, ngọn dáng như voi nằm, ngọn như phụng hoàng cất cánh, ngọn như cá lượn lờ… Lê Hối dừng chân tại núi Hương Tích, thế núi ngất trời, đỉnh cao mây phủ. Từng nghe danh chùa Hương, ngài quyết lên non. Ðến lưng chừng núi gặp trung niên áo nâu đeo sọt trên lưng. Lê Hối nhìn đoán là tay học thức, hỏi:
-Ta là khách viễn phương đến vãn cảnh chùa. Người ở đây tỏ tường mọi nẻo, có hảo tâm cho nghe qua chút lai lịch chùa Hương?
Thấy khách dung mạo uy nghi, lời lẽ ôn tồn, trung niên kính cẩn:
-Tôi đoán ngài người phương xa. Tôi quê ở đây làm thầy lang, cách vài ngày lại đăng sơn hái thuốc. Nội tổ kể: Một thuở nào đó xa xưa, khi rừng mây âm u, khi sông núi thần linh ngự trị. Núi này mang tên Ðông Dương, vẫn là nơi chư thần gặp gỡ. Bấy giờ bên Tàu, vua Trang Vương nước Sở có công chúa út xinh đẹp tên Diệu Thiện. Diệu Thiện mộ Phật từ nhỏ, hằng tâm phát nguyện quy y. Năm nàng độ tuổi trăng tròn, phụ vương chọn mặt gửi vàng, tìm trang tuấn kiệt xứng ngôi phò mã. Vua tưởng con mãn nguyện, nào ngờ Diệu Thiện nài nỉ khóc than, xin phụ vương ban ân được nương tựa cửa thiền thỏa tâm nguyện tự thuở ấu thơ. Vua quyết không thuận, bảo con cãi cha mang tội bất hiếu. Hôn lễ cứ thế tiến hành. Biết không chuyển lòng phụ vương sắt đá, Diệu Thiện một đêm trốn khỏi hoàng cung, ẩn thân trong ngôi chùa ở ngoại thành. Vua tìm ra tung tích con gái, nổi giận truyền phóng hỏa đốt chùa. Lửa cháy ngập trời bỗng có rồng xuất hiện phun nước dập tắt. Thấy dáng con trong chùa, vua cả giận sai vũ sĩ gươm giáo tuốt trần quyết sát. Bỗng trời mây u ám, gió nổi đùng đùng. Một mãnh hổ phóng ra cõng Diệu Thiện trên lưng lướt gió bay vút trời cao. Vua nguyền rủa không ngớt, đành lui binh mã. Mãnh hổ là đệ tử Phật Tổ Như Lai, nhận lệnh Phật đưa Diệu Thiện về phương nam, đặt trên núi Ðông Dương thuộc đất Việt Thường.
Tỉnh dậy, Diệu Thiện thấy đang nằm trong động, trước có đá che tựa mái hiên. Nơi đây thanh vắng thâm u, núi cao lớp lớp trùng trùng mây trôi lờ lững. Diệu Thiện đang ngơ ngác, bỗng thấy cánh hạc đáp xuống hiến dâng quả ngọt, bầy nai vàng ngậm hoa chào đón. Diệu Thiện tạ ân Phật cứu khổ. Từ đấy an tâm tu đạo, một lòng cầu kinh niệm Phật thoát cõi u minh nghiệp chướng luân hồi.
Ngày lại ngày, nào ngờ chốn thâm sơn cùng cốc có người lai vãng. Danh tiếng sư nữ dần lan khắp cõi Việt Thường. Thiện nam tín nữ nơi nơi nô nức đến nghe sư nữ Diệu Thiện giảng kinh. Người ta bảo nàng là hiện thân Phật Quan Âm Nam Hải … Trung niên kể đến đây bỗng ngập ngừng:
-Ðoạn này tôi quên bẵng. Chỉ biết sau này Sở Trang Vương lâm trọng bệnh, các danh y bó tay. Nhà vua hứa trao giang sơn cho kẻ nào cứu mạng. Diệu Thiện nhận lệnh Phật Tổ biến thành lương y chữa lành bệnh hiểm nghèo cho phụ vương. Sau khi hồi phục, Sở Trang Vương giữ lời hứa nhường ngôi cho vị lương y cứu mệnh, nhưng lương y bỏ đi biệt tích. Trang Vương lập đàn tạ ân trời đất. Ðêm ấy thần nhân báo mộng cho vua và hòang hậu biết, lương y chính là công chúa Diệu Thiện. Nàng nay tu hành trên ngọn Ðông Dương xứ Việt Thường. Vua cả mừng cùng hoàng hậu và vài mươi tùy tùng lên đường xuống phương nam tìm con. Chuyện sau thế nào chẳng rõ, chỉ biết sau khi gặp Diệu Thiện, Sở Trang Vương và hoàng hậu phát nguyện quy y… Sau Quan Âm Nam Hải về cõi Phật, cảnh chùa vắng lặng, chẳng còn ai lên ngọn Ðông Dương. Qua bao tháng năm, đến thời nhà Trần, có người nhớ tích xưa tìm ra động cũ. Nhà vua cho xây cảnh chùa đặt tên Hương Tích, có nghĩa dấu tích muôn đời lưu tiếng thơm. Chùa xây xong, do thần nhân chỉ lối, vua tìm được vị sư áo trắng. Không biết sư đến tự phương nào, lai lịch ra sao. Sư thường ngồi trong động trên núi Thiên Tượng giảng kinh. Người ta đồn sư thông kim bác cổ, biết việc quá khứ vị lai. Vua mừng rỡ, truyền sư về trụ trì chùa Hương Tích. Thiện nam tín nữ lại nô nức đến nghe giảng kinh, tôn sư là Bạch Y Thần Tăng. Sư cho dựng 99 đài bằng đá gọi Trang Vương Ðài. Sau người Chiêm Thành xâm lấn đốt chùa. Bạch Y Thần Tăng cỡi mây bay về phương bắc. Từ đấy chùa tan hoang, khói lạnh hương tàn. Cảnh trí tiêu điều còn chi thuở son vàng cũ?
-Ta cất công đường xa lặn lội, dù chẳng vàng son cũng muốn nhìn lại cảnh hoang phế, xin cứ vui lòng chỉ lối.
Thấy khách quyết tâm, trung niên nói:
-Ngài vòng phía tả, chừng nửa dậm đường thấy con suối lẫn trong vùng thông trúc um tùm. Chùa ngay phía hậu.
Lê Hối tạ từ ra đi. Qua khu rừng trúc, Trang Vương Ðài bị tàn phá tan hoang, những pho tượng đá sứt cổ gẫy gọng đổ nhào chắn lối. Những đống gạch vụn đã phủ rêu xanh. Ngọn thác sau chùa ào ào trắng xóa như vành tang nhớ thuở xa xưa dập dìu khách xá. Lê Hối trầm ngâm ngồi trên tảng đá, xót cảnh bể dâu vật đổi sao dời.
Trời ngả nắng, đang định xuống núi bỗng mây ùn ùn lớp lớp kéo tới giăng kín trời. Biết sắp mưa, Lê Hối vào ẩn trong động đá sau chùa. Rồi mưa, mưa lúc nhặt lúc thưa lê thê không dứt. Lê Hối lạnh lẽo cô đơn dựa vách đá ngủ chập chờn. Màn đêm buông. Ðêm đen sâu thẳm. Rất khuya, Lê Hối bừng tỉnh bởi mùi hương ngào ngạt lạ kỳ. Bóng người áo trắng đứng ngay cửa động. Một lão ông mặt sáng như trăng, tiên phong đạo cốt. Lê Hối đoán là Bạch Y Thần Tăng, bật dậy vòng tay thi lễ:
-Khách phương xa đến vãn cảnh chùa. Gặp gió mưa kềm tỏa đành tá túc qua đêm. Xin thần nhân thứ lỗi.
Lê Hối nghe giọng nói thoảng như từ cõi xa:
-Ta từ thượng giới, cảm tấm lòng người chẳng ngại mưa gió ngàn dậm quan san nên lộ thiên cơ. Hãy xuôi hướng bắc tìm giòng sông hiền, ở đấy chim muông tụ hội, thế đất xoáy trôn ốc gồm đủ long sơn long thủy. Sau này nên vì nghĩa cả, thế thiên hành đạo cứu người Việt lầm than, dựng nghiệp trăm năm lưu danh thiên cổ.
Thế rồi gió nổi ào ào, lá rừng lả tả. Thần nhân nương gió mà đi. Lê Hối quì sụp lạy tạ.
Trời sáng mưa ngưng, mặt trời rực rỡ. Lê Hối xuống núi, theo hướng chỉ thần nhân tìm đến sông Lương huyện Thụy Nguyên. Giòng sông xanh trong hiền hòa chảy vào Tây Hồ ngay động Lam Sơn. Bên tả có núi Chí Linh, hữu là ngọn Chiêu Sơn, kiểu đất quanh co trôn ốc có hồ nước lớn bao bọc như cánh tay ôm của mẹ, mẹ cao lớn hóa thân thành núi. Một vùng cây cỏ xanh tươi núi non hùng vĩ, chim muông tụ líu lo cất tiếng, đúng nơi đất lành chim đậu. Lê Hối mừng rỡ trở về, truyền con cái, hàng trăm gia nhân đem hết tài sản đến đất Lam Sơn lập nghiệp.
Từ đấy Lam Sơn trở mình biến thành vùng trù phú. Ba đời sau, Lê Lợi quản lý cơ ngơi tổ tiên. Sau này giặc Minh xâm lấn, dân ta bị lệ thuộc cực khổ trăm chiều. Cuộc sống thua thú vật, giặc Minh độc ác tàn phá di tích văn hóa, thiêu hủy bao công trình trí tuệ dân ta. Lê Lợi nhớ di chúc ông cha đứng lên phất cờ khởi nghĩa, thế thiên hành đạo, mười năm gian lao đuổi lũ sài lang độc ác lập triều đại nhà Lê.
Lê Lợi lên ngôi vua năm Mậu Thân 1428 tức Lê Thái Tổ. Trăm năm sau, con cháu nhàợ Lê bất xứng bị Mạc Ðăng Dung đoạt mất ngôi cao. Bấy giờ lòng người hoang mang, dân Lam Sơn nhiều kẻ trốn vào rừng sâu núi thẳm sợ bị họ Mạc sát hại. Còn lại chỉ ông già bà lão cùng lũ trẻ thơ, ruộng đồng hoang phế, đất thiếu người chăm dần dần cằn cỗi. Tân vương hạ chiếu không làm tội ai, tôn miếu nhà Lê được bảo vệ, con cháu tự do tế tự tiên tổ nhưng lòng người vẫn nghi ngại ngờ vực. Khi An Thành Hầu Nguyễn Kim lập căn cứ kháng Mạc, con cháu nhà Lê nhiều người băng rừng vượt suối sang Ai Lao gia nhập đoàn quân trung hưng, mong ngày dựng lại nghiệp tổ.
Mùa xuân năm Quý Tỵ 1533. Tin đồn bắt đầu từ Lam Sơn dần lan sang các huyện Tống Sơn, Nga Sơn, Vĩnh Lộc… rồi khắp xứ Thanh. Ðồn rằng: An Thành Hầu Nguyễn Kim đã tìm được con cháu nhà Lê lập lên ngôi báu, vua Lê và triều đình hiện ở Sầm Châu thuộc nước Ai Lao. Rằng danh tướng của Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm, tay hào kiệt người huyện Vĩnh Lộc đang chuẩn bị hưng binh phạt Mạc. Có bà cụ tuổi ngoại thất tuần kể chuyện rành rẽ:“ Có trời làm chứng, chính sư cụ chùa Từ Vân kể ta nghe rõ ngọn nguồn. Nhà vua tên Duy Ninh, hoàng tử út vua Chiêu Tôn. Mẫu thân là Ngọc Quỳnh, bà họ Nguyễn vốn người sách Cao Trĩ. Khi nghịch Mạc tiếm ngôi, bà mang con lẩn trốn trên vùng sơn cước, sau nghèo khó đành gửi hoàng tử nương náu cửa Phật. Sư cụ bảo, ngài quả chân mạng đế vương, lên chùa lạy Phật thì Phật ngoảnh mặt không dám nhận lễ, ra khỏi cổng chùa trên đầu có mây ngũ sắc che chở, đêm ngủ có rồng cuộn canh giấc. An Thành Hầu ba lần được thần nhân báo mộng, thế mà dò la mãi mới tìm ra tung tích ngài.” Cụ tiên chỉ móm mém, tóc trắng như vôi cười hể hả:“ Hoàng thiên hữu nhãn, công lao đức Thái Tổ ta trời nào nỡ phụ. Chẳng qua mệnh nước đảo điên nên bọn phản nghịch có cơ tác quái. Rồi bay cũng tận số. Ta hằng đêm xem thiên trượng thấy ngôi đế tinh đã hiện mờ mờ ở phương tây. Ðiềm trời đã báo buổi bình minh ắt chẳng sai lạc.”
Một đêm, có người đến gõ cửa nhà cụ tiên chỉ. Kẻ lạ bước vào nhà khoanh tay cúi chào:
-Bẩm cụ, cụ có nhận ra con?
Chăm chú nhìn, cụ tiên chỉ vui mừng nhận ra Trần Ðạt. Ðạt có thời làm tá điền nhà cụ, sau nhờ giỏi võ được Nguyễn Kim tuyển làm vệ sĩ. Cụ đoán y trở về gặp ắt có việc hệ trọng.
Trần Ðạt cho cụ biết một ngày không xa, vua Mạc sẽ từ từ phân tán dân Thanh Nghệ vì sợ dân hai xứ liên kết nổi lên chống. Ðạt xác nhận Hoàng tử Duy Ninh lên ngôi tức vua Trang Tôn. Vua phong Nguyễn Kim làm Thái Sư Hưng Quốc Công, triều đình gồm đủ bá quan văn võ. Binh lực hàng ngàn, tập luyện tinh thông. Cụ tiên chỉ có vẻ lo:
-Nghịch Mạc muốn xua dân đi, ta có cách chi đối phó? Không lẽ cúi đầu bỏ quê cha đất tổ.
-Thưa thật cụ, con về gặp cụ do lệnh Thái Sư. Ngài đề nghị cụ bí mật loan truyền tin tức, khuyên dân tạm lánh sang Sầm Châu. Xứ ấy nay trù phú, ngút ngàn đồi nương tha hồ canh tác. Ai làm nấy hưởng, không sưu cao thuế nặng, lại tránh được cảnh chinh chiến mai sau. Dẹp xong phản nghịch yên lành ta lại về.
Cụ tiên chỉ muốn lưu khách nhưng Trần Ðạt tạ từ . Ðêm ấy cụ trằn trọc. Tuổi đời đã nặng, ra đi biết bao giờ trở lại, có khi lại bỏ nắm xương tàn nơi quê người đất khách. Lại nghĩ đến câu quốc gia hưng vong… không lẽ làm ngơ trước vận mệnh nước non, mối nhục để đời nếu bình yên tọa thị. Cụ cảm thấy hãnh diện được Thái Sư Nguyễn Kim tín cẩn, thân già có dịp nghiêng vai gánh vác việc nước việc dân. Ðêm dần tàn…
Ngay hôm sau, cụ tiên chỉ họp các bô lão bày tỏ ý định. Ai nấy hăng hái đồng tình. Riêng cụ đồ Nguyễn lặng thinh. Cụ tiên chỉ hỏi, cụ đồ chỉ ậm ừ bảo ai sao tôi vậy. Thực tâm cụ đã chán cảnh binh đao. Cụ nghĩ khí số nhà Lê đã tận, lịch sử dân tộc phải xoay chuyển sang vận hội mới, cần đấng minh quân thay trời trị dân. Vua Lê hay vua Mạc cũng vậy, miễn ai đem lại an vui, thái bình thịnh trị là cụ mừng. Vua Thái Tôn nhà Mạc (Mạc Ðăng Doanh) từ ngày nhận ngôi báu sống giản dị khiêm tốn, hết lòng lo cho dân cho nước, giảm sưu thuế, nhà nhà sống yên vui khác hẳn với thời các vua Lê Uy Mục, Tương Dực. Vậy tại sao lại muốn thay đổi vương triều. Những xác chết bạo quyền chỉ nên vùi chôn, khơi dậy chi thêm nặng mùi. Dân làng lũ lượt bỏ quê sang Sầm Châu. Ai hỏi cụ đồ bao giờ lên đường, cụ nói cứ thư thả.
Mùa hè năm ấy, căn cứ Sầm Châu thay hẳn bộ mặt. Căn nhà sàn năm gian mái ngói vừa làm xong. Căn nhà mái ngói duy nhất dùng làm hoàng cung cho vua Lê Trang Tôn, vị vua trẻ tuổi tròn mười tám. Cạnh đấy là căn nhà năm gian khác dùng làm chỗ quần thần nghị hội. Cuộc đời chàng trai nghèo huyện Thụy Nguyên như trong cổ tích. Ðang sống lẩn lút ở vùng thượng du bỗng dưng được mời làm vua, được người người kính trọng muôn tâu quỳ lạy… Vua lúng túng ngỡ ngàng trước hoàn cảnh đổi thay đột ngột. Bộ lễ phục càng làm vua vụng về hơn. Dù chẳng cung vàng điện ngọc, vua sung sướng với vai trò mới. Vua hiểu người đặt vua trên ngôi cao là Thái Sư Nguyễn Kim nên đối với Thái Sư, vua cung kính gọi Thượng Phụ, xem ông như cha. Quản Lĩnh Trịnh Duy Liêu nay thành Quốc Sư, trách nhiệm dậy vua học lễ nghi kinh sử. Vua thông minh hiếu học. Quốc Sư thường khen đầu vua như giếng, đổ bao nhiêu chẳng vừa. Chỉ vài tháng sau, vua tỏ ra khôn ngoan ứng xử, nói năng từ tốn đường hoàng. Vua đã quen xưng là trẫm, quen nghe quần thần gọi bằng bệ hạ. Thái Sư mừng, cho rằng nghiệp Lê chẳng tận, ngày trung hưng cơ nghiệp chắc không lâu.
Sầm Châu ngày càng đông vui. Dân xứ Thanh Nghệ đồn nhau đổ về lập nghiệp trên quê hương mới. Trời cho mưa thuận gió hòa, nhà nhà gạo thóc có dư thoát cảnh chạy ăn từng bữa. Trưa chiều, khói tơ quẩn quanh trên những mái nhà sàn. Bao đám cưới, bao trẻ thơ chào đời. Tinh thần quân sĩ cao độ, như lúc nào cũng sẵn sàng xuất quân chinh phạt phản nghịch.
Một chiều tàn thu, Thái Sư và Quốc Sư ngồi đối ẩm. Bên ngoài nắng nhạt, trời xanh bát ngát, cơn gió nhẹ đong đưa mấy đóa tiểu muội trước hiên. Xong vài chung rượu, Thái Sư giọng trầm buồn:
-Chỉ mấy năm ta tạo được cảnh này, dân sống thái hòa, quân đông tướng giỏi nhưng ý ông vẫn khuyên chưa nên động binh. Do vậy lòng này vui chưa trọn. Tuổi đời ngày một cao, ông với tôi ai cũng ngót bảy mươi, biết ngày nào công thành danh toại, khỏi thẹn chí trai đội trời đạp đất?
Quốc Sư lặng yên giây lâu, chậm rãi:
-Ông nôn nóng lẽ nào tôi điềm nhiên. Thuật dụng binh quý nhất phải có thiên thời địa lợi nhân hòa. Cứ xem như ta có thiên thời, nhưng còn địa lợi? Ta động binh phải giao tranh trên đất địch. Quân ta chưa đến một vạn, không lẽ kéo hết đi tử chiến để hậu cứ trống không. Trong khi địch quân dễ dàng điều vài vạn quân bao vây tiêu diệt quân ta. Hơn nữa, em vua Mạc là Hoằng Vương Mạc Chính Trung thường đích thân tuần tra Thanh Hóa. Y là tay danh tướng, hành binh cẩn trọng, mưu lược ít ai bì. Tôi biết rõ về y thời còn ở Thăng Long. Còn nhân hòa, chỉ có dân Thanh Nghệ và một số ít trung thành với nhà Lê. Do vì từ khi lên ngôi, Mạc Ðăng Doanh chú tâm ổn định đời sống nhân dân. Quân do thám của ta từng báo cáo tình hình: Hiện nay dân sống thái bình no đủ chẳng lo trộm cướp, đêm ngủ không đóng cửa, trâu bò không cần lùa về chuồng… Dân chỉ thích sống ấm no nên lòng dân thiên về Mạc hẳn không phải ít. Tôi khuyên ông chớ nôn nóng mà phải kiên nhẫn chờ thời là vậy.
-Cứ mãi chờ e lòng quân chán nản. Không khéo chúng ta theo nhau xuống lỗ cả thôi…
Biết ý Thái Sư chưa vừa ý, Quốc Sư cười nói:
-Nếu ý trời chưa muốn dứt nhà Lê thì mộng trung hưng trước sau gì cũng thành. Ông nên vững tin.
Trăng lên vằng vặc tỏa sáng mênh mông. Thái Sư bỗng cao hứng đứng dậy tuốt gươm, bước di chuyển nhịp nhàng, ánh thép loang loáng phủ quanh mình. Quốc Sư vỗ tay reo:
-Sức ông còn mạnh, trai trẻ khó sánh, lo gì mộng lớn không thành.
Thái Sư dừng tay kiếm, hơi thở vẫn đều mặt không biến sắc. Hai người bạn tâm giao vui vẻ yến ẩm đến gần nửa đêm…
Tuần trăng sau, nhà vua bất ngờ nhận biểu văn của viên trấn thủ Ðại Ðồng Tuyên Quang, vùng rừng núi phía bắc sát biên thùy Trung Hoa. Trấn thủ Vũ Văn Uyên thần phục nhà vua, xin được tùy nghi phong chức cho các bộ tướng. Văn Uyên hứa đảm đương việc trung nghĩa, quét sạch cung ấp nhà Mạc, rước xa giá vua Lê về lại Thăng Long. Vua cả mừng hỏi ý Thái Sư. Thái Sư nói: Ðó là ý trời muốn giúp nhà Lê khôi phục thiên hạ. Thái Sư hỏi viên bộ tướng:
-Chủ tướng ngươi lai lịch thế nào?
-Bẩm Thái Sư, trước kia chủ tôi vốn người châu thổ sông Hồng chạy trốn họ Mạc trôi giạt lên phía bắc. Lúc ấy viên Thổ Tù Ðại Ðồng hà khắc bạo ngược, nhân dân oán hận. Chủ tôi chiêu mộ quân dân nổi lên giết đi, sau được dân tôn làm chủ đất đó, người người quy phục.
-Số quân chủ ngươi cai quản bao nhiêu? Có từng giao tranh với quân Mạc?
-Quân số dưới tay chủ tôi trên nửa vạn. Quân Mạc nhiều phen tấn công nhưng không làm gì nổi. Ý chủ tôi muốn khống chế vùng thượng du, không cho quân Mạc rảnh tay dốc toàn lực tấn công lực lượng đức vua ở phương nam.
Thái Sư đẹp dạ trọng thưởng viên bộ tướng, lại đề nghị vua phong Văn Uyên chức Bình Ðông Tướng Quân. Vài ngày sau, Thái Sư nói với Quốc Sư:
-Tôi nghĩ ra kế sách mới nhất quyết phải làm. Nay ta đã có quân ở phía bắc nhưng chưa hoàn toàn đáng tin, vậy phải dựa vào lực của người Tàu. Ý tôi muốn có sứ giả chính thức sang gặp vua Minh Gia Tĩnh, kể tội Mạc Ðăng Dung soán nghịch, nài nỉ vua Minh xuất quân trừng phạt. Khi ấy ta sẽ thừa cơ tấn công Thanh Nghệ, cầm chắc thế thắng. Việc này phi ông không ai làm được. Vậy ông sẽ làm sứ giả sang Tàu lo quốc sự, ông chuẩn bị mươi ngày nữa lên đường, cần gì thêm cho tôi biết.
Biết ý Thái Sư cương quyết, có nói cũng bằng thừa. Quốc Sư ra vẻ bằng lòng nhưng thực sự ê chề đau đớn. Cái gương trăm năm trước, con cháu nhà Trần cầu cứu nhà Minh đem quân diệt Hồ Quý Ly. Nhà Hồ diệt vong nhưng đất nước rơi vào vòng nô lệ, nhân dân khốn khổ lầm than hơn bao giờ hết. Người Tàu muốn đồng hóa người Việt, ra sức tiêu diệt văn hóa nước nam, sách sử bị đốt, đến lăng mộ cũng bị đập phá… Thì thôi cũng đành cất bước khỏi phụ lòng bạn rồi tùy cơ ứng biến. Nào ai thương dân tộc mình bằng chính mình.
Tháng sau, sứ bộ khoảng mười người lên đường sang Trung Hoa. Thái Sư Nguyễn Kim ngậm ngùi tiễn bạn lên đường. Hai người bạn già xiết chặt tay nhau, nước mắt ngắn dài… Ông đứng nhìn theo đến khi đoàn người khuất sau khe núi mới trở gót.
Từ đấy, thời gian với Thái Sư trôi quá chậm. Thế rồi sáu tháng, một năm, năm rưỡi, rồi gần hai năm… Sầm Châu vẫn chưa nhận được tin tức về sứ bộ. Thái Sư lo buồn đoán sứ bộ đã gặp bất trắc bèn phái viên tùy tướng Trịnh Viên và vài người khỏe mạnh hộ tống đem theo nhiều vàng bạc lộ phí lên đường sang Trung Hoa dò tình hình. Năm sau, Trịnh Viên trở về báo cáo, sứ bộ đến Vân Nam lại gặp đám quan lại nhà Minh do vua Gia Tĩnh cử đến biên giới dọ xét tình hình nước nam. Trịnh Viên tường trình tội ác họ Mạc soán ngôi, lừa dối thiên triều, khẩn thiết xin thiên triều trừng phạt Mạc Ðăng Dung cho con cháu nhà Lê phục hồi ngôi cũ. Theo Viên, trước sau gì nhà Minh cũng sẽ động binh.
Phần Quốc Sư, Trịnh Viên được biết Quốc Sư đã bái yết vua Minh kể tội họ Mạc, lại viết tâm thư vài ngàn chữ, lời văn trác tuyệt tỏ rõ lòng thành làm mọi người thán phục. Trịnh Viên đoán vua Minh vốn trọng nhân tài, có ý lưu Quốc Sư lại không cho về nước nhưng nói thác giữ phái bộ ở lại chờ điều tra cho rõ thực hư vì phái bộ nhà Mạc đã tâu vua Minh con cháu nhà Lê nay chẳng còn ai nối nghiệp. Thái Sư nghe xong than vắn thở dài. Mối sầu lạc đệ khắc khoải, Thái Sư tìm quên trong men rượu. Khi say nhìn về phương bắc mà khóc. Dực Nghĩa Hầu Trịnh Kiểm, con rể Thái Sư tìm lời khuyên can nhạc gia. Kiểm đề nghị:
-Thưa nhạc gia, Quốc Sư đi sứ chưa về không hẳn là đã mất, sau có cơ hội ta lại xin vua Minh cho ngài hồi hương. Nay dù vắng Quốc Sư nhưng tinh thần quân dân khí thế chẳng nao, nhất là sau khi viên tướng nhà Mạc trấn thủ bảy huyện Thanh Hóa về hàng phục triều đình. Con tình nguyện dẫn bộ quân về đánh Lôi Dương phô trương thanh thế, trận đầu quyết thắng. Nhạc gia không tin, con xin viết quân lệnh trạng, không thắng sẽ treo đầu trên ngọn giáo chịu tội.
Năm Kỷ Hợi 1539 đại quân Lê do Trịnh Kiểm chỉ huy vượt biên tấn công huyện Lôi Dương. Quân Lê đại thắng, tướng sĩ Mạc lũ lượt hàng phục. Sầm Châu treo đèn kết hoa chào đoàn quân chiến thắng trở về. Vua Lê cả mừng phong Trịnh Kiểm làm Dực Quận Công.
Năm sau, đích thân Thái Sư hưng binh phạt Mạc. Vua Lê can:
-Thượng Phụ một lòng vì nước, công lao như Thái Sơn. Nay tuổi ngoài bảy mươi còn lo việc binh, lòng trẫm áy náy. Chi bằng ta để Dực Quận Công (Trịnh Kiểm) và các tướng trẻ ra quân, Thượng Phụ ở lại đất này gánh vác triều chính. Trẫm vì lòng kính trọng nói thế, Thượng Phụ tính sao?
Thái Sư khẳng khái:
-Thần tuy ngoài bảy mươi nhưng trời còn cho sức mạnh. Trai trẻ làm được thần cũng dư sức. Vả lại, thần muốn tận mắt nhìn thực lực địch quân. Nay Mạc Ðăng Doanh mới chết, nhà Minh dàn quân sát biên giới phía bắc. Quân Mạc sức mạnh ly tán, ta không động binh còn đợi chừng nào?
Thái Sư lệnh xuất binh tiến đánh Nghệ An. Quân địch tản mác không kịp đề phòng chỉ rút chạy. Quân Lê toàn thắng lại rút về căn cứ.
Ðầu xuân Quý Mão 1543, Dực Quận Công Trịnh Kiểm dâng vua bản Sách Lược Bình Nam. Vua xem xong đẹp dạ hết lời ngợi khen, lại ban thưởng mỹ tửu. Vua vẫn trọng nể Trịnh Kiểm, thường khen Kiểm chí hiếu tài năng. Vua hỏi:
-Theo sách của Quận Công, khởi đầu ta nên chiếm Tây Ðô làm nền dựng nghiệp. Vậy chừng nào có thể khởi sự mưu đại cuộc?
-Thần thiển nghĩ thời cơ đã đến. Nay Ðăng Dung mãn phần. Cháu y là Mạc Phúc Hải lên ngôi tài trí non kém, lại thích xướng ca, ham chọi gà hơn lo việc nước. Quân Mạc vẫn phải dàn quân phòng thủ phía bắc dù đã hàng phục nhà Minh nên phía nam quân mỏng. Tây Ðô do Dương Chấp Nhất trấn giữ. Hắn là kẻ tài hèn sức mọn không phải đối thủ của ta. Thần sẽ hội ý Thái Sư định ngày xuất binh.
Vua hăng hái: Chuyến này, trẫm sẽ ngự giá thân chinh cùng chư tướng đánh giặc.
Quân Lê dụng nghi binh đồng loạt tấn công nhiều nơi. Ðại quân do Trịnh Kiểm chỉ huy bất ngờ bao vây Tây Ðô. Vua Lê đích thân trợ chiến. Quân sĩ hăng hái ngày đêm công thành chẳng quản hiểm nguy mệt nhọc. Thấy thế nguy, Hoằng Vương Mạc Chính Trung bàn với Dương Chấp Nhất:
-Tình hình nguy ngập. Thành sẽ mất nay mai do quyết tâm của quân Lê, ta không thể cố thủ chờ viện binh như ý ông. Chi bằng tương kế tựu kế, ông nên trá hàng. Thà như vậy còn hơn bị quân Lê tàn sát. Phần ta sẽ có cách thoát thân vì Trịnh Kiểm chỉ biết ông, không biết ta hiện ở trong thành. Sau này ông tùy cơ ứng biến, ngầm liên lạc cho ta biết địch tình. Ấy là thượng sách, ông chớ chần chừ hỏng việc.
Chấp Nhất vốn là hoạn quan, hàm ân nhà Mạc do được vua Mạc tín cẩn phong tước Trung Hậu Hầu. Nghe Chính Trung nói thế, Chấp Nhất khóc lạy nói:
-Tôi sống làm tôi nhà Mạc thì chết cũng làm tôi nhà Mạc, thề chẳng hai lòng. Tôn vương là người quyền biến đã dậy tôi xin vâng…
Y kế Chính Trung, ngay sáng hôm sau Chấp Nhất bắc loa xin hàng phục. Quân Lê thấy trên thành kéo cờ trắng mừng rỡ reo hò. CửƯa thành mở rộng, Chấp Nhất đội tang đi đầu cùng các bộ tướng đầu trần chân đất hàng ngũ kéo ra. Thấy kiệu vua phía xa, Chấp Nhất quỳ mọp giữa đường. Ðám bộ tướng vội quỳ theo chủ.
Vua Lê ân cần phủ dụ, lại thấy Chấp Nhất nói năng lễ phép cung kính, vua truyền cho phục chức cũ để tỏ lượng cả. Ðám hàng quân đồng loạt tung hô vạn tuế, xin được chiến đấu dưới cờ đại nghĩa. Vua mừng thuận cho. Vài hôm sau, Thái Sư từ Sầm Châu sang. Vua tổ chức khao quân, tôn phong Thái Sư làm Thái Tể, con trai trưởng Thái Sư là Nguyễn Uông được phong Lãng Quận Công, người con thứ là Nguyễn Hoàng mới mười tám tuổi cũng được phong chức Hạ Khê Hầu. Vua phấn chấn tưởng ngày khôi phục Thăng Long gần kề. Có đêm vua nằm mơ thấy cảnh kinh đô cung vàng điện ngọc dù vua chưa hề được tới. Từ ngày sang Sầm Châu, tuy mang tiếng đế vương nhưng chưa bao giờ vua được hưởng cảnh phú quý vinh hoa, vẫn sống cuộc đời đạm bạc giản dị. Từ đấy, quân Lê tỏa đi chiếm nhiều nơi, từ từ làm chủ hai xứ Thanh Nghệ. Ðịnh mệnh dân tộc bước vào con đường chia cắt, thành hình hai triều đình Lê Mạc hùng cứ hai phương bắc nam ngăn cách bởi rặng Tam Ðiệp.
Qua mấy năm bình định, đầu mùa hạ năm Ất Tỵ 1545, Thái Sư tuổi đã bảy mươi tám vẫn quyết định xua quân bắc tiến. Vua Lê không ngăn nổi ý chí sắt thép của Thái Sư, cũng thân chinh theo quân. Quân Lê vượt núi Tam Ðiệp tiến vào huyện Yên Mô. Tướng tiên phong Dương Chấp Nhất tiến quân chiếm huyện dễ dàng. Chấp Nhất lập bản doanh khẩn khoản mời Thái Sư đến quan sát địch tình.
Bấy giờ trời nắng gắt, Thái Sư lên đài cao quan sát xong bước xuống, lưng áo nhễ nhại mồ hôi vui vẻ hài lòng cách dàn quân của viên tướng tiên phong. Chấp Nhất mời Thái Sư vào quân doanh, lệnh lính bổ dưa mời Thái Sư giải khát.
Thái Sư trở về hành dinh thấy người nôn nao mỏi mệt, bụng quặn đau, muốn ói mửa, vã mồ hôi nhưng cố chịu không rên la, người cứ lịm dần. Quan Thái Y chẩn đoán bị ngộ độc nặng khó qua khỏi. Trịnh Kiểm gọi Nguyễn Hoàng ra ngoài nói nhỏ:“Thầy chắc chắn bị Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc. Từ lâu tôi vẫn ngờ tên này gian dối nhưng thầy cả tin giao quân cho hắn. Cậu dẫn ngàn quân kéo đi bắt giữ hắn ngay. Mọi việc ở đây có tôi liệu.”
Nguyễn Hoàng đi ngay trong đêm. Ðến Yên Mô, quân sĩ cho biết tướng tiên phong đã rời trại từ xế trưa, chưa thấy trở về. Nguyễn Hoàng trở về ngay hành dinh. Thái Sư Nguyễn Kim đã từ trần khoảng nửa đêm. Nguyễn Uông giận dữ nghiến răng trợn mắt, thề bắt bằng được Dương Chấp Nhất chặt đầu moi gan tế phụ thân. Trịnh Kiểm khuyên Uông bình tĩnh, bàn với vua Lê giữ kín tin Thái Sư mất e lòng quân rúng động, tổ chức phòng thủ sợ quân Mạc lợi dụng tấn công. Kiểm bàn với Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng bí mật khẩn đưa thi hài phụ thân về quê nhà, làng Gia Miêu huyện Tống Sơn, chờ đại quân rút về rồi mới phát tang. Uông và Hoàng lên đường ngay. Vài hôm sau, quân Lê rút lui lập phòng tuyến tại núi Tam Ðiệp. Vua Lê và Trịnh Kiểm yên tâm trở về Tống Sơn lo tang lễ.
Vua Lê bàn với Trịnh Kiểm Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng. Ý vua muốn tổ chức tang lễ Thái Sư long trọng theo nghi thức đế vương. Vua nói:
-Ðối với nhà Lê, Thượng Phụ công lao trời biển thế gian khó sánh. Lòng trẫm tôn kính xem người như cha, nay táng người theo nghi thức dành cho bậc đế vương tưởng không có gì quá, mà triều thần trên dưới vui lòng, cũng là dịp cuối trẫm tỏ tấm lòng kính trọng báo đáp.
Nguyễn Uông phân vân chưa có ý kiến gì. Nguyễn Hoàng nói:
-Tạ ơn bệ hạ chiếu cố. Thân phụ thần lúc sinh tiền vốn tính giản dị. Có lần người chỉ cuộc đất trên núi Thiên Tôn nói:“Con nhìn rặng núi kia, mạch núi như chuỗi ngọc nổi đúng mười hai ngọn từ huyện Thạch Thành kéo xuống. Tả hữu núi non bao bọc, lại có suối như rồng lượn đổ xuống Tống Giang. Mai sau thầy mệnh một, các con táng thầy ngay chỗ ấy. Ðây mới đúng huyệt trường, có tiền án hậu trầm, tả long hữu hổ. Tang lễ cần đơn sơ, chớ quá rườm rà tốn phí, nhọc công sức quần thần văn võ bá quan cũng như quân sĩ ”. Nay ta bày vẽ trái ý người, e vong hồn người nơi suối vàng chẳng được bình yên.
Vua muốn phản bác. Trịnh Kiểm nói:
-Thần học lễ nghi, sách dậy mỗi khi hoàng đế băng hà, từ trên xuống dưới, từ quan lại đến quân sĩ, kể cả hàng thứ dân cũng phải thụ tang. Nước chỉ có một vua, nay ta làm vậy là trái phép nước, chẳng khỏi tiếng đời dị nghị. Bệ hạ nên châm chước sao cho hợp lẽ.
Bàn bạc mãi, cuối cùng vua chỉ xin được đội tang, đích thân dâng tên hiệu và tên thụy cho Thái Sư. Mọi người bằng lòng.
Ngày lễ thành phục, con cháu tụ tập trước linh cữu, khăn lượt đổi khăn sô, áo thâm thay áo trắng phủ phục khóc lóc. Vua Lê cũng mặc tang phục, bá quan văn võ không ai bảo ai đồng loạt đội khăn tang, ngay dân huyện Tống Sơn nhiều kẻ cũng mặc tang phục. Toàn huyện một mầu trắng lẫn tiếng than khóc thảm thương. Người ta buộc khăn tang cả trên rặng soan, khóm trúc trước nhà Thái Sư.
Vua Lê phong tặng Thái Sư là Chiêu Huân Tĩnh Công, tôn thụy Trung Hiến. Ðích thân vua đọc lời xưng tụng công đức…” Thượng Phụ khuất núi, lòng trẫm xót xa, bách quan đau buồn, thần dân nhỏ lệ, vật mình than khóc. Công đức Thượng Phụ như biển trời không tả hết bằng lời. Nay trẫm tặng phong tôn thụy, kính mong anh hồn nhận mỹ hiệu. Cầu cho non sông mãi mãi sáng soi nhật nguyệt, muôn đời bền vững.”
Ðám tang đến núi Thiên Tôn lúc quá ngọ. Trời mờ ảm đạm, gió hiu hiu, mây chì vần vũ càng lúc càng thấp… Lễ hạ huyệt vừa xong, trời bỗng sấm chớp, gió giật đùng đùng bụi đất mù mịt. Mọi người kinh hãi chạy băng xuống núi. Mưa bắt đầu nhẹ hạt rồi nặng dần, những giòng nước đổ như thác phũ phàng giăng kín trời, người không nhìn rõ mặt nhau. Bỗng có tiếng nổ ầm ầm vang tự trong núi như động đất, những tảng đá lớn tự đỉnh ào ào lăn xuống xô cây cối bật gốc ngã rạp. Có người thấy ngôi mộ Thái Sư như chẻ hai, trong phút chốc bị hàng ngàn tảng đá lấp kín. Núi Thiên Tôn đổi dáng, từ hình hổ ngồi nay trông như rồng cuộn, rồng như muốn vươn mình bay về phương nam. Con cháu Thái Sư sau này đến viếng mộ phần tổ phụ, chỉ quỳ hướng về núi dâng hương, không biết ngôi mộ thật sự đã táng nơi nào…
Tròn năm sau, dân làng Gia Miêu xì xào bàn tán chuyện anh nông dân nghèo khổ ở cuối thôn bỗng dưng khá giả. Từ một người không có đất cắm dùi bỗng có nhà ba gian, tậu vài sào ruộng lẫn trâu cày. Có người tò mò hỏi, nông dân thực thà kể:“Một hôm vào rừng đẵn củi tôi bỗng gặp khách lạ. Khách cưỡi ngựa trắng, phi chầm chầm quanh ngọn Thiên Tôn như có ý tìm kiếm cái gì.
Hai ngày tôi ở nhà, đến ngày thứ ba vào rừng lại gặp khách. Thấy tôi, khách tần ngần một lúc, tiến về phía tôi hỏi han. Tôi nhận ra khách nói tiếng nước ta không rành rẽ. Sau khi hỏi dăm câu chuyện nắng mưa vớ vẩn, khách vào đề hỏi bấy lâu có ai táng ngôi mộ trên núi. Tôi kể khách nghe ngôi mộ Thái Sư Nguyễn, chuyện giông bão vùi lấp mộ huyệt. Nghe xong mặt khách biến sắc, té nhào xuống ngựa. Thương khách một mình, tôi đỡ khách lên ngựa, buộc cẩn thận đưa về nhà. Nửa đêm khách tỉnh, khóc nói: Ta với ngươi cơ duyên gặp gỡ nên tỏ thật. Ta từ phương bắc xuống, được thần nhân chỉ ngôi đại huyệt tại núi Thiên Tôn, hàm rồng cứ năm trăm năm mới mở một lần. Không ngờ họ Nguyễn tốt phúc được trời dành chỗ. Ta tính sai hẳn một năm đành ôm hận, dứt kiếp ở đây…
Khách nghẹn ngào khóc ngất. Lát sau tiếp: Ta mang theo cái tráp, trong có liễn sành niêm kín, ngươi chớ mở ra. Sau khi ta chết, nhớ chôn ta cùng với liễn ngay chân núi, cách gốc đa phía tây khoảng ba mươi trượng… Ta cúi lạy cảm ơn người trước. Còn tài sản của ta, xin tặng người đền đáp một tấm lòng.
Khách nói xong thở hắt rồi chết. Tôi làm theo ý khách, mở tráp thấy có liễn sành niêm kín, dưới có bản đồ vẽ núi non chi chít. Lần xuống đáy tráp thấy gói giấy bạc. Mở ra đếm được mười lạng vàng ròng…”
Trận giông bão xẩy ra vùi lấp ngôi mộ Thái Sư Nguyễn Kim ngay khi quan tài vừa hạ huyệt vẫn là đề tài nhiều người bàn tán. Kẻ cho ngôi mộ táng đúng hàm rồng, con cháu đại phát. Người luận họ Nguyễn làng Gia Miêu huyện Tống Sơn khó hưng phát do mồ mả xụp mất dấu tích, sau này con cháu phiêu tán khó ở chung dưới một mái nhà. Nghe vậy, gia tộc họ Nguyễn nhiều kẻ âu lo, trong đó có cả con trai trưởng Thái Sư là Nguyễn Uông, nay đóng vai trưởng tộc.
Trịnh Kiểm bàn với vua sớm rời Tống Sơn, đem đại quân về giữ thành Tây Giai, được coi như kinh đô Nam Triều, vua cho thuận lẽ. Triều thần tâu vua gấp cử người làm tiết chế quân lực thay Thái Sư. Ý vua muốn dùng Trịnh Kiểm vì Kiểm tài năng đức độ, nhưng e ngại đám quan lại người Tống Sơn, những người đồng hương với Thái Sư muốn trưởng nam Nguyễn Uông thay chức phụ thân. Họ bảo công cha con phải được hưởng. Triều thần nghị bàn gay go. Quan ngự sử nổi tiếng ngay thẳng tâu vua:
-Bệ hạ và triều thần không quên công ơn Thái Sư, điều này thật đáng trân trọng. Thần thiết nghĩ việc thế tập (cha truyền con nối) cổ kim chỉ dành cho đế vương, nay ta dụng điều đó e không hợp lẽ. Việc trung hưng hệ trọng cần trao cho người tài năng đức độ, có uy có đức, có dũng có nhân, quyết đoán ban lệnh ba quân tin tưởng kính phục không dám làm trái, quân sĩ kỷ luật đánh đâu thắng đó làm địch hoang mang sợ hãi. Xét công trận Trịnh Quận Công ( Trịnh Kiểm) xứng đứng đầu vì người có công thắng ở Lôi Dương, chiếm lĩnh Tây Ðô là nơi trọng yếu, đáng mặt tiết chế ba quân. Xưa Cao Tổ nhà Hán dựng đại nghiệp cũng do biết trọng lương thần, sáng suốt trao ấn nguyên nhung cho Hàn Tín dù ở nước Sở Hàn Tín chỉ là tên cầm kích đứng hầu Hạng Vũ. Hoàn Công nước Tề quên hận xưa dùng kẻ thù của mình là Quản Trọng mà nên nghiệp bá… Gương xưa còn nhiều, bệ hạ minh xét.
Vua và triều thần cho lời quan ngự sử hợp lẽ. Quận Công Trịnh Viên vốn người uyên bác, trọng lễ nghi tâu:
-Thần nghĩ lương thần tận lực phù tá vì cảm bậc đế vương ngoài lo võ bị, trong trau dồi văn đức quý trọng hiền tài. Vậy nên thuở xưa Văn Hầu tự tay bưng rượu mời Ngô Khởi. Nay bệ hạ noi gương xưa, làm lễ đăng đàn bái tướng, trao Trịnh Quận Công ấn nguyên nhung tiết chế ba quân. Làm vậy để tỏ bề thế triều đình, cũng là tạo uy cho thủ lĩnh.
Việc chuẩn bị hàng tháng mới xong. Mùa thu năm ấy, năm Ất Tỵ 1545, vua Lê hạ chiếu phong Trịnh Kiểm làm Ðô tướng tiết chế các dinh quân thủy bộ kiêm Tổng nội ngoại bình chương quốc quân trọng sự Thái Sư Lạng Quốc Công. Trịnh Kiểm được toàn quyền quyết định việc trong ngoài, tùy nghi bổ quan tước, tiền trảm hậu tấu. Giòng họ Nguyễn Kim nhiều kẻ bất bình, cho vua non trẻ thiếu kinh nghiệm giao họ Trịnh quá nhiều quyền bính, không nhớ cái gương Mạc Ðăng Dung soán ngôi nhà Lê.
Bộ lễ tổ chức tấn phong tiết chế rất long trọng. Vua ban Thái Sư Trịnh Kiểm áo mão cân đai cờ xí. Kim sách do viện Hàn Lâm soạn trên giấy kim tiên. Văn võ bá quan tề chỉnh phẩm phục đứng hai bên sân rồng. Trịnh Kiểm đội mũ xung thiên, áo bào tía thắt đai vàng đăng đàn bái tướng. Trống nghiêm ba hồi, vua mặc hoàng bào thắt đai ngọc oai nghiêm được triều thần mời lên ngự tọa. Quan Tuyên Sách quỳ bên tả bàn hương án đọc kim sách:“… Ðược hoàng thiên trao mệnh cả, mới sinh hiền đức khuông phù. Hoàng Thượng mến tài ban tước vị cao. Nay ngày lành tháng tốt, truyền đọc sách vàng biểu dương. Nghĩ Dực Quận Công Trịnh Kiểm tài năng xuất chúng, công đức hàng đầu. Vua giao trách nhiệm đô tướng tiết chế các dinh quân thủy bộ các xứ, kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự. Vua sai Lễ Bộ Thượng Thư mang cờ tiết, sách vàng ấn vàng phong làm nguyên súy, Thái Sư Lạng Quốc Công. Mong đảm đang gánh nặng, toàn vẹn tiếng thơm, nhất mực hiếu trung, cho tròn đạo nghĩa…”
Hậu lễ, triều thần thay phiên chúc tụng Thái Sư Trịnh Kiểm, người người khen ngợi nghi lễ uy nghiêm. Trịnh Kiểm lòng vui mở hội.
Trịnh Kiểm có tài tổ chức, thích chinh chiến. Nhận thấy Tây Ðô là yết hầu nằm chắn trục lộ lưu thông huyết mạch bắc nam, giữ lâu chắc chắn bị tấn công. Trịnh Kiểm quyết định dời hành cung về huyện Thụy Nguyên, bắt đầu tổ chức đánh chiếm bình định phía nam, nắm quyền kiểm soát vùng đất từ Nghệ An vào sâu tới Thuận Hóa, vượt đèo Hải Vân vào tận xứ Quảng Nam. Quân Mạc chống cự yếu ớt vì triều đình nhà Mạc rối loạn sau khi vua Hiến Tôn Mạc Phúc Hải chết, Tuyên Tôn Mạc Phúc Nguyên nối ngôi. Vua thích ăn chơi hát xướng, mải mê chọi gà hơn bàn việc nước. Triều thần có kẻ mưu lập Hoằng Vương Mạc Chính Trung, con trai thứ của Thái Tổ Mạc Ðăng Dung lên ngôi. Triều thần chia làm hai phe kéo quân giao tranh kịch liệt. Chính Trung bị cháu là Khiêm Vương Mạc Kính Ðiển đánh bại,rút quân về vùng Hải Dương, nhân dân Hải Dương bấy lâu sống an bình nay lâm cảnh can qua chết chóc, nhiều người bỏ xứ mà đi. Trịnh Kiểm muốn nhân cơ hội bắc tiến nhưng vua Trang Tôn bỗng lâm bạo bệnh từ trần. Thái Tử Duy Huyên mới mười bốn lên ngôi tức vua Trung Tôn. Vua còn trẻ, trọng Trịnh Kiểm như cha gọi là thượng phụ. Họ Trịnh từ đây nắm giữ toàn bộ quyền bính, vua Lê chỉ còn hư vị.
Mùa thu năm Canh Tuất 1550, trong khi chú cháu họ Mạc còn tiếp tục giao tranh, tại triều đình lại xẩy ra biến loạn mới. Công thần nhà Mạc Thái Tể Phụng Quốc Công Lê Bá Ly bị vu cáo phản nghịch. Bá Ly tức giận bàn với bạn thân Lại Bộ Thương Thư Trạng Nguyên Nguyễn Thuyên cùng gia nhân kéo hàng vạn quân vào Tây Ðô hàng phục nhà Lê (Nguyễn Thuyên là tổ bẩy đời của thi hào Nguyễn Du). Trịnh Kiểm mừng rỡ dẫn các hàng tướng đến cửa khuyết lạy tạ nhà vua. Vua ân cần phủ dụ ghi công ban thưởng. Trịnh Kiểm lại mời Nguyễn Thuyên đến tướng phủ ân cần thăm hỏi chuyện trò:
-Tôi hằng nghe tài văn ông vang truyền khắp nước, đáng mặt trạng nguyên, nay duyên may được gặp thỏa niềm ao ước. Ông lại là bạn đồng liêu với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người này trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, biết việc quá khứ vị lai, giá như Khổng Minh tái thế chắc chưa bì kịp. Nay Trạng Trình còn phù Mạc, ta lấy cách chi đối phó?
Biết ý Trịnh Kiểm nghi hoặc muốn hỏi dò. Nguyễn Thuyên đáp:
-Ða tạ Thái Sư chiếu cố người hàng phục. Sách vẫn dậy chim khôn chọn cây mà đậu, tôi trung chọn chúa mà thờ. Tôi về với triều đình vì lẽ ấy. Còn Trạng Trình với tôi vốn thân tình, ông ấy được vua Mạc trọng dụng phong đến chức Trình Quốc Công, nhưng nay ngài chán sự đời, đã qui ẩn về dạy học tại Bạch Vân Am.
-Ông đoan chắc?
-Tôi tỏ thật, trong đám gia tướng của tôi có hai người học trò Trạng Trình là Phùng Khắc Khoan và Lương Hữu Khánh. Khắc Khoan là em cùng mẹ khác cha với Trạng Trình, Hữu Khánh là con một của Bảng Nhãn Lương Ðắc Bằng, vốn là người thầy truyền sở học Thái Ất Thần Kinh cho Trạng Trình.
Trịnh Kiểm hân hoan:
-Các ông về với triều đình thật do ý trời muốn trung hưng nhà Lê. Công lao sử xanh ngàn đời ghi chép.
Trịnh Kiểm trọng dụng Phùng Khắc Khoan và Lương Hữu Khánh, phong quan chức, cho bàn việc quốc sự, sớm hôm gần gũi.
Ðêm ngày suy nghĩ, Trịnh Kiểm nghĩ ra mưu sâu, quyết tâm bắc phạt.
Một hôm Trịnh Kiểm mời Lê Bá Ly đến tướng phủ bàn bạc. Sau vài tuần trà, Kiểm gợi ý:
-Ông được trời cho tuổi thọ, đôi ba năm nữa đã mừng thượng thọ bát tuần, thế mà quyết bỏ chức tước bổng lộc họ Mạc, đem cả gia nhân về với triều đình thật đại phúc cho xã tắc. Tấn Quận Công, Văn Phái Hầu đều là những tay danh tướng (Tấn Quận Công Lê Khắc Thận, Văn Phái Hầu Nguyễn Quyện là con trưởng và con rể của Bá Ly. Quyện cũng là con trai của Trạng Nguyên Nguyễn Thuyên). Các ông bỏ đi. đất bắc tướng tài phỏng còn được mấy người?
-Ða tạ Thái Sư có tiếng khen. Cha con tôi sức mọn tài hèn. Ðất bắc xưa nay vẫn nhiều danh tài, tiết chế quân Mạc Khiêm Vương Mạc Kính Ðiển là người thao lược, dưới trướng cơ man danh tướng.
Trầm ngâm giây lát, Trịnh Kiểm tiếp:
-Nay tôi quyết định hưng binh bắc phạt vì thời cơ rất lợi. Ông cũng như Tấn Quận Công từng làm tiết chế Sơn Nam, tất thạo đường đi nước bước. Ý tôi muốn dụng ông làm tiên phong dẫn lối đem vạn quân đánh thẳng ra Sơn Nam. Tôi chỉ huy hậu quân tiếp ứng. Xin cho biết ý?
Bá Ly hiểu Trịnh Kiểm lòng còn ngờ vực, muốn xử dụng ngay đám hàng binh đánh lại quân Mạc nên hăng hái nhận lời.
Mùa xuân năm Tân Hợi 1551, quân Lê chia ba cánh do Bá Ly chỉ huy vượt núi Tam Ðiệp tấn công Sơn Nam. Quân Mạc mất tinh thần, lại từng nghe danh Tấn Quận Công và Văn Phái Hầu nên khiếp vía chạy trốn. Sơn Nam thất thủ. Trịnh Kiểm quyết định cho hậu quân phối hợp với tiền quân tiến thẳng ra Thăng Long. Vua Mạc Phúc Nguyên phải dời hành dinh về Hải Dương để Mạc Kính Ðiển ở lại kinh đô kháng cự. Trận chiến ở thế giằng co. Thấy ở lâu không lợi, Trịnh Kiểm hạ lệnh lui binh.
Chiến thắng của quân Lê làm dân xứ bắc hoang mang lo sợ. Mạc Kính Ðiển tìm cách củng cố tinh thần tướng sĩ, ra sức tiễu trừ phiến loạn phía bắc để rảnh tay kéo đại binh tấn công nam triều. Mùa thu năm Ất Mão 1555, Mạc Kính Ðiển chỉ huy hàng vạn quân Mạc mở cuộc tấn công Thanh Hóa. Thủy binh có trên trăm chiến thuyền tập trung ở cửa Thần Phù. Trịnh Kiểm được tin họp chư tướng bàn kế đối phó. Kiểm nói:
-Quân Mạc lần đầu hưng binh đánh ta, lại do đích thân Mạc Kính Ðiển chỉ huy tất quyết chiến thắng củng cố lòng quân. Ta đoán thủy bộ binh Mạc sẽ hội tại khúc sông Ðại Lại tấn công Tây Ðô. Tướng tiên phong địch Quận Thọ là tay hiếu thắng kiêu ngạo. Ta tương kế tựu kế, giả lui binh cho địch khinh thường, dụ địch vào sâu huyện Vĩnh Lộc, dụng phục binh nơi hiểm địa, tận diệt địch trên bộ lẫn trên sông.
Hôm sau, Trịnh Kiểm sai các văn quan yết bảng cáo dụ dân ven vùng sông Mã không được kinh động khi quân Mạc tiến vào. Thực hiện hành quân, Trịnh Kiểm chia cánh quân thứ nhất mai phục quanh vùng rừng núi Quan Yên. Ngọn núi cao hiểm trở bao bọc bởi hai giòng sông hai phía tả hữu. Cánh quân thứ hai do Quận Công Phạm Ðốc, con nuôi Trịnh Kiểm chỉ huy dàn mười chiến thuyền chận phía thượng lưu sông Kim Bôi. Trịnh Kiểm chỉ huy đại quân và năm mươi voi trận mai phục tại núi Kim Sơn, thế núi hiểm trở hùng vĩ nhiều khe động, có khúc sông lởm chởm đá ngầm, nước chảy xiết như tên bay.
Vài ngày sau, thủy bộ binh Mạc hùng hổ tiến vào Kim Sơn như chỗ không người. Kính Ðiển đoán quân Lê co cụm giữ Tây Ðô bỏ trống phía bắc. Xế trưa, Kính Ðiển thấy quân sĩ mỏi mệt, hạ lệnh dừng quân nghỉ ngơi cơm nước. Bỗng nghe tiếng pháo lệnh nổ vang, quân Lê tràn vào trận địa chém giết. Trịnh Kiểm bí mật lập ghềnh chận nước đưa tượng binh sang sông mãnh liệt xung trận đánh tập hậu. Quân Mạc cởi giáp bỏ gươm giáo tìm cách thoát lên bờ bị giết gần hết. Hàng vạn xác chết làm nghẹn giòng sông nhuộm máu. Tướng tiên phong Quận Thọ bị bắt sống. Mạc Kính Ðiển kéo tàn quân thoát chạy…
Mùa xuân năm sau, Trịnh Kiểm muốn tấn công ra bắc nhưng vua Trung Tôn lâm bệnh chết bất ngờ. Vua mới hai mươi hai tuổi, không con nối dõi. Trịnh Kiểm rất đỗi ưu tư, lại nghĩ đến ngôi mộ kết của mẫu thân, con cháu đại phát, quyền nghiêng thiên hạ. Kiểm có ý thừa gió bẻ măng, nương cơ may đoạt ngôi báu. Vốn quý mến tin tưởng Phùng Khắc Khoan là tay uyên bác, Trịnh Kiểm hỏi ý. Khắc Khoan kinh hãi nói thác”… may ra anh tôi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể đoán ý trời”. Tưởng nói cho qua, nào ngờ Trịnh Kiểm làm thật, cho gia nhân ra tận Hải Dương hỏi ý Trạng Trình. Trạng không trả lời, nói bâng quơ với người đầy tớ: “Năm nay đói kém mất mùa, giữ chùa thờ bụt thì được ăn oản”. Nghe gia nhân thuật lại, Trịnh Kiểm hiểu ý cố tìm được con cháu nhà Lê là Duy Bang tại huyện Thụy Nguyên lập làm vua. Duy Bang tuổi ngoài hai mươi, lên ngôi tức vua Anh Tôn.
Lập được tân vương, Trịnh Kiểm tạm hoãn việc binh lo củng cố quyền lực, xét công phong chức. Ðám gia nhân thân tín nhiều kẻ được tưởng thưởng, người con nuôi Trịnh Kiểm, Quận Công Phạm Ðốc nhận chức Binh Bộ Thượng Thư. Phạm Ðốc văn hay võ giỏi, dũng cảm mưu lược, lại biết chiêu hiền đãi sĩ trên dưới trọng nể. Ðám quan lại người Tống Sơn bất mãn cho Kiểm bè phái, muốn đoạt công lao Thái Sư Nguyễn Kim, không gia phong chức vị hai người em vợ Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng. Nghe điều ong tiếng ve, Trịnh Kiểm giận nói với bá quan:“Ta xét công phong thưởng nghiêm minh ngay tình, công thưởng tội phạt, sao lắm kẻ điều này tiếng nọ”. Anh em trong nhà nhen nhúm bất hòa.
Thời gian qua, mọi chuyện tưởng lắng đọng, lại bỗng xẩy ra cái chết bất ngờ bí ẩn của Quận Công Nguyễn Uông. Nguyễn Hoàng căm hận, nghĩ Trịnh Kiểm âm mưu giết anh mình. Phu nhân Ngọc Bảo vợ Trịnh Kiểm cũng ngờ vực nhưng sợ chồng chẳng dám hé răng, chỉ ngầm khuyên Nguyễn Hoàng bình tĩnh.
Vốn bản lĩnh mưu lược, Nguyễn Hoàng thừa hiểu không thể chống lại thế lực anh rể, Hoàng lặng lẽ nghĩ suy, im lặng là vàng, phát ngôn thiếu cẩn trọng khó toàn tính mạng. Từ ngày ấy, Nguyễn Hoàng dụng kế giả ngây qua ải, có lúc như người thất thần, thường rong chơi thơ thẩn, lại chăm lên chùa niệm phật. Hoàng nói với chị xin Trịnh Kiểm cho nghỉ việc binh tu dưỡng tinh thần. Trịnh Kiểm thuận cho.
Tháng bảy năm Ðinh Tỵ 1557, Mạc Kính Ðiển điều quân tấn công vùng bắc Thanh Hóa. Cánh quân thứ hai do Quốc Công Phạm Quỳnh chỉ huy theo đường thủy đánh Nghệ An. Trịnh Kiểm lệnh quân Lê chống cự quyết liệt. Ðích thân cùng Phạm Ðốc dẫn đại binh bất ngờ đánh tập hậu địch quân tại huyện Yên Mô. Mạc Kính Ðiển may mắn thoát chết. Thắng trận, Phạm Ðốc kéo chiến thuyền gấp rút về cứu Nghệ An. Ðốc dùng chiến thuyền cướp được của quân Mạc, treo cờ xí, cho quân mặc quân phục Mạc giả làm quân đến tiếp ứng. Phạm Quỳnh bị lừa, thủy binh tan vỡ chỉ còn vài chiếc căng buồm thoát chạy.
Thắng liên tiếp mấy trận lớn, Trịnh Kiểm lạc quan nói:“Ta xem Kính Ðiển dụng binh chưa lấy chi là tài, nay nhân lúc quân Mạc mới thua còn kinh hồn vỡ mật, ta cử đại quân bắc phạt không cho chúng có thời gian phòng bị”.
Cuối thu, trên năm vạn quân Lê gấp rút hành quân. Thủy bộ binh Lê tiến vào địa phận Sơn Nam hội quân trên sông Giao Thủy. Ðêm xuống, quân Mạc bất ngờ la ó vang trời tấn công toán tiên phong. Quân Lê tưởng chủ tướng bị hại, hàng ngũ rối loạn. Trịnh Kiểm núng thế rút quân. Hàng vạn quân Lê bị bắt hoặc bị giết, chiến tướng thiệt vài mươi người.
Lần đầu tiên thảm bại, tinh thần quân Lê nao núng. Trịnh Kiểm nổi giận nung chí phục hận, lệnh chư tướng chỉnh đốn đội ngũ, buộc quân rèn luyện kham khổ ngày đêm, nhiều kẻ bất mãn vẫn ngậm tăm, kẻ hé răng tức khắc bị trừng phạt. Nguyễn Hoàng sợ họa lây do thấy tính tình người anh rể nhiều lúc bất thường. Có người khuyên Nguyễn Hoàng nên hỏi ý Trạng Trình. Hoàng cho diệu kế, nhờ người thân gấp rút ra bắc.
Hơn tháng sau người thân trở về kể:“Tôi đến gặp Trạng, dâng phẩm vật ngài chẳng nhận, hỏi ý ngài lặng thinh. Hai hôm sau ngài đứng cạnh hòn non bộ, gọi tôi bảo nên về nam ngay vì ngài sẽ vắng nhà khá lâu. Tôi chần chờ chưa dám mở lời. Ngài chỉ đàn kiến đang bò trên non bộ thủng thỉnh nói- Hoành Sơn nhất đái. Vạn đại dung thân. Nói xong ngài quày quả bước đi. Chuyện chỉ chừng ấy”.
Nghe xong, Nguyễn Hoàng cả mừng hiểu được ý Trạng Trình. Ước vọng vượt Hoành Sơn tìm vào phương nam dung thân nung nấu đêm ngày.
Những ngày cuối đông ảm đạm, trời thường mưa, mưa mờ hạt bụi với những cơn gió bấc mang giá rét từ rừng núi thâm u tràn về. Ðã nhiều ngày mặt trời xa vắng. Chiều cuối năm, trời vàng, thứ nắng nhạt buổi tàn đông chưa đủ xua tan giá lạnh. Nguyễn Hoàng ngồi lặng yên bên vò rượu đăm chiêu nhìn dăm cánh én thấp cao bay lượn. Trước hiên, hàng liễu xõa tóc, dáng liễu thướt tha bên cụm mai vàng xòe tay rực rỡ.
Chiều mồng một tết Mậu Ngọ 1558, Nguyễn Hoàng đến mừng tuổi anh rể. Anh em vui vẻ yến tiệc. Nguyễn Hoàng trò chuyện cởi mở, như cố xóa ngờ vực trong lòng người anh, gây tình thân gia tộc. Phu nhân Ngọc Bảo vui mừng thấy anh em hòa thuận. Trịnh Kiểm nói:
-Mừng thấy cậu hồng hào tươi tắn hơn xưa.
-Ấy cũng nhờ anh cho đệ thời gian tĩnh dưỡng nên nay vui tươi tráng kiện. Ðệ nghĩ có ngày anh lại hưng binh phạt Mạc, thế nào cũng cho đệ theo quân góp chút công lao. Bấy lâu xa chiến địa, rời yên cương gươm giáo cảm thấy nao lòng. Nghĩ trời sinh có mệnh làm tướng, không thể một ngày giã từ vũ khí.
Trịnh Kiểm cả cười:
-Cậu muốn cầm quân ra trận nào có chi khó. Ra giêng tôi giao cậu ngàn quân, cố luyện tập chờ ngày bắc phạt lập công.
Tháng sau, Trịnh Kiểm chỉ huy đại binh bất ngờ tiến sâu vào nội địa Sơn Nam. Quân Lê thắng lớn, bắt sống tướng trấn thủ, cướp được nhiều vũ khí lúa gạo rồi rút về. Nguyễn Hoàng được phong Ðoan Quận Công.
Cuối thu, tình hình Thuận Hóa không yên, ngoài khơi bọn cướp biển hoành hành, nhiều nơi có giặc giã, lại nghe tin đồn Mạc Kính Ðiển chuẩn bị đem thủy binh vào hòng chiếm lại Thuận Hóa và Quảng Nam. Trịnh Kiểm lo ngại muốn tăng quân chống giữ nhưng trù trừ chưa quyết. Cho đây là cơ hội tốt thực hiện giấc mơ vào phương nam dung thân theo ý Trạng Trình, Nguyễn Hoàng nhờ chị xin với anh rể cho mình vào trấn phương nam. Trịnh Kiểm ý không thuận. Ngọc Bảo cố van nài, Kiểm nể vợ gọi Nguyễn Hoàng đến hỏi:
-Cậu muốn vào Thuận Hóa tôi nào dám cản. Nhưng chiến tướng còn nhiều, thiếu chi người lo trọng trách, hà cớ cậu phải lìa anh em dấn thân vào chốn ác địa? Ý tôi muốn có người vào trước ổn định tình hình, xong xuôi cậu vào cũng chẳng muộn.
Nguyễn Hoàng đã có chủ trương, ôn tồn chậm rãi:
-Anh một lòng vì nước chẳng quản hiểm nguy, dũng cảm xông pha nơi hòn tên mũi đạn, đệ chẳng muốn tọa hưởng nên tình nguyện vào đất hiểm, cùng anh chia sớt hiểm nghèo, xứng với chữ huynh đệ thủ túc. Còn đợi người dọn cỗ sẵn đệ thấy tủi hổ, chẳng xứng danh con nhà tướng, tiếng đời dị nghị lấy chi rửa sạch.
-Hảo ý. Thuận Hóa hình thế núi rừng sông suối chằng chịt hung hiểm, cậu dũng trí mưu lược ắt đã dọ được tình hình?
-Ðệ từng thăm qua đất ấy. Thuận Hóa kể từ nam Hải Vân Sơn kéo ra phía bắc, đất rộng người thưa, vùng rừng núi còn cả người Chiêm, người Lào. Vì là đất cũ của Chiêm Thành nên người Chiêm nhớ hận cũ thường quấy phá. Phần người Việt tính phản trắc, có khi vượt biển trốn theo họ Mạc, hoặc tụ tập quấy phá quân ta nên tình thế rối ren, chưa kể cướp biển hoành hành ngoài khơi, dân hoang mang sợ hãi. Trấn thủ Quảng Nam Nguyễn Quận Công trách nhiệm cả Thuận Hóa không lo tròn chức trách vì đất rộng quân ít, Thuận Hóa gần như bỏ trống. Ý đệ muốn vào trấn Thuận Hóa, ổn định tình thế, biến đất ấy thành kho tiền của, cùng với Trấn Thủ Quảng Nam làm thế ỷ dốc, giữ vững phía nam để ta rảnh tay lo mặt bắc.
Trịnh Kiểm nghe có lý, lại nghĩ cho dù Nguyễn Hoàng có ý khác cũng không đáng ngại vì trấn phương xa. Trịnh Kiểm nói:
-Cậu nói thuận tai. Tôi sẽ dâng biểu tâu vua cử cậu trấn thủ Thuận Hóa, giao cậu toàn quyền định đoạt công việc, chỉ hàng năm nộp đủ cống lễ và thuế cho triều đình.
Ðược chấp thuận, Nguyễn Hoàng cởi mở tấm lòng. Sợ anh rể đổi ý, Hoàng gấp rút dẫn một ngàn quân cùng đám thủ hạ thân tín người huyện Tống Sơn lên đường vào Thuận Hóa dù đang mùa đông giá rét. Ðoàn quân đổ bộ Cửa Việt, lập hành dinh tại xã Ái Tử, thuộc huyện Ðăng Xương.
Vốn khôn ngoan bản lĩnh, lại được sự trợ giúp đắc lực của các tay mưu sĩ như Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phúc Trị, Mạc Cảnh Huống… cùng đám thủ hạ thân tín hết lòng vì chủ. Nguyễn Hoàng tổ chức an dân, phát triền nghề nông vì đất bỏ hoang quá nhiều, giảm sưu thuế tạo cho dân đời sống sung túc. Võ bị cũng phát triển, Nguyễn Hoàng tăng lương cho lính khuyến khích tòng quân, ra sức thu dụng hào kiệt. Thuận Hóa mấy năm liền được mùa, nhân dân sống sung túc, quân sĩ thường xuyên luyện tập nên thiện chiến. Bọn giặc cướp không còn nhiều cơ hội bách hại lương dân. Ðám dân phiêu bạt nghèo khổ vùng Thanh Nghệ nghe tin phương nam nắng ấm hiền hòa, đồng xanh lúa tốt. Họ như loài bồ câu tìm nơi có thóc, mạnh dạn bỏ quê hương lên đường vào nam. Thuận Hóa dư đất thiếu người, sẵn sàng mở rộng vòng tay đón người mạt vận. Dân thủy chung cảm mến đức độ trấn thủ mang lại cơm no áo ấm.
Thời gian thoi đưa. Mười năm sau, mùa thu năm Kỷ Tị 1569, Nguyễn Hoàng nhận lệnh Trịnh Kiểm ra Thanh Hóa chầu vua. Vua Lê ân cần phủ dụ, Thái Sư Trịnh Kiểm mở tiệc mừng hội ngộ. Anh em gặp gỡ vui vầy xum họp. Trịnh Kiểm hỏi:
-Cậu vào Thuận Hóa thoắt đã mười năm, mới hay thời gian qua mau, đời người chóng hết. Thấy cậu trở về yên ổn, lòng tôi vui mừng cậu ổn định được phương nam, đáng mặt lương tướng.
Nguyễn Hoàng từ tốn:
-Ðệ làm được vậy trước nhờ uy đức hoàng thượng, sau là nhờ anh dầy công hãn mã liên tục đánh phá phía bắc khiến nghịch Mạc không rảnh tay nhòm ngó phương nam. Nhưng đệ luôn cẩn mật canh phòng vì đoán chắc Mạc Kính Ðiển vẫn muốn chiếm lại Thuận Hóa, đưa ta vào thế lưỡng đầu thụ địch.
-Cậu nghĩ phải. Ðạo làm tướng phải tiên liệu cẩn trọng. Nên tri bỉ tri kỷ, tự cao tự đại là tự hại thân mình.
Anh em hàn huyên tâm sự đến khuya mới tàn tiệc. Nguyễn Hoàng yên tâm thấy anh rể thân thiện. Hoàng đoán già Trịnh Kiểm sức lực suy tàn chẳng còn sống bao lâu. Trịnh Kiểm năm ấy tuổi ngót bảy mươi, mái tóc sương tuyết, cầm cốc rượu run tay, nhiều khi lên cơn mệt ngồi thở dốc… Người già thích tâm sự, kể chuyện dĩ vãng anh hùng. Trịnh Kiểm một đời chiến trận ghi bao chiến tích thường nhắc chuyện xưa. Nguyễn Hoàng có chủ tâm luôn kiên nhẫn vui vẻ lắng nghe, muốn nhân cơ hội xin Trịnh Kiểm cho trấn thủ luôn Quảng Nam, tìm cách mở rộng bờ cõi dần về phương nam vì nhận ra thế suy yếu của Chiêm Thành. Hoàng luôn tin tưởng lời khuyên của Trạng Trình:“Hoành Sơn nhất đái. Vạn đại dung thân”. Ðất phương nam càng vào sâu càng mầu mỡ hiền hòa sẽ là nơi con cháu họ Nguyễn muôn đời làm chủ. Trịnh Kiểm kể lể:
-Cậu vào Thuận Hóa năm ngọ, mùa thu năm sau mưa dầm hàng tháng, cả vùng Thanh Nghệ ngập lụt, nhiều nơi vỡ đê làm thiệt hại bao sinh mạng nhà cửa. Nhân dân lâm nạn đói, nhiều kẻ bỏ xứ phiêu bạt về nam. Năm ấy đất bắc lại được mùa lớn. Tôi đánh liều dành thóc gạo phát chẩn, thống suất đại binh trên sáu vạn quân nhưng phao lên thành mười hai vạn tiến đánh ra bắc, đánh nơi nào lấy ngay lương thực ở đấy nuôi quân. Quân ta tiến theo thượng lộ chiếm Sơn Tây, đánh tràn lên phía bắc chiếm các vùng Tuyên Quang Hưng Hóa, thu cơ man thóc lúa vùng Kinh Bắc rồi rút quân về.
Trịnh Kiểm cười vang, uống cạn liền mấy cốc rượu nói tiếp:
-Suốt năm sau, năm thân, tôi chinh chiến không ngừng, chủ tâm chiếm Thăng Long nhưng không đánh nổi. Mạc Kính Ðiển dàn quân trên sông Hồng, mấy mươi dặm thuyền bè san sát, doanh trại kề nhau, ngày phất cờ gióng trống, đêm đốt lửa. Thấy khí thế địch mạnh, tôi lùi về giữ Kinh Bắc. Kính Ðiển nào phải tay vừa, một mặt giữ chặt quân ta ở đấy, đích thân hắn đem quân tấn công Thanh Hóa, chiếm các trọng điểm. Các tướng ta như bọn Quận Thước, Quận Khanh không phải là đối thủ của Kính Ðiển. Vua và quần thần phải bỏ chạy vào rừng núi lánh nạn. Tôi nhận tin gấp rút về cứu nguy lại bị phục binh tên bắn như mưa trăm phần nguy khốn, tưởng đã vùi thây chiến địa…
-Anh trung quân ái quốc quỷ thần trọng nể, tên đạn tránh không dám phạm đến người.
-Quả có thế. Tôi xông pha trăm trận, có khi cả năm ngoài trận mạc. Cái nghiệp của tôi là vậy, chỉ quen giáo mác cung tên, một ngày xa yên cương thấy bần thần. Quân Mạc sau này cứ nghe tên tôi là vỡ mật kinh hoàng. Hồi năm mão (1567) quân Mạc vào Thanh quấy phá, chư tướng đánh mãi chẳng lui. Tôi giận, đang đau ốm phải ngồi kiệu xung trận đánh chúng chạy tan tác. Năm sau, tôi cũng đang ốm nhưng quyết đánh Sơn Nam cướp kho lương thực, lại thêm một lần ngồi kiệu chỉ huy.
-Làm tướng như anh dù Mã Viện thuở xưa cũng không dám bì. Nhưng đệ nghĩ anh nay trọng tuổi, cũng nên nghỉ ngơi hưởng an nhàn. Ta chọn người tài giao quyền tiết chế ba quân.
Trịnh Kiểm nghiêm trang:
-Cần chi phải chọn. Tôi mất đã có Cối nối chức cha, mất Cối còn Tùng.
Nghe xong, Nguyễn Hoàng hiểu Trịnh Kiểm bất chấp dư luận, quyết định thế tập. Hoàng nhanh nhẩu tiếp:
-Anh quyết định sáng suốt, cha làm con hưởng đâu để đến người ngoài. Ðệ muốn nói thêm về tình thế Quảng Nam. Xứ này đất rộng người thưa, lại là biên giới nên thường bị người Chiêm quấy phá. Nguyễn Quận Công (Nguyễn Bá Quýnh) tuổi cao sức yếu khó tròn chức trách, bao phen đệ phải cứu nguy. Chi bằng anh giao cho đệ cai quản luôn hai xứ Thuận Quảng, dùng thân tộc trấn nơi yếu địa, mai sau các cháu thay anh sẽ vững tâm đỡ lo phía nam.
Trịnh Kiểm lặng yên. Nguyễn Hoàng hồi hợp. Lát sau Kiểm nói:“ Sẽ cố lo mọi việc ổn thỏa”.
Trịnh Kiểm có hai con trai lớn nhiều phen theo cha xông pha trận mạc. Tuấn Ðức Hầu Trịnh Cối và Phúc Lương Hầu Trịnh Tùng. Trịnh Cối bạo ngược kiêu căng, ăn tiêu xa xỉ, chư tướng nhiều người bất phục. Trịnh Tùng vai em nhưng chững chạc, có bản lĩnh chỉ huy. Nguyễn Hoàng nhận ra mối chia rẽ giữa đám triều thần. Kẻ cho việc chọn Trịnh Cối hợp lẽ vì Cối là con trưởng. Bỏ trưởng lập thứ là tạo mối họa từ trong nhà. Chọn Cối nối nghiệp cha, Thái Sư Trịnh Kiểm chắc đã đắn đo. Kẻ khác bảo Thái Sư nào phải hoàng đế mà có quyền thế tập, quyền tiết chế binh quyền cốt chọn người tài. Nguyễn Hoàng đoán sau này Cối nắm quyền, anh em họ Trịnh khó giữ được hòa khí.
Một đêm đông lạnh, mưa buồn nhỏ giọt tí tách. Khoảng nửa đêm, dân Tây Ðô chừng ngủ yên bỗng nghe từ phía tây có tiếng động ầm ầm như sấm vang, nhà cửa rung chuyển. Nhiều người bị đánh thức, hé cửa nhìn trời. Giữa màn đêm đen xuất hiện khối lửa đỏ như mâm đồng, khối lửa bỗng bị xé thành ngàn tia tỏa sáng trời rồi sa xuống như pháo bông, mọi người kinh hãi nghe nhiều tiếng nổ lớn. Có người bảo thần linh phẫn nộ. Rồi mưa, mưa ào ào thác lũ. Xế trưa hôm sau trời tạnh, người ta nói ngọn núi phía tây hoàn toàn sụp đổ vùi lấp mấy ngôi nhà dưới chân núi. Nguyễn Hoàng lo lắng hỏi Thị Lang Phùng Khắc Khoan, em cùng mẹ khác cha với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khắc Khoan là người điềm đạm, thông minh uyên bác. Khắc Khoan buồn bã trả lời:“Ấy là điềm quốc gia mất tay lương đống”. Hoàng đoán chắc điềm ứng vào Trịnh Kiểm, người anh rể sẽ vong mệnh một ngày không xa.
Vài hôm sau Trịnh Kiểm ngã bệnh, lúc mê lúc tỉnh, người lúc nóng như than, lúc lạnh run đắp mấy chăn bông vẫn kêu rét. Nguyễn Hoàng vội đến thăm, nhìn Kiểm môi thâm khô, mắt sâu thẳm mỏi mệt, Hoàng khóc, sớm tối cùng phu nhân Ngọc Bảo cận kề săn sóc bên giường bệnh. Có lúc Trịnh Kiểm tỉnh đòi uống nước, Nguyễn Hoàng đỡ anh dậy, nhân cơ hội nói:
-Ðệ thấy sức anh kiệt nhiều, dù có hồi phục cũng nên từ giã gươm đao. Anh nên tâu vua giao quyền tiết chế cho Cối, giúp Cối có thời gian chỉnh đốn việc binh.
Trịnh Kiểm mắt lờ đờ mỏi mệt, lặng thinh giây lâu rồi khẽ gật đầu. Phu nhân nhắc việc Nguyễn Hoàng muốn cai quản luôn đất Quảng Nam, xin chồng vì công lao của thân phụ (Thái Sư Nguyễn Kim) mà chấp thuận. Trịnh Kiểm thều thào:“Phu nhân muốn vậy ta cũng chiều lòng. Giữ được người ở, ai giữ nổi người đi”. Nguyễn Hoàng bái tạ, thề trước sau một tiết, dốc tâm sức phù tá vua Lê. Vài ngày sau nghe tin đồn quân Mạc dụng thủy binh đang kéo vào Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng tạ từ anh rể, đeo ấn trấn thủ lên đường giong ruổi phương nam.
Xa Thuận Hóa hàng năm, nay trở lại thấy mọi việc quy củ. Nguyễn Hoàng mừng rỡ nghỉ ngơi vài ngày lại lên đường vào Quảng Nam tiếp nhận binh quyền. Quảng Nam đang rối loạn vì một số thổ quan nổi lên đánh phá nhiều nơi. Nguyễn Hoàng không thể trở lại Thuận Hóa, phải ở lại ổn định tình hình. Tin tức xấu từ Thanh Hóa liên tiếp nhận được. Mùa xuân tháng hai năm Canh Ngọ 1570, Thái Sư Trịnh Kiểm từ trần. Quả đúng như Nguyễn Hoàng tiên đoán, anh em Trịnh Cối Trịnh Tùng xung đột tranh đoạt quyền bính. Lợi dụng cơ hội, Mạc Kính Ðiển đem mười vạn quân tấn công Thanh Hóa, em ruột Kính Ðiển Khiêm Vương Mạc Ðôn Nhượng chỉ huy trên năm trăm chiến thuyền tập trung ở cửa Thần Phù. Trịnh Cối chống không nổi đã đầu hàng. Tại vùng nam Quảng Nam, Quận Công Lập Bạo làm phản đem hàng trăm chiến thuyền căng buồm chạy ra phía bắc. Nguyễn Hoàng lo sợ giao quyền bính cho Dũng Quận Công trấn thủ Quảng Nam, còn mình theo đường thủy về phòng thủ Ái Tử.
Mùa thu năm Tân Mùi 1571, Mạc Kính Ðiển đổi chiến thuật kéo đại binh vào đánh Nghệ An. Quân Mạc thắng to, chiếm lại các huyện từ sông Lam ra bắc. Trịnh Tùng nay nắm quyền tiết chế vất vả phản công đẩy lui quân Mạc. Năm sau, Kính Ðiển chia hai cánh quân cùng lúc tấn công Thanh Nghệ, lại sai hàng tướng Quận Công Lập Bạo đem sáu mươi chiến thuyền vào cửa Việt nhằm tấn công hành dinh của Nguyễn Hoàng tại Ái Tử.
Tin quân Mạc vào cửa Việt làm dân hoang mang lo sợ. Nguyễn Hoàng tập họp chư tướng bàn kế chống giặc. Có kẻ đề nghị nên dụ quân Mạc tiến sâu vào nội địa, dụng phục binh tiêu diệt. Nguyễn Hoàng cho là phải vì quân Mạc giỏi thủy chiến. Hôm sau, Nguyễn Hoàng và đám tùy tướng đi dọc sông Ái Tử, chọn địa điểm dụ quân Mạc đổ quân lên bộ. Ðến một bãi cát rộng, sâu bên trong là vùng lau lách um tùm có thể dùng làm chỗ ém quân mai phục. Dân vùng này gọi là bãi Trảo Trảo. Nguyễn Hoàng nghe lạ tai hỏi, dân trả lời:“Nghe đồn thuở trước bến sông có chỗ nước xoáy hiểm nghèo thường dìm chết người. Dân sợ hãi bốn mùa cúng vái thủy thần nhưng thần chẳng đoái hoài, nhiều người tiếp tục bị nạn. Một đêm trăng sáng, có cụ già thức khuya nhìn ra bến sông, thấy có bà áo xanh xinh đẹp bay đến từ phương nam phóng luồng sáng như thanh kiếm xuống giòng sông. Mặt sông đang lặng bỗng nổi sóng, phát ra những tiếng kêu trảo trảo lạ kỳ. Sáng ra, mọi người kinh ngạc thấy trên bến sông cơ man xác chết các loài thủy quái. Tự đấy giòng sông trở nên hiền hòa, dân nhớ ơn lập đền thờ thần nữ. Lấy hai chữ Trảo Trảo đặt tên bến sông.”
Ðêm hôm ấy, Nguyễn Hoàng trằn trọc nghĩ kế diệt giặc. Hoàng đã từng gặp Lập Bạo, y khét danh hổ tướng hồi còn trấn thủ vùng nam Quảng Nam. Muốn đánh bại y phải chấp nhận tổn thất. Làm sao nghĩ kế vẹn toàn? Những ngọn nến tàn dần. Tiếng trống điểm canh ba đã lâu, bên ngoài đêm đen bao phủ, cơn gió lạnh buổi đầu đông rì rào với tiếng dế than buồn se sắt. Trên khuôn mặt dầy dạn phong sương thoáng nở một nụ cười, nụ cười kín đáo nhưng tươi tắn. Có lẽ trấn thủ Thuận Quảng đã nghĩ được diệu kế… Nguyễn Hoàng rời án thư bước vào buồng sau, nàng hầu khôn ngoan xinh đẹp Ngọc Lâm chìm sâu trong giấc ngủ, ánh nến chập chờn tăng vẻ kiều diễm hiếm có trên đời. Thứ nhan sắc nghiêng thành đổ nước, từng xiêu lòng bao trang nam nhi tuấn kiệt. Hoàng ngồi bên giường nắm bàn tay ấm mềm mại dấu dưới lớp chăn bông, thầm cảm ơn trời được làm chủ tấm thân ngà ngọc…
Mờ sáng, Nguyễn Hoàng thức giấc. Lệ thường, Ngọc Lâm cũng rời giường pha trà. Ngồi trước tách trà thơm bốc khói nhẹ như màn sương mỏng, Hoàng tự tay rót trà vào tách thứ hai, kéo ghế đặt đối diện lên tiếng gọi Ngọc Lâm, ra dấu nàng ngồi đối ẩm. Ngọc Lâm khẽ nói:“Tướng công cho phép”, khép nép ngồi xuống. Lâm ngạc nhiên trước sự thân mật khác lạ vì thường lệ Nguyễn Hoàng chỉ độc ẩm. Nàng đoán có lẽ cuộc ân ái nồng nàn đêm qua làm chủ tướng ấm lòng, tỉnh táo sau mấy ngày nhọc tâm suy nghĩ chuyện đại sự quốc gia. Nguyễn Hoàng mở lời:
-Ta cùng nàng gá nghĩa thoắt đã hơn năm mà chung sống nào được mấy chốc. Ấy vì Thuận Quảng loạn lạc, tình thế chẳng yên buộc ta miệt mài thanh gươm yên ngựa, lòng chỉ mong được thuở thái bình, sớm hôm gần gũi để nàng khỏi phí hoài xuân sắc.
-Em được hầu hạ tướng công đã là toại nguyện danh giá, phận nữ nhi vẫn nằm lòng câu tứ đức tam tòng, cho dù trắc trở nào dám oán than. Hiềm phận nữ nội trợ hàng đầu, chẳng cùng tướng công chia sẻ ngọt bùi, lòng áy náy ra vào chẳng yên.
-Nàng nói ngọt ngào khôn ngoan, đủ bề công dung ngôn hạnh. Chuyện nước non cha ông từng dậy:Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách. Lại có câu: Giặc đến nhà đàn bà phải đánh.
Ngừng một lát, Nguyễn Hoàng tiếp:
-Xưa Tây Thi là phận gái, dùng sắc đẹp trời cho dựng lại cơ đồ nước Việt. Gương xưa rạng ngời trang sử, ngàn năm hậu thế noi gương.
Ngọc Lâm cúi đầu, vân vê tà áo:
-Em thẹn mình sức mọn tài hèn, sao dám sánh với nàng Tây Thi thuở trước. Em hàm ân tướng công, thề kết cỏ ngậm vành. Tướng công muốn em vào chốn dầu sôi lửa bỏng, lòng này quyết chẳng từ nan.
Nguyễn Hoàng nhìn Ngọc Lâm nhân ái, thầm khen nàng son sắt thủy chung:
-Bội phục nàng chí khí nên ta mới tỏ bày. Ðêm qua trong giấc ngủ chập chờn, ta mơ thấy bị quân Mạc vây khốn trên bến sông. Thấy ta, Lập Bạo múa song kiếm xông tới quyết hạ thủ. Trong lúc nguy khốn, bỗng thấy thần nữ áo xanh từ trên cao xòe đôi tay tỏa hào quang chiếu thẳng vào mặt tướng Mạc. Khi luồng sáng biến mất, đầu Lập Bạo đã lìa khỏi cổ… Quân Mạc như rắn mất đầu vỡ chạy. Ta vừa quỳ lạy tạ đã thấy bóng áo xanh biến mất, tai còn nghe thoảng giọng nói như chuông ngân vọng từ phương nam:“ Hãy nhớ nữ sắc mạnh hơn giáo gươm”. Ta giật mình tỉnh giấc, đoan chắc thần nhân khiến ta xử dụng kế mỹ nhân vì Lập Bạo vốn tay háo sắc. Suy tính trước sau, ta nghĩ chỉ có nàng mới làm nên đại sự.
Ngọc Lâm ngạc nhiên:
-Em phận gái tài hèn, nhan sắc thua chị kém em. Xin tướng công thêm lời dạy bảo.
Biết Ngọc Lâm ưng thuận, Nguyễn Hoàng tiếp:
-Ta nghĩ ra diệu kế, phải làm ngay để lâu hỏng việc. Ngay ngày nay, nàng cùng vài gia tướng sẽ đến dinh Lập Bạo trao thư của ta xin cầu hòa, lại mong mỏi cùng y kết nghĩa đệ huynh, dâng đất Thuận Quảng cho quân Mạc để xin hàng phục. Nàng uốn ba tấc lưỡi dụ hắn đến đền thờ thần nữ trên bến sông để cùng ước thệ. Việc của nàng chỉ đến đấy. Ta tin y không thể cưỡng lại lời nói dịu ngọt và nhan sắc của nàng. Việc thành khẩn cấp báo ta hay.
-Em hiểu ý tướng công, nhưng Lập Bạo dễ gì mắc bẫy.
-Ta đã liệu mọi bề. Trong thư ta nói nàng là em ta, bấy lâu mộ danh y, lòng những mong thuyền quyên anh hùng gặp gỡ. Muốn y tin mình, mình phải tỏ lòng thành.
Nguyễn Hoàng lặng thinh, vẻ như đau xót. Ngọc Lâm nôn nóng:
-Xin tướng công tỏ hết ý.
-Việc đòi nàng hy sinh, xả thân bồ liễu. Nàng phải giả vui thuận tư thông với y…
Ngọc Lâm chưa nghe hết câu bỗng òa khóc, xót xa phận gái nay thành món hàng trao đổi cho người. Nguyễn Hoàng ôn tồn:
-Xưa đức Thái Tổ (Lê Lợi) vì đại nghĩa đành gạt nước mắt nhìn vợ con chết dưới gươm giặc. Nay nàng vì sinh mệnh hàng ngàn quân dân chấp nhận xả thân, lòng ta xót xa nhưng nào dám phụ lời thần nhân mách bảo.
Ngọc Lâm ngừng khóc. Thôi đành nhắm mắt mặc cho số phận đẩy đưa, đâu đủ can đảm cưỡng lại lệnh chủ tướng. Ðầu giờ thìn, mặt trời lên cao. Ngọc Lâm gạt nước mắt bước lên kiệu cùng năm gia tướng lên đường thẳng ra Cửa Việt.
Quận Công Lập Bạo đang ngồi trong trướng uống rượu bỗng thấy quân hầu vào bẩm có sứ giả của Nguyễn Hoàng đến xin bái yết. Quân hầu nói sứ bộ chỉ năm người, không mang vũ khí. Quận Lập đeo song kiếm, hai bên có võ sĩ hộ tống bước ra phủ đường. Quận Lập quá đỗi ngạc nhiên, hồn xiêu phách lạc thấy trong đám sứ bộ có thiếu nữ đôi mươi nhan sắc cực kỳ diễm lệ. Quận Lập ra uy vỗ án hét lớn:
-Nguyễn Hoàng mang danh làm tướng chẳng biết lễ nghi, dám sai phái đàn bà con gái đến chốn công đường là ý đồ chi? Muốn dụng mỹ nhân kế lung lạc ta ư?
Ngọc Lâm nhìn Quận Lập đáng to béo, mắt ti hí, tướng bạch diện vô tu đúng phường háo sắc. Nàng không chút e ngại, giọng oanh thỏ thẻ:
-Tiện nữ vâng mệnh Nguyễn huynh mạo muội tới chốn công đường chẳng phải lo việc quốc sự, mà trước vì mến mộ uy vũ tướng quân lừng lẫy, mong có phen diện kiến bậc cái thế anh hùng, sau là tỏ tình giao hảo giữa hai nhà.
Ngọc Lâm nói xong bày trăm nén vàng cùng phong thư của Nguyễn Hoàng, cung kính đặt trước án. Thấy lễ vật sang cả, nhiều vàng bạc, Quận Lập vui vẻ giả lả:“Võ tướng thường nóng nảy, nàng miễn chấp”. Thư Nguyễn Hoàng lời lẽ nhún nhường:“… Ðệ từ lâu ngưỡng mộ uy vũ tôn huynh, nay cơ trời xui gặp quyết không bỏ lỡ. Anh em họ Trịnh xung đột, cốt nhục tương tàn, điềm bại vong thấy rõ. Tôn huynh về với nhà Mạc thật cao minh thức thời, đệ từ lâu cũng mang ý hướng ấy nhưng chưa có cơ thực hiện, nay gặp tôn huynh khác chi cá gặp nước. Chi bằng ta kết nghĩa đệ huynh, thề đồng sinh tử, dâng đất Thuận Quảng cho Mạc, củng cố lực lượng tiến quân ra bắc làm thế gọng kìm. Họ Trịnh dù có cánh cũng không thoát khỏi tay ta. Ðệ từng nghe Khiêm Vương (Mạc Kính Ðiển) là bậc đại nhân lượng cả, chắc chắn sẽ ban thưởng bổng lộc trọng hậu. Ðể minh chứng lòng thành, đệ dâng lễ mọn mời tôn huynh ước thệ tại ngôi đền trên bến Trảo Trảo có thần nhân chứng giám…”. Cuối thư Nguyễn Hoàng viết:“… Ðệ có cô em Ngọc Lâm trời cho nhan sắc nguyệt thẹn hoa nhường. Ngọc Lâm ngưỡng mộ uy dũng tôn huynh từ lâu, những mong được hầu hạ lược khăn người anh hùng cái thế. Tôn huynh rộng lượng hẳn chẳng khước từ..”. Quận Lập đọc đến đấy vui mừng hể hả, thịt dâng miệng cọp. Bấy lâu mải miết hành quân, đêm đêm vẫn mộng cùng nữ nhân mây mưa, nay gặp người thật xinh hơn người mộng. Quận Lập truyền bày tiệc đãi đằng sứ giả, lại dẫn riêng Ngọc Lâm ra buồng sau yến ẩm. Quận Lập rót rượu mời Ngọc Lâm:
-Ta nay gặp nàng do duyên trời khiến, nguyệt lão khéo xe, coi hôm nay như ngày nghinh hôn nên có chung rượu tạ ơn trời, tạ ơn ông tơ bà nguyệt, mời nàng cạn chén.
Ngọc Lâm e thẹn trông càng nồng nàn hương sắc. Quận Lập say đắm mong trời mau tối làm lễ động phòng, tung hoành hoa dinh cẩm trận. Ngọc Lâm nói:
-Cũng chỉ vì hai tiếng anh hùng mà phải làm điều trái lẽ, xưa nay trâu tìm cọc chứ cọc nào tìm trâu, em nghĩ trăm phần hổ thẹn.
Quận Lập an ủi:
-Nhi nữ thường tình là vậy, nhưng nàng mộ danh ta mà đến lòng ta bội phần quý hóa. Ta cho đó là cung cách xử sự khôn ngoan, nhan sắc tuyệt trần chỉ xứng với trang hào kiệt. Ai dại đem hoa hồng cắm phân trâu, uổng phí đời hoa.
Ngọc Lâm cúi đầu cảm tạ:
-Em nay mộng thành được sớm hôm kề cận nâng khăn sửa áo hầu hạ tướng quân, hai nhà Lập Nguyễn đời đời giao hảo. Xin tướng quân kíp hồi âm cho Nguyễn huynh, cùng hội ngày ước thệ chín chắn. Nguyễn huynh rất vui mừng khỏi nhọc công chờ đợi.
Quận Lập nghe Ngọc Lâm nói, hăng hái thảo thư cho Nguyễn Hoàng, định vài ngày sau sẽ đến nơi thệ ước. Ngọc Lâm vui mừng lạy tạ nhận thư trao sứ bộ mang về Ái Tử.
Nhận thư, Nguyễn Hoàng mừng rỡ biết việc đã thành. Truyền quân quét dọn sửa sang ngôi đền, ngầm đào hào chung quanh đủ chỗ vài mươi dũng sĩ mai phục.
Ðúng hẹn, Quận Lập đến Ái Tử với khoảng trăm quân trên ba chiến thuyền hộ tống. Nguyễn Hoàng thân ra bãi sông đón Quận Lập lên bờ. Ðến cửa đền, Nguyễn Hoàng nói:“Tôn huynh đứng đợi đệ ra lệnh quân sĩ thắp hương đèn”. Nói xong bước nhanh vào đền vòng ra phía sau mất dạng. Có tiếng pháo nổ vang. Quận Lập đang ngơ ngác bỗng từ ba phía tên bắn như mưa. Từ trong đền toán dũng sĩ xông ra bao vây, giáo gươm đánh tới tấp. Quận Lập rút song kiếm chống trả cố lùi ra mé sông thì bị tên bắn chết. Thấy chủ tướng bị hại, quân Mạc quăng gươm giáo đầu hàng. Nguyễn Hoàng tha không sát hại, đưa đám hàng binh đi canh tác ở vùng Cồn Tiên. Phần Ngọc Lâm, khi Quận Lập kéo quân về Ái Tử, nàng cải trang nam nhi trốn khỏi doanh trại Mạc. Gặp lại Nguyễn Hoàng, Ngọc Lâm khóc lóc nài nỉ chủ tướng cho nương thân nơi cửa phật. Nguyễn Hoàng chối từ. Nghe nói sau này Hoàng tìm cách đền ơn, gả nàng cho viên tùy tướng người Nghệ An. Hai xứ Thuận Quảng từ đó yên ổn nhưng tình hình triều đình tại Thanh Hóa gặp nhiều biến loạn làm Nguyễn Hoàng lo ngại. Sau vụ anh em họ Trịnh xung đột dành quyền bính, Trịnh Cối về hàng Mạc được trọng dụng giữ nguyên chức tước. Trịnh Tùng giữ quyền tiết chế quân lực tỏ ra lấn lướt vua Lê. Vua Lê Anh Tôn cùng Thái Phó Lê Cập Ðệ mưu hại Trịnh Tùng, Tùng phát giác sự việc giết Cập Ðệ, vua Lê sợ hãi cùng bốn hoàng tử trốn vào Nghệ An bị Tùng lùng bắt sát hại loan tin vua tự sát. Trịnh Tùng nói với triều thần:“ Nhà vua khởi thân hàn vi, chỉ là cháu xa đời họ Lê được thân phụ ta rước về tôn lập làm vua thiên hạ lo việc khôi phục. Nay vua dùng bọn tiểu nhân, nghe chúng bày kế ly gián, khinh xuất đem ngôi báo xiêu giạt, tự hại thân mình. Tội bọn gian thần quả thật lớn lắm”. Trịnh Tùng lập hoàng tử Duy Ðàm, con trai thứ năm của vua Anh Tôn lên ngôi tức vua Thế Tôn. Vua Lê sai sứ mang sắc thư vào Thuận Hóa phong Nguyễn Hoàng làm Thái Phó, hàng năm giữ lệ nộp thuế triều đình. Nguyễn Hoàng dâng biểu tạ ơn. Từ đó, Nguyễn Hoàng ra sức ổn định phát triển Thuận Quảng. Hành động dứt khoát và tàn bạo của Trịnh Tùng làm Nguyễn Hoàng lo ngại, nhất là cái chết của người anh như ám ảnh không rời. Tuy được thăng chức, Nguyễn Hoàng vẫn thường phái gia nhân do thám tình hình triều chính.
Trịnh Tùng nối chí phụ thân quyết tâm đánh bại nhà Mạc, thường xuyên tổ chức hành quân tấn công vùng bắc Tam Ðiệp thuộc Sơn Nam. Ngược lại, Tiết chế quân Mạc Khiêm Vương Mạc Kính Ðiển không bó tay phòng thủ, nhiều phen tấn công vùng Thanh Nghệ. Chiến trận nhiều năm ở thế giằng co, bao tai họa đổ trên đầu lương dân thống khổ. Hết chiến tranh đến thiên tai, khi bão lụt khi hạn hán, nhiều người cùng khổ bỏ quê cha đất tổ đi vào Thuận Quảng mong tìm đất lành nương thân. .
Cuối năm Canh Thìn 1580, Nguyễn Hoàng được tin Mạc Kính Ðiển lâm bệnh từ trần, Hoàng tin tưởng quân Mạc sẽ khốn đốn. Phùng Khắc Khoan từng nói với Nguyễn Hoàng:“Kính Ðiển là người dũng lược nhân hậu, thông minh tài trí…” Với Trịnh Tùng, Kính Ðiển là đệ nhất danh tướng đất bắc. Nay Kính Ðiển mất đi, cơ nghiệp họ Mạc tất lung lay. Ứng Vương Mạc Ðôn Nhượng em ruột Kính Ðiển nắm quyền tiết chế. Ðôn Nhượng hiền hòa nhưng thiếu quyết đoán, Trịnh Tùng tin tưởng mình sẽ là kẻ chiến thắng. Từ đó chiến sự mở rộng hơn, quân Lê thắng thế khiến bắc triều nhiều phen nao núng. Ðiềm bại vong thấy rõ khi vua Mạc Hậu Hợp ham mê tửu sắc, quần thần chia rẽ, nhiều kẻ bỏ về đầu hàng nhà Lê. Mạc Ðôn Nhượng tuổi ngoài bảy mươi, đau lòng nghĩ chẳng ra cách cứu nguy cơ đồ, lại đau yếu thường xuyên, chán nản trở về Hải Dương.
Năm Nhâm Thìn 1592, quân Mạc thất trận nặng nề, thiệt hàng vạn quân, kinh đô Thăng Long bị tàn phá hoang vắng tiêu điều, dân lầm than không kể xiết. Ai cũng nghĩ nhà Mạc sẽ đổ. May thay quân Lê thiếu lương trầm trọng, cả vùng Thanh Hóa lẫn Sơn Nam mùa màng mất trắng vì bão lụt. Trịnh Tùng buộc phải lui quân. Bấy giờ thay vì ra sức phục hồi đất nước phòng quân Lê trở lại, vua Mạc chủ bại sinh chán nản buông tuồng. Vua say mê cô em vợ mình là Nguyễn Thị, vợ Sơn Quận Công Bùi Văn Khuê, viên danh tướng chỉ huy thủy binh, lực lượng hùng hậu nhất của nhà Mạc. Biết vua muốn âm mưu hãm hại mình để cướp vợ, Văn Khuê dẫn binh về Sơn Nam lánh nạn, vua tức giận sai quân truy đuổi. Văn Khuê ở thế bí buộc phải hàng phục nhà Lê. Thấy Văn Khuê dung mạo đẹp đẽ, Tùng phong Khuê làm Mỹ Quận Công.
Thu phục được Văn Khuê, Trịnh Tùng mừng lắm. Tùng nói với chư tướng:“Ta xưa nay chỉ ngại thủy binh Mạc, nay Văn Khuê về hàng do ý trời muốn giúp ta dựng đại nghiệp. Dù bắt đầu tiết đông nhưng ta quyết hưng binh, chư tướng hãy một lòng, trên dưới quyết tâm đánh thắng trận cuối, chấm dứt cuộc can qua đã gần sáu mươi năm dài”. Tướng sĩ nô nức ra quân thề quyết thắng. Quân Lê chiếm Sơn Nam, Bùi Văn Khuê đánh bại thủy binh Mạc thu hàng trăm chiến thuyền, theo sông Hồng tiến thẳng vào Thăng Long. Kinh đô thất thủ, vua Mạc bỏ chạy về lập chiến tuyến ở Hải Dương. Trịnh Tùng dốc toàn lực lượng thủy bộ quyết san bằng cứ điểm cuối cùng. Vua Mạc thấy thế nguy, quyết định đánh lá bài cuối. Nhà vua nhường ngôi cho con là Mạc Toàn, tự mình thống lĩnh ba quân tử chiến. Bấy giờ là tháng chạp, trời lạnh căm gió bấc mưa phùn. Chiến tuyến dài hàng chục dặm vang tiếng la hét, tiếng kêu thương, tiếng nguyền rủa, tiếng gươm giáo va chạm, quân đôi bên trộn lẫn say cuồng tàn sát. Chỉ toàn máu, máu loang khắp nơi, hơi gió cũng tanh máu. Trong lúc tình thế gay go, mấy chục chiến tướng Mạc cởi giáp hạ gươm đầu hàng. Quân Mạc núng thế lùi dần, những người lính hốc hác khô héo gian khổ chiến đấu không tiếc lời nguyền rủa bọn mũ cao áo dài từng hưởng ơn mưa móc nhưng bội phản trước tiên. Ngay trong đêm, Mạc Hậu Hợp bảo vệ gia quyến trốn khỏi Hải Dương chạy lên phía bắc, ẩn trong làng Phượng Nhãn, nhưng chỉ mấy ngày sau bị quân Lê bắt được. Trịnh Tùng truyền đưa Mạc Hậu Hợp về Thăng Long, chém tại bến Bồ Ðề, đóng đinh vào hai mắt, cắm thủ cấp vào cọc bêu ba ngày giữa chợ, sau đó đóng hộp gửi về Thanh Hóa tế tiên tổ nhà Lê. Hàng trăm chiến tướng Mạc bị bắt, tất cả đều bị chém bêu đầu. Tàn quân Mạc do Mạc Ngọc Liễn chỉ huy rút chạy lên Cao Bằng. Trịnh Tùng về lại Thăng Long cho sửa sang thành quách cung điện chuẩn bị đón vua. Trung tuần tháng tư năm Quý Tỵ 1593, vua Lê và triều thần đến Thăng Long, Tiết Chế Trịnh Tùng cùng chư tướng ra ngoại thành đón tiếp trọng thể, cử nhã nhạc lạy mừng đón vua vào hoàng thành. Thị Lang Phùng Khắc Khoan tâu:
-Nay tội ác phản tặc đã xử, công nghiệp tiên vương phục hồi thuận ý trời, đẹp lòng người. Thần nghĩ việc thành là do anh linh tiên tổ trợ giúp, lại nhờ công lao của đô tướng tiết chế chư tướng ba quân, nay là lúc bệ xét công ban thưởng.
Vua cho thuận lẽ:
-Trẫm nghĩ thiên hạ là của tổ tông, dân cũng là dân tông tổ. Quân dân khổ ải bị tàn ngược đã lâu, đương mong ta vỗ trị. Nay ngoài việc ban thưởng ba quân chư tướng, ta còn ban ân huệ cho khắp mọi nhà.
Triều thần vui mừng nhận lĩnh chức tước. Các danh tướng Hoàng Ðình Ái, Nguyễn Hữu Liêu lập công đầu đều được phong quốc công.
Tại Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng nghe tin quân Lê đại thắng, vua Lê đã ra Thăng Long. Nguyễn Hoàng bàn với các con:
-Ðã hai mươi năm lẻ ta chưa về chầu vua thật không đúng lẽ. Nay nhân cơ hội phải ra Thăng Long một chuyến, thầy cũng muốn dẫn các con bệ kiến thánh giá để vua phong chức tước danh chính ngôn thuận lưu tiếng với đời. Phúc Nguyên ở lại trông nom công việc các trấn.
Người con trưởng Nguyễn Hà bàn:
-Ðể tỏ lòng thành, ta nên mang nhiều binh lương cùng nhiều lễ vật tạ vua. Thầy cũng không nên quên Trịnh Tùng vì hắn có công lớn trung hưng, ta muốn yên phải lấy lòng hắn.
Nguyễn Hoàng khen phải, chuẩn bị mấy mươi chiến thuyền cùng binh lương, sổ bộ, cơ man ngọc ngà vàng lụa, cắt ngàn tinh binh thân tín hộ tống lên đường. Trước ngày khởi hành, Nguyễn Hoàng gọi Phúc Nguyên căn dặn mọi việc kỹ càng, hứa không chóng thì chầy sẽ trở lại Thuận Hóa.
Ðầu tháng năm, Nguyễn Hoàng đến Thăng Long, cùng với bốn con trai và cháu nội đến phủ đô tướng. Trịnh Tùng mừng rỡ bày tiệc khoản đãi, mừng cậu cháu anh em tái ngộ sau hơn hai mươi năm xa cách. Nguyễn Hoàng sợ Trịnh Tùng trách cứ chuyện quá lâu không về triều, Hoàng nói:
-Thời gian qua nhanh, đời người chóng hết. Năm nay cậu ngót bảy mươi may trời cho còn sức mạnh. Bấy lâu cậu không về triều vì phương nam rối rắm, phần bọn cướp biển hung bạo thường phen quấy nhiễu không cho dân ven biển lạc nghiệp an cư, phần bọn Chiêm Thành nhớ hận xưa, đôi khi kéo quân xâm lấn. Hai trấn Thuận Quảng đất rộng người thưa, quân ta không đông lại phân tán, cha con cậu ngày đêm chung sức gánh vác công việc chẳng dám lơ là, cháu cứ xem sổ bộ thì rõ. Mừng cháu lập đại công phục hưng nghiệp Lê, sử vàng ghi khắc.
Trịnh Tùng phủ dụ:
-Cậu ra chuyến này còn mang cả sổ bộ binh lương quân sĩ, mọi việc chu tất cháu quá đỗi vui, nói chi chuyện nhiêu khê buồn phiền. Mấy mươi năm cháu chinh chiến lập đại công, cũng nhờ cậu một tay gìn giữ phương nam vững chắc, công ấy không nhỏ. Nay nhà vua đã ban thưởng chư tướng ba quân, mai cậu vào bệ kiến, cháu xin ngài gia phong cậu hàng vũ tướng hệ trọng, nhất phẩm công thần. Nay Vinh Quốc Công (Hoàng Ðình Ái) nắm Tả Tướng, cậu sẽ là Hữu Tướng Ðoan Quốc Công.
Nguyễn Hoàng vui vẻ. Nghỉ ngơi non nửa tuần trăng, Trịnh Tùng lại gặp Nguyễn Hoàng:
-Ta tuy chiếm Thăng Long, chém hàm trăm nghịch tướng nhưng dư đảng còn nhiều. Cháu lo ngại nhất là bọn Mạc Ngọc Liễn và Mạc Kính Cung (con trai Mạc Kính Ðiển) còn cao bay xa chạy. Các trấn không yên, thường xuyên bị quấy phá. Nay cháu giao cậu ba trăm chiến thuyền cùng quân lương, cậu sẽ hợp với Tả Tướng (Hoàng Ðình Ái) bình định vùng duyên hải các trấn Sơn Nam, Hải Dương. Cậu cẩn trọng vì thủy binh Mạc rất giỏi, địa thế đất bắc phức tạp, cháu sẽ cử Quận Bùi (Mỹ Quận Công Bùi Văn Khuê) phụ giúp cậu, y giỏi thủy chiến, lại am tường địa thế.
Nguyễn Hoàng cùng các con ra quân sau vài ngày chuẩn bị. Từ đấy, đoàn quân tham chiến từ vùng tây nam, trên những vùng sông rạch như mắc cửi đan vào những sông Hàm Giang, Lục Ðầu… đến những vùng núi cao hiểm trở ven biển phía đông như núi Yên Tử, núi Ðông Triều. Trận giao tranh đẫm máu tại phủ Kiến Xương, Nguyễn Hoàng đại thắng chém hàng vạn thủ cấp, cả một giải Hoàng Giang nhuộm máu nghẹt xác người. Cuối năm tình hình tạm ổn, Nguyễn Hoàng trở về Thăng Long. Vua Lê mừng rỡ khen ngợi chẳng cùng, gia phong cho bốn người con Nguyễn Hoàng tước quận công.
Thắng liên tiếp nhiều trận lớn, Trịnh Tùng nghĩ tình hình sẽ khả quan hơn nhưng diễn biến ngược lại. Khắp nơi từ duyên hải đến cao nguyên, đám cựu thần nhà Mạc không ngừng nổi dậy đánh phá. Dân còn luyến tiếc vương triều cũ sẵn sàng ủng hộ hoặc tham gia kháng chiến chống nhà Lê. Trịnh Tùng ăn ngủ không yên, cứ dẹp yên được nơi này , nơi khác lại sinh biến.
Cuối năm Giáp Ngọ 1594, Mạc Kính Cung đã xưng đế, cùng với Thái Phó Mạc Ngọc Liễn bất ngờ kéo quân từ Thái Nguyên về chiếm huyện Vĩnh Lại. Chỉ vài ngày sau, phần lớn trấn Hải Dương lọt vào tay quân Mạc, thanh thế họ Mạc ngày càng lớn. Nguyễn Hoàng tuổi tròn bảy mươi vẫn hăng hái nói với Trịnh Tùng:“Cậu đã quen đất Hải Dương, lại hiểu được chiến thuật hành quân của Mạc Ngọc Liễn. Binh pháp có câu biết mình biết người trăm trận trăm thắng. Cậu còn khỏe, hãy để cậu cầm quân xung trận lập công”. Trịnh Tùng mừng rỡ cử Nguyễn Hoàng làm đô tướng đem trăm chiến thuyền và vạn quân tiến đánh Hải Dương.
Nguyễn Hoàng chia quân làm hai cánh thủy bộ tiến đánh quân Mạc ở núi Yên Tử. Thủy binh lợi dụng sương mù lặng lẽ tiến đến gần trại địch, dùng tên lửa bắn rát. Bộ binh đánh từ nhiều phía reo hò như sấm dậy cướp tinh thần. Mờ sáng quân Mạc rút chạy. Quận Công Nguyễn Hán, con trai thứ của Nguyễn Hoàng kéo thuyền ngăn địch bị tên bắn gục chết ngay trên thuyền. Thấy con bị hại, Nguyễn Hoàng ngưng truy đuổi, kéo quân lên bộ lập hành dinh, cho chuyển thi hài con về Thăng Long. Những cuộc hành quân truy lùng kéo dài hàng năm, có lần Nguyễn Hoàng kéo quân lên tận Cao Bằng. Quân Mạc rút sâu vào rừng, đói khát gian truân thê thảm, Mạc Ngọc Liễn lại lâm trọng bệnh. Biết mình khó qua khỏi, trước khi từ giã cõi đời, Ngọc Liễn căn dặn Kính Cung:“Ta nay sức cùn lực tận, cái chết đã gần kề nên nói lời chân thật. Mệnh nhà ta suy vi, nhà Lê phục hưng âu cũng số trời, chớ nên chống chỏi làm khổ quân dân bao năm đau khổ ê chề chết chóc. Chi bằng theo lời khuyên của Trạng Trình tạm lánh qua biên giới, tránh can qua. Chớ nên cậy vào sức người Tàu vì họ chẳng bao giờ thật tâm cứu giúp, chỉ muốn nô lệ dân ta”.
Những năm tiếp, đất bắc vẫn loạn, thiên tai làm mất mùa màng. Hải Dương đói, người ăn thịt người. Sơn Tây đói, người nghèo tụ nhau cướp gạo người giầu, trẻ con nhìn người lớn giết nhau tranh cướp bình thản đứng nhìn, có khi cười nói coi như trò vui. Ðiềm trời nhiều chuyện lạ, mùa hạ năm mùi dân kinh thành thấy hai mặt trời cùng lúc, trời không mây mà sấm chớp, sét đánh ngay vào cung vua. Năm Dậu tại Sơn Tây, đang tiết xuân trời bỗng mưa to nước đỏ như máu. Có người kể thấy hình ma quỷ nhảy múa trong mây. Nguyễn Hoàng chán nản, nghĩ Trịnh Tùng khó trụ ở Thăng Long vì lòng dân bất phục. Ðôi phen Nguyễn Hoàng ngỏ ý muốn về Thuận Hóa đều bị Trịnh Tùng tìm lời đưa đẩy giữ chân. Tùng nói:“Cậu nay trọng tuổi về chi nơi ác địa. Ở đây cậu cháu có nhau, đất nước chưa yên cháu vẫn cần cậu trợ giúp. Mai sau thôi chinh chiến cậu về quê nhà dưỡng lão vẫn hơn”. Sau Nguyễn Hoàng nghĩ ra Trịnh Tùng muốn cài người thân tín vào Thuận Hóa thay mình nên càng lo ngại muốn tìm cách thoát khỏi đất bắc.
Tháng tư năm Mậu Tuất 1598, hàng vạn quân Mạc do Mạc Kính Chỉ chỉ huy từ phía bắc tràn về chiếm lại Hải Dương. Trịnh Tùng bàn với chư tướng:“Hải Dương vốn là đất tổ họ Mạc, dân nhiều người còn nhớ nhà Mạc nên nghịch đảng dễ thao túng. Nay ta dốc toàn lực đánh dẹp, nhổ cỏ tận gốc may tình thế mới yên. Chư tướng cùng ta quyết chiến”. Chư tướng cảm kích khí thế bừng bừng. Trịnh Tùng đích thân chỉ huy trung quân cùng với Hữu Tướng Nguyễn Hoàng, Tả Tướng Hoàng Ðình Ái. Thủy binh do các Quận Công Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê đem ba trăm chiến thuyền vây hãm mặt biển. Chiến trận gay go khốc liệt kéo dài hàng tháng. Quân Mạc quyết chiến nhưng ô hợp tổn thất nặng, cuối cùng lui binh. Quân Lê hồi triều, Trịnh Tùng hậu thưởng tướng sĩ, hết lời ngợi khen các danh tướng Phan Ngạn, Văn Khuê.
Một đêm tháng tư năm Kỷ Hợi 1599, trời đang tối đen bỗng ngàn sao xuất hiện sa xuống như tia chớp đánh sập một góc điện Kính Thiên nơi vua ngự. Mọi người cho là điềm bất tường. Vua lo lắng hỏi triều thần. Ðô Ngự Sử Lê Nghĩa Trạch vốn tính ngay thẳng tâu:
-Tâu bệ hạ, thần nghĩ điềm trời nhắc nhở bậc đế vương giữ đạo công rộng lớn, chưa hậu lễ tôn nghiêm cao quý công thần.
Vua lại hỏi:
-Khanh nói vậy là ý chi?
-Ðạo trị nước công thưởng tội phạt. Chư tướng hữu công đều được ban thưởng trọng hậu, điều ấy hợp lẽ. Thần chỉ e ngại trường hợp Tiết Chế(Trịnh Tùng), ngài quả là kẻ công đầu lại chưa thấy bệ hạ nói chi, thần e có điều dị nghị.
Vua nghĩ lung, chậm rãi:
-Trẫm hằng áy náy việc khanh tâu, nay Tiết Chế uy quyền tuyệt đỉnh, cai quản văn võ quần thần, trẫm biết phong chức chi cho xứng?
-Tiết Chế mấy mươi năm vào sinh ra tử tung hoành nơi chiến địa, từ núi rừng sông biển chẳng chùn vó ngựa. Có lần ngài tâm sự, chỉ mong yên giặc được sống bình an, đấng chí tôn thấu hiểu ước vọng công thần là đẹp ý trời.
Vua nghĩ ra, truyền Thị Lang Phùng Khắc Khoan thảo sách văn. Thảo rằng:“… Trường Quốc Công Trịnh Tùng uy vọng như núi, văn vũ song toàn, trong bày kế an xã tắc, ngoài chinh chiến bình đảng nghịch giữ yên nghìn cõi, đáng mặt lương đống, cai quản thần liêu. Ðặc sai Tả Tướng Vinh Quốc Công Hoàng Ðình Ái đem sách vàng tấn phong làm Ðô Nguyên Súy Thượng Phụ Bình An Vương. Mong thận trọng chức vị, muôn đời hưởng ân vua…”
Trịnh Tùng hoan hỉ nhận tước vị, mở đại tiệc khoản đãi chư tướng. Tùng nói:“Hoàng thượng thấu hiểu tâm can, sắc phong ta tước hiệu Bình An Vương thật đúng ước vọng”. Giữ ngôi vương bá, Trịnh Tùng lập Phủ Liêu nắm trọn quyền bính, ngang nhiên quy định bổng lộc nhà vua. Vua chỉ được hưởng lộc ngàn xã gọi là lộc thượng tiến, có năm ngàn lính túc trực hộ vệ vương phủ. Nhà Lê đến đây coi như mất quyền.
Chế độ phổ biến làm nhiều người kinh ngạc, có kẻ dị nghị xưa nay chưa hề có chuyện vua ngửa tay nhận lộc bề tôi. Trịnh Tùng được quần thần xưng tụng là nhà chúa thản nhiên nói:“Nước nghèo lại loạn, ta nắm quyền tiết chế làm việc gì cũng theo kỷ cương mới giữ nổi đại nghiệp. Quần thần chớ theo thói cũ mà suy lẽ này khác”. Phần vua Lê, nhà vua hận chẳng dám nói, buồn bực khôn nguôi. Cung vua sơ sài đạm bạc, phủ chúa nguy nga tráng lệ. Thái Tử Duy Thì thấy cha âu lo bèn thưa:“Phụ Vương can chi buồn bực, bởi lẽ mình tuy là vua nhưng tài hèn sức yếu nên bị người lấn áp, chi bằng cứ thản nhiên, khoanh tay rũ áo tránh bị nghi kỵ rồi liệu việc sau”. Vua trách:“Con còn nhỏ thiếu cẩn trọng, sao quên câu tai vách mạch rừng”. Từ đấy sức khỏe vua suy yếu dần, hàng tháng không thiết triều, quần thần tấu bẩm nhận lệnh lạc hoàn toàn qua phủ chúa.
*****
Kinh đô Thăng Long những ngày thu tàn, trời dịu mát, gió nhẹ như tơ đong đưa dăm chiếc lá vàng lượn lờ. Sáng hôm ấy, theo lệ bá quan đến phủ chúa bàn quốc sự. Ðầu giờ mão trời chưa sáng rõ, người ta đã nghe tiếng vó ngựa gõ nhịp trên đường, tiếng xe kéo lọc cọc về phía phủ chúa tọa lạc bên hồ Tây. Bá quan tụ tập đông đủ nhưng cổng phủ vẫn khép kín, khác với lệ cổng mở sớm như mọi lần. Mọi người nhìn nhau e dè, linh tính có điều không ổn. Bỗng từ vọng gác trên cao có tiếng loa vang:“Lệnh chúa thượng chỉ mời các quan có trọng trách vào phủ nghị bàn, kỳ dư trở về nhiệm sở chờ lệnh sau”. Bá quan từ nhị phẩm trở xuống, kẻ xe người ngựa lặng lẽ phân tán, lòng hoang mang nghi hoặc.
Lát sau cánh cổng nặng nề từ từ mở, các Quốc Công Nguyễn Hoàng, Hoàng Ðình Ái, Nguyễn Hữu Liêu, Ðô Ngự Sử Lê Nghĩa Trạch… và mươi vị khác hàng lối tề chỉnh bước vào phủ đường. Chúa Trịnh bước ra phủ đường. Bá quan ngạc nhiên thấy chúa không mặc lễ phục, chỉ áo xanh khăn đóng. Chúa nhìn hai hàng văn võ, nói:
-Ta báo tin chư khanh, khoảng cuối giờ tí hoàng đế đã về chầu tiên vương nơi chín suối. Nước không thể một ngày không vua, ta họp chư khanh định ngày đăng quang tân vương giữ mối giềng xã tắc, cùng là lo việc tang ma cho đúng lễ nghi truyền thống nhà Lê.
Ngự Sử Lê Nghĩa Trạch khải:
-Khải chúa thượng, ngôi vị thái tử tiên vương đã định, việc lễ nghi đã có bộ lễ. Thần nghĩ chỉ cần Tư Thiên Giám chọn ngày lành phát tang…
Chúa ngắt: Nếu mọi việc xuôi cớ chi phải luận bàn, do có khúc mắc khiến ta trăn trở chưa quyết phải hội ý bá quan. Nay đang cơn quốc biến, Mạc Kính Cung ở phương bắc tiếm xưng đế hiệu, dưới tay có hàng vạn quân đang lăm le tái chiếm kinh đô, dư đảng nghịch hoành hành khắp nơi khiến trời phẫn nộ giáng bao tai ách. Ta quyền tiết chế, đấng chí tôn vẫn trọng tôn làm thượng phụ nương cậy mọi việc. Nay nhà vua về chầu tiên vương giao ta gách vác chức trách, việc chọn đấng minh quân kế vị khiến ta âu lo khắc khoải…
Chúa ngừng giây lâu, bá quan lặng lẽ ra vẻ suy nghĩ . Bỗng chúa nhìn thẳng Thị Lang Lê Bật Tứ ngồi cuối hàng văn quan, chúa hỏi:
-Quan Thị Lang, ông văn hay chữ tốt, kinh sử làu thông, cho ta nghe cổ nhân bàn thuật trị nước của đấng minh quân.
Lê Bật Tứ vốn người đồng hương với chúa, đỗ tiến sĩ khoa Mậu Tuất 1598 được chúa trọng tài quý mến. Bật Tứ đứng dậy dõng dạc:
-Khải chúa, bậc minh quân cư xử hợp đạo nghĩa, yên dân bằng đạo lý, khiến dân bằng lễ nghi, yêu dân là nhân ái. Trau dồi được vậy nước tất hưng thịnh. Lại nghĩ minh quân tài giỏi nắm mối giềng xã tắc phải đạo vua tôi, trọng nể hiền tài, trên thuận lòng trời, dưới hợp ý dân, nối dài phúc đức tông xã muôn đời.
Chúa nghe gật gù bằng lòng: Cứ theo lời quan Thị Lang đấng chí tôn nào phải tầm thường. Theo lẽ ấy, xét Thái Tử Duy Thì tính tình trì trệ kém phần mẫn tiệp. Tiên Vương chọn ngôi thái tử theo lệ xưa nay trao quyền cho trưởng. Từ lâu ta có ý khuyên vua thay ý định, nào ngờ vua băng đột ngột chưa kịp định bàn. Lại nữa gần đây Duy Thì nói năng thiếu lễ độ, thường có lời gây nghi kỵ giữa phủ chúa và nhà vua, không xứng ngôi báu. Xét Hoàng Tử Duy Tân tuy trẻ tuổi (Duy Tân tuổi mới mười ba) nhưng đủ phong thái, dung mạo hùng vĩ, thông minh mẫn tiệp xứng đáng ngôi cao, ý ta quyết chọn Duy Tân làm kẻ kế vị.
Rồi chẳng cần ai bàn luận, chúa truyền Tư Thiên Giám chọn ngày làm lễ ban chiếu đăng quang, bá quan hàng nhất nhị phẩm đi tế cáo trời đất cùng các tôn vị thờ ở đền miếu. Ðúng ngày định, hai Quốc Công Nguyễn Hoàng và Hoàng Ðình Ái đem ấn vàng sắc thư đón Hoàng Tử Duy Tân lên nối ngôi tức vua Lê Kính Tôn.
Tân Vương ban chiếu chỉ treo ở Quảng Văn Ðình, bố cáo đại xá thiên hạ:“… Nước nhà ta trời giúp người theo, thần truyền thánh nối, khuôn phép kỷ cương. Trẫm đang lúc cư tang xiết bao đau đớn, lại e tuổi trẻ phải đảm đương nghiệp cả, bao nỗi âu lo. Thực chỉ nương nhờ Chủ Súy Thượng Phụ Bình An Vương đức sáng khuông phù, cùng thân huân đại thần một lòng vì nước…”
Việc phế Thái Tử Duy Thì lập Duy Tân lên ngôi, triều thần biết do chúa quyết định nên yên lặng. Dân kinh thành xì xầm to nhỏ nhưng mọi việc rồi cũng yên. Chỉ mấy ngày sau, chúa lại gả gái út Ngọc Trang cho vua. Vua Kính Tôn thành con rể chúa Trịnh. Ðêm ấy, kinh thành có sao sa dài như tấm lụa trắng kéo dài cả khắc mới tan. Có kẻ bàn trời để tang nhà Lê vì họ Trịnh nay mới thật là chủ đất nước.
Những việc làm táo bạo của Trịnh Tùng làm Nguyễn Hoàng lo âu. Nguyễn Hoàng đoán chắc trước sau gì Trịnh Tùng sẽ cướp ngôi nhà Lê, đất bắc biến loạn, nhà Mạc có cơ may đoạt lại quyền bính.
Tháng tư mùa hạ năm Canh Tý 1600, nước sông Hồng dâng cao gây lụt lội mất mùa, nhân dân đói khổ. Hàng ngàn người bỏ xứ đi ăn mày lang thang đầu đường xó chợ. Tháng năm, trời lại nóng như thiêu. Nguyễn Hoàng ngày đêm ray rứt, thư của Nguyễn Phúc Nguyên, con trai thứ sáu của Nguyễn Hoàng hiện đang trấn thủ Thuận Hóa. Phúc Nguyên khoe với cha nay nắm gần ba vạn quân thủy bộ binh được rèn luyện kỹ càng, lại khuyên phụ thân bằng mọi cách kíp trở về Thuận Hóa vì cha con xa cách đã lâu. Nhận thư con, Nguyễn Hoàng càng bị thôi thúc phải quyết định gấp rút. Nguyễn Hoàng nghĩ thật dễ nếu muốn thoát thân một mình. Tám năm trước khi ra bắc, hàng ngàn dũng sĩ người đồng hương huyện Tống Sơn tình nguyện theo ông. Những con người thủy chung ấy từng cùng ông chia ngọt xẻ bùi, từng lấy máu, cả mạng sống để bảo vệ chủ, trên ba trăm người đã chết để ông còn sống đến cái tuổi bảy mươi lăm hôm nay. Nguyễn Hoàng không thể bỏ quân trốn đi một mình, chỉ có kẻ hèn nhát táng tận lương tâm mới làm như thế. Hoàng sẵn sàng hy sinh để mấy con trai và cháu nội ở lại, nhưng dứt khoát không bỏ quân.
Trong lúc tại triều đình đang có sự chia rẽ ngầm giữa kẻ phù vua, kẻ theo chúa. Tin các quận công Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê làm phản theo vua Mạc Kính Cung gây xôn xao. Quân phản nghịch chiếm hầu hết Sơn Nam, thủy binh do Bùi Văn Khuê chỉ huy trấn đóng cửa Ðại Yên. Quốc Công Hoàng Ðình Ái thua trận rút quân về trấn giữ vùng núi Tam Ðiệp. Chúa Trịnh lo lắng họp triều thần tìm mưu chống giặc. Nguyễn Hoàng nghĩ ra diệu kế, cho đây là cơ hội tốt nhất để thoát về Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng khải chúa:
-Bọn Phan Ngạn và Văn Khuê đều là danh tướng, lại nắm trong tay hàng vạn quân. Nay chúng tạo phản, mối nguy phải diệt tự trứng nước. Tôi vốn quen cả hai, lại rõ tính tình cùng chiến thuật hành quân của chúng. Sách có chữ tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng. Biết mình biết người trăm trận trăm thắng. Tôi tuy tuổi già nhưng đã hưởng ân vua lộc nước tất phải đáp đền. Xin nhà chúa cấp cho trăm chiến thuyền, tôi sẽ có kế đẩy lui quân nghịch.
Thị Lang Lê Bật Tứ khải:
-Nguyễn Quốc Công là tay danh tướng. Ngài đã nói vậy tất có kế hay, xin chúa thượng chuẩn y cho Quốc Công có dịp lập thêm đại công, giữ yên xã tắc.
Chúa thuận ý, hết lời phủ dụ Nguyễn Hoàng. Sau vài ngày chuẩn bị, Nguyễn Hoàng cùng đám thủ hạ xuống thuyền thẳng vào cửa Ðại Yên. Tránh bị ngờ vực, Nguyễn Hoàng để tất cả con cháu ở lại Thăng Long. Khi chiến thuyền đến gần doanh trại Văn Khuê, Nguyễn Hoàng dừng quân, phái viên tùy tướng đến gặp Văn Khuê trao thư mật. Trong thư, Nguyễn Hoàng hẹn ngày mai giao chiến, Nguyễn Hoàng sẽ giả thua chạy về Thuận Hóa chỉnh đốn binh mã kéo ra bắc cùng phối hợp với Khuê và Ngạn diệt Trịnh Tùng.
Bùi Văn Khuê đọc thư cả mừng nói với Phan Ngạn:“Có Nguyễn Hoàng giúp sức chắc chắn đại sự sẽ thành”. Hôm sau, mọi việc diễn tiến đúng kế hoạch. Nguyễn Hoàng kéo trăm chiến thuyền căng buồm về nam.
Tin Nguyễn Hoàng trốn vào nam làm triều đình rúng động. Chúa Trịnh cả giận ý muốn hạ ngục đám con cháu Nguyễn Hoàng còn ở Thăng Long. Ngự Sử Lê Nghĩa Trạch can:
-Khải chúa, tội của Nguyễn Hoàng đã rõ. Y thua trận tự ý bỏ đi xét ra chỉ mang án trảm. Chúa thượng với y vốn tình cậu cháu, nay hành hình đến con cháu e dư luận càng thêm hoang mang.
Lê Bật Tứ khải:
-Thần tự xét mang tội vì xét đoán lầm người, đã mấy đêm trằn trọc thao thức nghĩ suy. Thần nghĩ chắc Nguyễn Hoàng đã cấu kết với lũ Ngạn Khuê mưu đồ mở đường để y trốn về Thuận Hóa xưng hùng xưng bá, thoát vòng kiềm tỏa triều đình. Nếu gặp cơ hội tốt, chắc chắn y sẽ phản nghịch, ung nhọt mới phát phải trừ khử ngay, để lâu gây họa.
Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan nãy giờ yên lặng. Chúa hỏi:
-Ý quan trạng ra sao?
-Khải chúa, chuyện Nguyễn Hoàng bỏ đi đã rõ. Nhưng điều ta phải xét y vẫn để con cháu ở lại như những con tin, ấy là tỏ ra không có ý phản nghịch. Nhưng phép nước phân minh, chúa thượng lấy tình gia tộc biên thư quở trách răn đe xem y sử xự thế nào rồi ta sẽ liệu. Ðiều ta cần bàn là phải đối phó ra sao với tình thế hiện tại rối ren?
Chúa trầm ngâm giây lâu:
-Quan trạng nói hợp ý ta. Nay quân nghịch nổi lên khắp nơi, chúng tuy đông nhưng ô hợp, bọn chỉ huy thường chia rẽ chẳng ai nhường ai, ta không mấy quan ngại. Ý ta sẽ giữ chặt các trấn, tạm đem hoàng thượng về Tây Ðô bỏ ngỏ Thăng Long dụ chúng tập trung vào rọ, ta sẽ đánh mẻ lưới lớn tiêu diệt.
Thái Phó Trịnh Ðồ em ruột chúa nhận lệnh khai triển kế hoạch. Chỉ nội mười ngày, triều đình nhà Lê đã dời về Tây Ðô.
Nguyễn Hoàng về đến Ái Tử xiết đỗi vui mừng gặp lại năm con trai và đàn cháu nội, nhất là thấy cảnh dinh cơ bề thế, quân lương dồi dào… Trong bữa tiệc đoàn viên, Phúc Nguyên thưa với cha:
-Việc thầy bỏ đi gây xôn xao triều chính. Con biết Trịnh Tùng giận lắm, nhưng tình hình đất bắc rối loạn nên hắn chưa dám tỏ thái độ rõ rệt, còn chờ xem mình xử sự ra sao?
-Thầy cũng nghĩ như các con. Tùng vì thể diện phủ chúa sẽ có lời trách cứ, ta cứ hòa dịu giữ mối giao hảo tốt giữa hai nhà rồi sau sẽ liệu.
Phúc Nguyên nghĩ cha nói phải nhưng vẫn cẩn thận cho quân bố phòng các nơi hiểm yếu.
Cuối tháng sáu, trời cuối hạ vẫn có những ngày nắng gắt, mùa thu như còn xa chưa muốn trở lại đúng chu kỳ đất trời. Một buổi chiều, mặt trời đang ngả dần sau ngọn đồi phía tây, Nguyễn Hoàng ở tướng phủ bỗng nghe quân hầu báo có sứ bộ triều đình do Ngự Sử Lê Nghĩa Trạch từ Tây Ðô mới vào đang ở công quán. Nguyễn Hoàng sai Phúc Nguyên chuẩn bị sẵn kiệu đến mời Nghĩa Trạch vào tư dinh. Nguyễn Hoàng nói:“Ngự Sử Nghĩa Trạch là tay thông thái, có tài biện bác, tính tình ngay thẳng, con khá cẩn thận xử đúng lễ nghi”. Phúc Nguyên gặp Trạch vòng tay thi lễ nói:
-Quan Ngự Sử thay mặt triều đình quá bước đến đây quá bất ngờ, chúng tôi tiếp đãi chẳng trọn lễ xin niệm tình miễn chấp.
-Ta đến vì việc nước, nào sá chi lễ nghi, thời buổi chiến chinh mọi sự nên giảm bớt.
-Nguyễn Quốc Công sắp sẵn kiệu mời ngài qúa bước lại tư dinh, tôi vâng mệnh quốc công rước ngài ngự kiệu.
Khi kiệu Nghĩa Trạch vừa vào dinh, Nguyễn Hoàng thân ra đón tiếp. Nghĩa Trạch thi lễ:
-Mừng gặp Quốc Công, ông trọng tuổi vẫn linh hoạt tráng kiện.
Nguyễn Hoàng nói:“Tạ ông tiếng khen”, mời Nghĩa Trạch nhập tiệc khoản đãi. Hai người nâng cốc đối ẩm chẳng mấy tự nhiên, dăm chuyện bâng quơ đầu Ngô mình Sở, như không muốn làm tăng không khí u uẩn nặng nề. Rượu vài tuần, Nguyễn Hoàng mở lời:
-Tôi tiếp ông hôm nay như anh em một nhà, trong tình đồng liêu. Sớm mai sẽ có nghi lễ chính thức nhận thư chúa thượng.
Nghĩa Trạch lặng yên, nâng cốc uống cạn. Nguyễn Hoàng ôn tồn chậm rãi tiếp:
-Tôi phải bỏ đi thật vạn bất đắc dĩ. Một lời hứa với chúa thượng khi xuất quân làm chẳng trọn, thua trận mặt mũi nào trở về. Tôi đành liều về lại Thuận Hóa tìm kế lập công, thà chịu lỗi với chúa còn hơn hồi triều khôi giáp tả tơi, binh mã tan tác.
-Ông nói vậy tôi biết vậy. Tỏ thật cùng ông, khi ông bỏ đi triều đình rúng động. Chúa thượng giận lắm phân bua với triều thần: Sách có chữ quốc gia hưng vong thất phu hữu trách, huống chi các ông là bậc đại thần nghĩa phải vui buồn theo mệnh nước. Nguyễn Quốc Công (chỉ Nguyễn Hoàng) với nước là bề tôi huân cựu, với ta là tình gia tộc chí thân. Xưa nhà Lê bị họ Mạc tiếm nghịch ngôi báu, tiên tổ Chiêu Huân Tĩnh Công(Nguyễn Kim) khởi xướng đại nghĩa. Tiên tổ giữa đàng đứt gánh, phụ thân ta Minh Khang Thái Vương(Trịnh Kiểm) xả thân gánh vác trọng trách quốc gia. Thái Vương nghĩ tình ruột thịt trao Quốc Công trấn giữ hai xứ Thuận Quảng. Bao nhiêu năm Quốc Công làm trọn chức trách ta vẫn ghi công. Khi ta lấy lại Thăng Long, thiên hạ đã yên, Quốc Công ung dung trở về, triều đình ưu đãi trao chức Hữu Tướng Ðoan Quốc Công. Ý ta muốn Hai vị Quốc Công(Nguyễn Hoàng và Hoàng Ðình Ái) như hai cột trụ xã tắc, cùng ta kề vai chia sẻ gánh vác gầy dựng sự nghiệp trung hưng…
Nghĩa Trạch bỗng ngừng. Nguyễn Hoàng lặng yên. Trạch nói tiếp nhưng lảng sang chuyện khác:
-Việc tôi vào đây là theo ý chúa thượng, cũng là cho ông biết chút tình hình. Nhà vua và chúa thượng hiện ở Tây Ðô, ý chúa thượng muốn bỏ ngỏ Thăng Long dụ địch tập trung vào rọ rồi diệt sau, chừng tháng sau quân ta bắc tiến. Riêng bọn Phan Ngạn và Buì Văn Khuê, sau khi ông bỏ đi, ta chưa đánh chúng đã tan, cả hai bỏ xác trên Hoàng Giang làm mồi cho cá.
Nguyễn Hoàng điềm tĩnh:
-Cổ nhân từng dạy, đánh trăm trận thắng chưa hẳn là hay. Không đánh mà thắng, khiến binh người phải khuất phục mới là điều hay nhất. Chúa thượng quả đệ nhất danh tướng xưa nay.
-Không hẳn như thế. Trong lúc tửu hậu xin kể ông nghe chuyện hiếm có trên đời. Ông hẳn nhớ Nguyễn Thị vợ Văn Khuê?
Nguyễn Hoàng vui đùa:
-Cái gì tôi còn quên, nhưng mỹ nhân thì chớ hề. Nàng từng làm Mạc Hậu Hợp điên đảo say mê dẫn cơ nghiệp họ Mạc đến xụp đổ.
-Ông nhớ không nhầm. Tôi kể tiếp: Một hôm Khuê mời Ngạn sang thuyền bàn việc quân, sau đó bày tiệc khoản đãi. Hôm ấy Nguyễn Thị có mặt trên thuyền. Thấy Nguyễn Thị nhan sắc kiều diễm, trong lúc quá chén Ngạn buông lời ong bướm lả lơi. Khuê giận lời qua tiếng lại. Ngạn trở về trại, nghĩ Khuê sẽ bội phản nên ra tay trước, đang đêm bất ngờ kéo quân đánh úp. Khuê không phòng bị rút chạy, cuối cùng tử thương. Nguyễn Thị đêm ấy ở trên bờ cùng hai con nên thoát chết. Mấy ngày sau, Nguyễn Thị chọn được khoảng mười người lính giỏi võ cho mặc quần áo thoa son đánh phấn giả làm tì nữ, riêng nàng trang điểm lộng lẫy cùng các nữ tì chèo đến bên thuyền Phan Ngạn. Thấy thuyền chở toàn đàn bà không có chi đáng sợ. Nguyễn Thị cười vui, nói từ lâu ngưỡng mộ Ngạn ý muốn cùng Ngạn kết tóc se tơ. Ngạn cả mừng cho tất cả sang thuyền mình, bày yến tiệc khoản đãi. Ðêm tàn dần, Ngạn say mèm ngã gục. Nguyễn Thị rút dao cắt đầu Ngạn bỏ vào tráp gỗ, cùng thủ hạ sang thuyền chạy như bay đến xã Chi Phong, bày bàn thờ đem đầu Ngạn tế chồng. Hôm sau, nàng dặn hai con trai về Tây Ðô quy thuận triều đình rồi trầm mình tự tử. Hoàng thượng thương xót liệt nữ truyền lập đền thờ.
Nguyễn Hoàng nghe chuyện chợt buồn, bồi hồi nghĩ đến Ngô Thị Ngọc Lâm, khẽ buông tiếng thở dài. Ðêm đã khuya Nghĩa Trạch cáo từ.
Sáng hôm sau, Nguyễn Hoàng chuẩn bị nghi vệ cùng chư tướng đến đón sứ giả vào công đường. Hoàng trân trọng nhận thư chúa Trịnh. Thư có đoạn viết:“… Khi bọn nghịch thần Ngạn Khuê nổi loạn, cháu tin giao cậu nắm binh quyền dẹp loạn. Nào ngờ cậu tự ý bỏ vào Thuận Hóa khiến quân dân dao động, không hiểu là do ý cậu hay nhầm quỷ kế nghịch thần. Nay bọn phản nghịch tự giết lẫn nhau. Mới hay đạo trời tỏ sáng, tai họa không kịp trở gót. Cậu là bậc cao minh há quên công nghiệp tiên tổ, sớm tỉnh ngộ, hối lỗi trước, tuân pháp điển triều đình nên sai người đến hành tại lạy trình, đốc nộp thuế má cung việc chi dụng quốc gia. Cậu làm vậy huân danh sự nghiệp bao đời vững bền, bằng không lẽ thuận nghịch tất rõ. Cậu làu thông kinh sử xin cạn nghĩ khỏi hận về sau…”.
Nguyễn Hoàng đọc xong thư, hứa làm đúng ý triều đình, lại viết thư riêng cho chúa Trịnh tỏ bày mọi lẽ, ngỏ ý muốn gả gái út Ngọc Tú cho Quận Công Trịnh Tráng, con trưởng chúa Trịnh để tỏ tình thân tộc gắn bó. Việc xong, Nghĩa Trạch và sứ bộ trở về Tây Ðô.
Sứ bộ ra về, Nguyễn Hoàng yên tâm mặt bắc gọi Phúc Nguyên nói:
-Thầy vào Thuận Hóa là theo lời Trạng Trình chỉ dậy. Một dải Hoành Sơn dung thân muôn đời. Bao năm chinh chiến mặt bắc nay trở lại như cánh chim tha phương tìm về tổ ấm. Nay tuổi trời đã nặng, như chiến mã về già chán cảnh sa trường gươm kiếm, thầy muốn thong thả nhàn du khắp vùng Thuận Hóa xem sự tình dân chúng, cùng là phong thủy hình thái núi non sông biển, nghĩ kế lâu dài gây dựng cho con cháu mai sau.
Mấy ngày sau, Nguyễn Hoàng cùng vài mươi gia tướng lên đường đi vào phương nam. Ðoàn người đến núi Cư Chính, những dãy núi chạy vòng chầu quanh ngọn cao nhất, những giòng thác suối chảy về hướng mặt trời. Nguyễn Hoàng linh cảm đây là nơi khởi thủy dựng nên nghiệp lớn. Vào sâu nữa là Thụ Sơn, ngọn núi được bao bọc bốn phía bởi những ngọn núi thấp trùng điệp, hai phía tả hữu nước chảy vòng, trông quả phúc địa chung đúc khí thiêng sông núi. Có ngọn núi đỉnh bằng phẳng trông như tấm bình phong gọi là núi Bằng, có ngọn dáng tròn tựa tựa miệng chén gọi là núi Ngọc Trản… Vó ngựa một chiều dừng chân trên Hải Vân Sơn hùng vĩ, những ngọn núi cao vút tầng mây, dưới là vùng biển xanh lăn tăn sóng gợn. Ðoàn người phải vượt qua bao đường vòng vèo um tùm lau lách vô cùng hiểm trở, phía bắc có hang Giơi, hàng vạn loài phi thử treo mình kín vách núi, Nguyễn Hoàng tận mắt nhìn những ngọn sóng thần cao vài chục trượng ầm ầm nối nhau dội vào chân núi. Câu ca dân gian truyền tụng”Ði bộ thì khiếp Hải Vân. Ði thủy thì sợ sóng thần hang Giơi” có ngay từ khi người Việt vượt Hải Vân Sơn tiến vào vùng đồng bằng xứ Quảng.
Giữa mùa thu, nghe tin chúa Trịnh chỉ huy bắc tiến đã tái chiếm Thăng Long, vua Lê và triều thần trở lại đất bắc. Nguyễn Hoàng trở về Ái Tử ra lệnh Nguyễn Phúc Nguyên cử người ra kinh đô chúc mừng chiến thắng, nộp thuế hàng năm, lại viết thư riêng cho chúa, nhắc việc hôn nhân giữa Thanh Quận Công Trịnh Tráng và Nguyễn Thị Ngọc Tú.
Nghỉ ngơi vài ngày, Nguyễn Hoàng và gia tướng theo đường thủy, từ thượng nguồn Tả Trạch sông Lô Dung, giòng nước uốn lượn quanh co giữa núi rừng sâu thẳm mang mùi hương nhẹ như tơ của loại sâm rừng, xương bồ mọc ở đầu nguồn. Qua trên năm mươi ngọn thác hùng vĩ, giòng sông xanh thẳm thênh thang đi về vùng cây cỏ xanh tươi, đêm ngày như tấm thảm êm đềm nhận ánh sáng từ trời, từ trăng sao lung linh lấp lánh, qua những vùng đồi núi, núi sông gần gũi cận kề soi bóng, quấn quít trong màn sương khói mờ ảo. Sông núi đất trời giao hòa tuyệt vời thơ mộng… Thuyền xuôi đến xã Hà Khê, Nguyễn Hoàng ngồi bên mạn thuyền bỗng chú ý đến ngọn đồi nhỏ dáng như rồng cuộn. Vị lão tướng bỏ thuyền lên bờ theo con đường mòn lên đồi. Một vùng phong cảnh tốt tươi cây xanh bóng mát, phía sau đồi có hồ lớn nước đỏ đục ngầu như máu. Nguyễn Hoàng lấy làm lạ, gặp cụ già hỏi han. Cụ bảo đây là đất của thần linh, người xưa kể lại: Hằng đêm thấy có bà cụ quần xanh áo đỏ không biết từ đâu đến ngồi bên hồ. Có kẻ gặp hỏi. Bà cụ bảo đây là long mạch. Cụ ngồi chờ vị chân chúa phương nam đến, dựng cảnh chùa thu góp khí thiêng dựng nên nghiệp đế. Nói xong biến mất.
Ðêm ấy Nguyễn Hoàng trằn trọc thao thức nghĩ suy, nghiệm ra cơ duyên thần nhân xui mình lạc bước đến ngọn đồi này. Sáng ra, Nguyễn Hoàng thức sớm lên lại ngọn đồi, đến bên hồ nước. Lạ thay qua đêm, nước hồ mất mầu đỏ trở nên xanh trong mát mẻ lạ thường. Ðoan quyết điềm trời đã ứng cho mình ngôi vị tiên chúa phương nam, Nguyễn Hoàng quỳ lạy tạ trời đất, lên đường trở lại Ái Tử. Ðêm ấy cha con tâm sự, Nguyễn Hoàng kể cho con nghe mọi chuyện:
-Ngày thầy còn trên đất bắc, có lần trở lại quê nhà được người làng kể cho nghe chuyện thầy địa lý nói ngôi mộ tiên tổ họ Nguyễn táng đúng hàm rồng, cứ năm trăm năm mới mở một lần. Nay thêm chuyện trên đồi Hà Khê, thầy nghĩ điềm trời đã ứng. Họ Trịnh làm chúa phương bắc thì ta làm chủ phương nam. Ðất Thuận Quảng phía bắc có Hoành Sơn hiểm trở, phía nam có Hải Vân Sơn xứng danh “Ðệ nhất hùng quan” chính là nơi trời dành cho anh hùng dụng võ. Mai sau con nối nghiệp phải trau dồi đạo đức, yêu thương nhân dân, luyện tập quân sĩ để dựng nghiệp muôn đời. Ngay ngày mai con kíp chọn vài trăm quân đến Hà Khê dựng ngay cảnh chùa. Thầy đặt tên chùa là Thiên Mụ Tự.
Ðầu xuân năm Tân Sửu 1601, chúa Tiên (từ đây người phương nam gọi Nguyễn Hoàng là chúa Tiên) nhận thư chúa Trịnh định ngày cử hành hôn lễ Trịnh Tráng-Ngọc Tú tại Thăng Long. Một buổi nắng rực rỡ, những nụ mai vàng xòe cánh hớn hở chào xuân, Ngọc Tú gạt lệ giã cha lên kiệu hoa về làm dâu họ Trịnh. Chúa Tiên đứng lặng nhìn con mà khóc trong lòng. Người già nước mắt chảy vào trong. Thôi đành giã biệt gái yêu, một lần đi là hết, ngày chúa lâm chung Ngọc Tú sẽ chẳng có bên giường nhìn cha lần cuối.
Tiết Thanh minh hoàn thành việc xây chùa Thiên Mụ, chúa Tiên lại có dịp neo thuyền trên bến Hà Khê, bâng khuâng soi bóng trong giòng nước lững lờ. Buổi sáng sông xanh, sông ôm trọn mầu xanh của trời, của cây lá, của núi rừng. Buổi xế nắng vàng trải như tơ trời óng ánh lung linh sóng gợn, buổi hoàng hôn tím mầu quan san, cái mầu bãng lãng xa xăm mang nỗi nhớ thiết tha chỉ tả được qua thi văn của ngòi bút thiên tài… Có tiếng sơn ca hót lẻ loi, đâu đây vẳng câu hò xa vắng buồn lai láng. Dân Việt bao năm lao nhọc khổ ải chiến chinh đến bao giờ tìm được mùa xuân mơ ước. Mùa xuân bình yên, người lính bỏ giáo gươm ngồi thổi sáo trên bến sông.
Ðêm xuống dần, trăng sao chừng ngủ yên dưới đáy sông. Chúa Tiên vẫn ngồi lặng yên uống rượu một mình. Chúa cảm được làn sương đêm nhẹ thấm trên vai áo, hương gió thơm mùi ngọc lan huyền hoặc liêu trai, ánh sao khuya hiu hắt… Năm mươi năm chinh chiến lao khổ một đời nay phải sống để nhìn cảnh gia đình ly tán, tử biệt sinh ly, những đứa con kẻ bắc người nam, danh vọng sự nghiệp phù vân. Một thoáng trăm năm còn lại ngần ấy… Có tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân vang. Tiếng chuông hòa trong sương gió rồi lịm dần chơi vơi chìm vào cõi phiêu bồng…
SÃI VƯƠNG
Sắp đúng ngọ, những tia nắng chói mặc sức tỏa nóng. Trời tịnh, hàng thông ven sông bất động trầm mặc chịu đựng dãi dầu. Dọc bãi cát ven sông Ái Tử, một đoàn khoảng hai mươi người lầm lũi bước chậm uể oải mỏi mệt. Ði đầu là vài thanh niên tuổi trên dưới ba mươi, kẻ quần người khố, mấy phụ nữ áo váy nâu bạc nhăn nhúm, kẻ dắt người bồng vài đứa trẻ gầy còm, đứa quần ngắn cũn cỡn, đứa cởi truồng nòng nõng. Những đứa trẻ gầy yếu, tóc lởm chởm bụng ỏng đít teo. Sau cùng là mấy cụ gia khẳng khiu lưng còng tóc bạc…
Có tiếng trẻ khóc thét, tiếng người mẹ dỗ nhưng đứa trẻ cứ ưỡn lên gào. Bà cụ chép miệng:“Thằng bé khát sữa”. Một cụ ông từ phía sau bước nhanh tới nói với chàng trai đi đầu:“Trời nóng người người mệt lả, ta nên dừng nghỉ lo cơm nước. Tôi còn dăm bát gạo với tí sắn khô đủ nấu nồi cháo loãng. Ðàng nào ta cũng đã tới Ái Tử, chẳng nên quá vội vã.” Chàng trai ngừng quay lại, thoáng nhìn những bàn chân khô nứt nẻ dọc ngang vết gai cào xước sau bao ngày băng rừng vượt suối, những bàn chân sưng tấy muốn rỉ máu, chàng chỉ cây đa phía trước:“Các cụ cố vài bước đến đấy hẵng ngơi”. Ðoàn người đến gốc đa dừng lại. Kẻ xuống sông rửa ráy, tắm giặt, kẻ lo bếp núc, quây quần ngồi húp cháo quanh gốc cây chuyện vãn rôm rả, kẻ giọng Thanh Nghệ, người giọng miền ngoài Sơn Nam Kinh Bắc. Họ mang chung nỗi thống khổ kiếp lầm than phải tha phương cầu thực, tìm về phương nam như chốn cứu độ thoát cảnh đời u tối. Húp xong bát cháo nóng, cụ già vui chuyện:“Tôi quê xứ Nghệ, huyện Nghi Xuân. Trời xui gặp cảnh khổ, năm kia lụt thủy thần cướp mất mụ vợ, chết mấy ngày sau mới tìm thấy xác tấp vào bụi tre cuối thôn. Năm sau mất luôn hai thằng con trai vì dịch bệnh. Ngoài năm mươi tuổi chịu cảnh táng vợ khóc con, xiết bao đau xót. Nghe phương nam đất đai mầu mỡ khí hậu hiền hòa, lại có chân chúa nhân ái hằng tâm cứu giúp người lầm than nên đánh liều dẫn thằng con út bỏ xứ ra đi, cũng là cách vùi sâu quên lãng những đắng cay khổ ải”. Cụ già ngừng nhìn con trai đang say ngủ dưới gốc cây. Cụ tiếp:“Cái hòm gỗ nhỏ kia đựng hài cốt cha tôi, cùng là vợ con. Mình đi chẳng lẽ bỏ cha ông vợ con côi cút, cố mang nắm tro tàn vào nam may ra táng đúng cuộc đất phát, con cháu mai sau đỡ vất vả khổ nhọc từng bữa chạy ăn”. Một người đàn ông lên tiếng:“Hoàn cảnh tôi lại khác. Sinh ra ở chốn thị thành, gia đình khá giả, sau chỉ vì cờ bạc, mê say từ mấy con thất văn cửu vạn đến đồng tiền sấp ngửa mà táng gia bại sản, nhà cửa cầm cố chẳng có tiền chuộc. Xấu hổ với làng nước đành phải dắt díu vợ con ra đi…” Nghe người đàn ông nói, người vợ đang ôm con nghĩ tủi phận quay sang phía khác sụt sùi. Ông cụ quay sang hỏi chàng trai ngồi cạnh:“Trường hợp của chú thì sao?” Chàng trai ra vẻ lưỡng lự rồi chậm rãi kể:“Chẳng dấu gì quý cụ, tôi vốn người kẻ chợ (Thăng Long), tổ phụ mấy đời làm tôi nhà Mạc. Khi vua Lê chúa Trịnh chiếm Thăng Long, nghĩ không thể cúi đầu chịu nhục trước cơn quốc biến, tôi chạy lên mạn Lạng Sơn phù vua Càn Thống (Mạc Kính Cung). Trải nhiều thất bại, nhà vua chạy sang đất Long Châu cầu cứu người Tàu giúp sức hòng đạt lại ngôi báu. Tôi thối chí ngã lòng, nghĩ người Tàu chẳng bao giờ thực tâm giúp đỡ dân ta. Bao năm xa nhà, thương cảnh vợ chờ con đợi nên bỏ ngũ, dẫn vợ con trốn đi phương nam tìm đất sống”. Cụ già tướng rắn rỏi vẫn lặng yên ngồi sau chàng trai bỗng lên tiếng:“Thôi cũng là cơ duyên, mỗi người một hoàn cảnh nhưng bọn ta cùng nhìn một hướng, cùng ngóng về nam, như bầy chim bỏ xứ mong tìm đất lành. Cơ trời xui gặp dưới chân Hoành Sơn, dắt dìu nhau vượt đèo lội suối băng rừng đến vùng đất hứa. Tôi nghĩ giá không có các chú trẻ trung tháo vác chắc lũ già bọn tôi đã bỏ xác dọc đường… Nay tuổi già sức yếu, gạo nước chẳng còn, chắc nội buổi xế ta phải đến cửa quan cậy người giúp đỡ…” Câu chuyện dở dang khi mọi người nghe có tiếng ngựa hí, năm võ tướng trên lưng chiến mã phi nước kiệu ra phía bến sông. Ðoàn người vụt đứng cả dậy vòng tay trước ngực, lũ trẻ con hết nhốn nháo lặng yên nép bên mẹ sợ sệt. Trông thấy đám người lạ, một võ tướng còn trẻ dừng ngựa bước xuống hỏi. Ông cụ người Nghệ lễ phép kể lể nguồn cơn. Võ tướng nghe xong đi tới gặp vị võ quan mặt đỏ, râu ba chòm uy nghi đường bệ trên lưng con ngựa trắng cao lớn. Lát sau, viên võ quan trở lại nói:“Các người theo ta về quán trạm tạm nghỉ qua đêm. Chớ lo lắng vì quán có kẻ lo sẵn giường chiếu chăn màn, đồ ăn thức uống. Việc định cư quan trên sẽ liệu sau, bước đầu có khó khăn nhưng quyết không để ai đói khát”. Ðoàn người vui mừng rảo bước như trút hết lo âu mệt nhọc. Viên võ quan nói với ông cụ đi cạnh:“Các người tốt phúc gặp ngay chúa thượng. Ngài chính là người râu ba chòm cưỡi ngựa trắng. Ngài sùng đạo Phật, nhân từ khoan hậu. Dân chúng tôi thường gọi ngài là Sãi Vương hay Chúa Sãi, có kẻ gọi Phật Chủ”.
*****
Ðịnh mệnh như định sẵn ngôi vị chúa tể phương nam cho người con trai thứ sáu của Tiên Chúa Nguyễn Hoàng. Tiên Chúa đông con trai, cả thảy mười người. Năm trai đầu được đặt tên chỉ hai chữ, từ Nguyễn Hà, Hán, Thành, Diễn, Hải. Một đêm, Nguyễn Thị Phu Nhân nằm mơ thấy chữ Phúc từ trời rơi trên bụng, từ đấy thụ thai sinh người trai thứ sáu. Ðứa bé sinh ra khôi ngô tuấn tú, trán cao miệng rộng, tai dài như tai phật, tiếng khóc dội mấy gian nhà. Tiên Chúa mừng sinh quý tử, định đặt tên con là Phúc, sau nghĩ nếu vậy chỉ có một người được hưởng nên dùng chữ Phúc làm tên đệm chung cho con cháu mai sau. Lại nghĩ căn nguyên chữ Phúc từ đây mà có nên đặt tên con là Nguyễn Phúc Nguyên. Phúc Nguyên khôn lớn tỏ ra thông minh nhân hậu, tính cẩn trọng nhìn xa trông rộng. Năm Quý Tỵ 1593, Tiên Chúa cùng năm con trai đầu ra Thăng Long bái yết vua Lê. Phúc Nguyên ở lại cai quản Thuận Hóa. Sau gần tám năm chinh chiến ở đất bắc, Tiên Chúa trốn về lại Ái Tử. Mười ba năm sau, năm Quý Sửu 1613 Tiên Chúa mãn phần, các con trai lớn đều đã mất, chỉ còn người thứ năm là Quận Công Nguyễn Hải đang ở tại quê nhà, huyện Tống Sơn Thanh Hóa. Nguyễn Phúc Nguyên đương nhiên thay cha làm chúa phương nam, hợp với ước vọng Tiên Chúa vì ngài thực sự tin yêu nhất người con thứ sáu của mình. Năm ấy Phúc Nguyên đã năm mươi mốt tuổi, thừa chín chắn và kinh nghiệm từng trải trên hai mươi năm cầm quân. Dân phương nam mến người đức độ cứu họ thoát cảnh đời cơ cực, lại thấy tân chúa vốn sùng đạo Phật, từng xây dựng bao cảnh chùa danh tiếng nên xưng tụng ngài là Sãi Vương hay Chúa Sãi, coi họ Nguyễn là chúa tể phương nam.
Tại Thăng Long, nhận tin Nguyễn Hoàng từ trần, vua Lê chúa Trịnh gửi sứ giả vào viếng, truy tặng Nguyễn Hoàng làm Cẩn Nghi Công. Nhà vua sắc phong Nguyễn Phúc Nguyên làm Thụy Quận Công thay cha trấn thủ hai xứ Thuận Quảng. Chúa Sãi niềm nở tiếp sứ thần, tỏ lòng tuân phục mọi mệnh lệnh, hứa nộầp đủ các sắc thuế triều đình quy định từ trước…
Sau khi sứ giả về bắc, Chúa Sãi lo ngại hỏi ý Tham Tướng Nguyễn Triều Văn. Văn là người đồng hương với chúa, kiến thức uyên bác lại một lòng tôn phù được chúa quý mến. Chúa nói:
-Ta biết sứ giả vào đây mục đích chính là thăm dọ tình hình, ta niềm nở nhưng y vẫn tỏ vẻ ngờ. Ngươi đôi phen tiếp xúc thấy ý y thế nào?
-Việc họ Trịnh ngờ vực ta theo ý thần là hiển nhiên, không phải bây giờ mà từ thời Tiên Chúa. Nhất là mới đây, họ Trịnh không biết do đâu phát giác ra tung tích phu nhân có liên hệ huyết thống với nhà Mạc. Y còn biết ta trọng đãi Mạc đại nhân (Mạc Cảnh Huống, em Khiêm Vương Mạc Kính Ðiển) như bề tôi rường cột. Nói chuyện với thần, sứ giả cố tình khoe sức mạnh binh lực họ Trịnh hòng đe dọa ta. Y nói trước sau gì Mạc Kính Cung và tàn quân sẽ bị tiêu diệt.
Chúa nghe Triều Văn nói bỗng “à” lên một tiếng. Thì ra thế, nguyên người vợ chúa yêu nhất là Mạc Thị Giai. Cơ duyên xui bà gặp gỡ công tử Nguyễn Phúc Nguyên, nên nghĩa vợ chồng. Phu nhân xinh đẹp đoan trang thuần hậu, sống lễ nghi khuôn phép, lại sinh cho chúa con trai đầu là Nguyễn Phúc Kỳ nên được chúa yêu vì, cho đổi thành họ Nguyễn. Tàn quân Mạc ở vùng Cao Bằng Lạng Sơn hiện do Mạc Kính Cung chỉ huy. Chúa nói:
-Thân phụ ta biết sức còn yếu, vẫn muốn duy trì giao hảo giữa hai họ Trịnh Nguyễn nên gả em gái ta Ngọc Tú cho Trịnh Tráng. Nay ta mới lên ngôi cao phải trọng tôn ý phụ thân, nhưng giả họ Trịnh cố tình gây hấn, theo ngươi nên dụng cách chi đối phó?
-Ðất bắc vốn nhiều người tài nhìn xa trông rộng hết lòng phú tá họ Trịnh. Có kẻ đã từng khuyên Trịnh Tùng nên ngừa trước họa phiên trấn, tìm cách thu bớt quyền hành hai xứ Thuận Quảng. Tùng sở dĩ chưa dám làm vì nội tình chưa yên, mặt bắc còn bị đe dọa. Nếu họ Trịnh thắng thế cố tình dòm ngó phương nam, cho dù họ đông quân nhưng di chuyển xa, nhiều ngăn trở. Ta yếu quân nhưng dựa vào thế hiểm phòng chống, một chọi được mười nên không có chi đáng ngại, điều cần quan quân trên dưới một lòng quyết chiến. Chúa thượng nên phòng xa củng cố binh lực. Luôn dọ thám địch tình để tùy cơ ứng phó, ấy là thượng sách.
Chúa nghe đẹp dạ. Năm sau, chúa tìm cách liên hệ với người Bồ Ðào Nha học hỏi kỹ thuật phương tây, mở phường đúc súng đạn. Mặt khác chúa trọng đãi tướng sĩ, thường xuyên diễn tập bộ binh lẫn tượng binh, xây thành đắp lũy. Chúa thường nói với quần thần:“Thuận Quảng là đất trời dành cho ta dựng đại nghiệp. Trạng Trình khuyên tổ phụ ta vượt Hoành Sơn vào nam vì ngài thấy rõ thiên cơ”. Với anh em con cháu trong nhà cũng như quần thần, chúa một mực ngay thẳng công bình tùy tài năng công trạng phong chức tước. Chúa phong trai trưởng Nguyễn Phúc Kỳ làm Trấn Thủ Quảng Nam tước Quận Công, ý muốn chọn Phúc Kỳ nối nghiệp sau này. Người em thứ mười của chúa Quận Công Nguyễn Phúc Khê tài năng đức độ được chúa quý mến giao nhiều trọng trách phong chức Tổng Trấn. Trong khi các em trai khác Nguyễn Phúc Hiệp và Nguyễn Phúc Trạch lĩnh chức Chưởng Cơ, cai quản hơn trăm quân trấn phía nam ChiÔnh Dinh ( tức dinh Ái Tử). Mầm bất mãn ngấm ngầm nẩy sinh trong anh em, Hiệp và Trạch không bằng lòng chức phận, nghĩ người anh xử sự thiếu công bình nhưng cả hai yên lặng chờ thời cơ. Cho đến khi Nguyễn Vệ, cháu đích tôn của Tiên Chúa (Vệ là con trai trưởng của Nguyễn Hà) được Chúa Sãi phong chức Chưởng Dinh, Nguyễn Tuyên em Vệ trở thành võ tướng chỉ huy cấm binh giữ Chính Dinh, Phúc Hiệp không dằn được bực tức. Hiệp bàn với Trạch:
-Khi thân phụ sắp lìa trần căn dặn anh em phải gắn bó yêu thương nhau. Thân phụ mất mồ chưa xanh cỏ, ông ấy (chỉ Chúa Sãi) đã vội quên di huấn. Chức trấn thủ Quảng Nam lẽ ra của tôi, ông ấy dành cho con. Phúc Khê chỉ là em út lại được trọng đãi. Ngay đến mấy thằng cháu Nguyễn Vệ Nguyễn Tuyên cũng nắm chức quyền hơn chú nó, tôi hỏi chú vậy trong gia tộc còn chi trật tự tôn ti. Ông ấy cố tình phá vỡ tôn ti, mưu bá đồ vương xưng hùng một cõi, phản lại nguyện vọng tổ phụ một lòng phù Lê. Giòng họ nhà ta mang tiếng phản nghịch hổ danh với hậu thế. Trăm năm bia đá cũng mòn mà ngàn năm bia miệng chẳng dứt.
Phúc Trạch trầm ngâm giây lâu trả lời:
-Tôi thấy điều ấy từ lâu nhưng chưa tiện nói. Quả ông ấy xử với anh em ta quá bạc bẽo, lặng yên sinh ấm ức, nghĩ mãi chẳng ra cách giải quyết.
-Tôi nghĩ có chi là khó, chỉ ngại chú không quyết tâm hỗ trợ tôi.
Phúc Trạch mừng:
-Vậy ra anh đã có kế sách. Thưa thật anh bảo nhảy vào lửa Trạch này cũng chẳng từ.
-Nào khó chi. Chú nghĩ công lao trung hưng nhà Lê tuy do tổ phụ (chỉ Nguyễn Kim) nhưng ngài mất sớm. Bác Trịnh (chỉ Trịnh Kiểm) thay tổ phụ bao năm chinh chiến nằm gai nếm mật, tiếp đến Trịnh Tùng tiết chế binh quyền, mấy chục năm gian nguy mới chiếm lại Thăng Long. Thân phụ ta trấn giữ Thuận Quảng chỉ ra kinh đô nhận công thưởng. Xét công lao họ Trịnh rất lớn, lại đối xử với giòng họ ta không quá tệ, vẫn đặt ông Nguyên vào chức trấn thủ Thuận Quảng, làm vua một cõi miễn sao nộp đủ sưu thuế hàng năm. Ông Nguyên và bọn cận thần không lấy vậy làm ân, cố tình kèn cựa đòi hưởng bổng lộc chức vị ngang với họ Trịnh là điều trái lẽ. Nếu chú bằng lòng, tôi sẽ liên lạc với Trịnh Tráng, dù gì nó vẫn là em rể, mai sau sẽ nối chức cha quyền nghiêng thiên hạ. Tôi sẽ cho Tráng biết âm mưu của ông Nguyên, hẹn quân Trịnh khởi binh chinh phạt, ta làm nội ứng lo chi việc không thành. Lúc ấy ta chỉ xin họ Trịnh tiếp tục cho tôi và chú chia nhau chức trấn thủ hai xứ Thuận Quảng.
Phúc Trạch cả mừng khen diệu kế, cả hai quyết tâm bí mật xúc tiến kế hoạch. Thanh Quận Công Trịnh Tráng nhận mật tin bàn với phụ thân nên nhân cơ hội chinh phạt phương nam, bẻ gẫy âm mưu tự chủ của Chúa Sãi từ trong trứng nước. Chúa Trịnh cho là phải truyền chuẩn bị xuất quân. Mọi việc tưởng êm xuôi nào ngờ đất bắc xẩy nhiều chuyện rối rắm. Mùa xuân trung tuần tháng giêng năm Kỷ Mùi 1619, kinh đô Thăng Long bị hỏa hoạn chưa từng có. Ngọn lửa bốc từ phủ chúa vào quá trưa cao vài mươi trượng được gió đẩy như rồng gặp nước, thiêu cháy hầu hết dinh cơ, lan ra cả phố phường, vào tận cửa Ðoan Môn của triều đường, đến tối mịt quân dân mới dập tắt lửa. Ngoài thiệt hại vật chất, thêm mấy mươi người tử vong, tiếng gào khóc thâu đêm tiếc của tiếc người. Chúa Trịnh rầu rĩ phát ốm hàng tháng. Tháng ba, triều đình bàng hoàng rối loạn do vụ Quận Công Trịnh Xuân con thứ chúa Trịnh cấu kết với vua Lê Kính Tôn âm mưu sát chúa bằng súng và chất nổ. Việc lộ, cả hai bị bắt giam trong cung. Vua Lê lại là rể của chúa, chồng Trịnh Thị Ngọc Trinh. Cuối cùng vua bị bức tử. Chúa chọn Duy Kỳ là cháu ngoại (con trưởng Kính Tôn và Ngọc Trinh) lên ngôi tức vua Thần Tôn. Phần Trịnh Xuân thay vì nhận án tử, chỉ bị biệt giam trong cung cấm. Thời gian sau chúa thương con nên tha tội Xuân, lại cho phục chức nắm giữ binh quyền lập công chuộc tội.
Tại Thuận Hóa được tin biến loạn, chúa Sãi cười nói với quần thần:“Tùng chẳng cần biết có vua thì con hắn cũng chẳng cần biết có cha. Ðạo trời báo ứng chẳng sai bao giờ.” Tháng sau trong phiên chầu chúa lại nói:“Ta nghĩ biến loạn tại triều đình do Trịnh Tùng sắp đặt tìm cách giết vua cho hợp lẽ. Nhưng chính hắn đã dạy con mình bài học phản trắc coi thường đạo lý chỉ do tranh đoạt quyền lực. Ta tin mai này Trịnh Tùng đêm ngủ không yên giấc, mong chi đạt hai chữ bình an mà tự xưng Bình An Vương.”
Phần Phúc Hiệp và Phúc Trạch được tin bồn chồn lo lắng sợ việc không thành. Sang thu, Hiệp lại cho người liên lạc với Trịnh Tráng bàn lại việc cũ. Trịnh Tráng thưa với chúa. Chúa Trịnh nói:“Ðây là chuyện ta cần dè dặt nghĩ suy, tránh tiếng đôi bên giòng họ bôi mặt đá nhau. Nhất là lại vừa xẩy ra mấy chuyện buồn lòng, ngoài dân mất mùa đói kém, ta nên thư thả đợi sang năm hãy tính”. Tuy chúa nói thế nhưng Trịnh Tráng lại hứa với gia tướng của Phúc Hiệp rằng sang xuân sẽ động binh. Ý Tráng muốn đánh Chúa Sãi càng sớm càng tốt, cũng là cách chuẩn bị an toàn vững ngôi chúa tể của mình một mai phụ thân khuất núi.
Ðầu xuân năm Canh Thân 1620. Trịnh Tráng thưa với chúa:“Nay Hiệp và Trạch quyết tâm theo ta, tình nguyện làm nội ứng, nếu để quá lâu không hành động tất chúng ngã lòng. Vừa rồi con lại nhận thư Hiệp thúc dục. Con nghĩ kế hay nhất ta cứ đem vài ngàn quân trấn ngay sông Nhật Lệ, gọi là tuần tra. Nếu Hiệp Trạch làm nên chuyện, ta tiến quân phụ giúp, bằng không lại rút. Thế là ổn mọi bề.” Chúa suy nghĩ giây lâu rồi thuận. Ðô Ðốc Nguyễn Khải nhận lệnh chúa Trịnh chỉ huy năm ngàn tinh binh tiến về nam.
Tại Thuận Hóa, Hiệp và Trạch nghe tin quân Trịnh nam tiến cả mừng. Trạch bàn với Hiệp:
-Trịnh đã động binh, ta xúc tiến ngay công việc. Ý tôi phải làm sao tách Nguyễn Tuyên khỏi ông Nguyên vì hắn luôn kề cận ông ấy. Tuyên võ nghệ cao cường, đa mưu túc kế ta khó động thủ. Khi thành kế điệu hổ ly sơn, ta sẽ bất ngờ hạ sát ông ấy đoạt binh quyền, mở đường cho quân Trịnh tiến vào.
-Làm cách nào điệu hổ ly sơn?
-Ta bàn với ông Nguyên cử Tuyên chỉ huy quân ra Nhật Lệ ngăn Trịnh, tôi chắc ông Nguyên sẽ nghe.
Chúa Sãi nghe tin quân Trịnh vào án binh bên sông Nhật Lệ. Chúa họp quần thần bàn thảo. Tham Tướng Nguyễn Triều Văn nói:
-Tâu chúa thượng, thần nghĩ quân Trịnh động binh chưa hẳn có ý đánh ta vì chưa có cớ chinh phạt, chỉ nói là tuần tra xứ Nghệ. Tuy nhiên ta vẫn phòng xa, bí mật điều quân, sẵn sàng đánh trả nếu Trịnh trở mặt.
Phúc Hiệp tiếp lời Triều Văn:
-Quan Tham Tướng quả cao kiến, việc bí mật điều binh ra Nhật Lệ hợp lẽ. Tôi nghĩ nên giao trọng trách cho Nguyễn Tuyên. Tuyên quen chinh chiến, nhiều mưu sâu kịp thời ứng phó tình hình.
Chúa Sãi bãi chầu, hẹn ngày mai quyết định mọi việc. Buổi chiều, chúa ngồi sau hiên một mình uống rượu ngắm hoa, những đóa phù dung nở sớm nhởn nhơ trước gió. Nguyễn Tuyên bước ra cúi chào. Tuyên tuổi ngoài bốn mươi, là cháu ruột gọi chúa là chú. Trong các cháu, chúa gần gũi yêu quý Tuyên như con, cho phép vào dinh chúa bất cứ lúc nào. Ban đêm Tuyên thường ngủ lại dinh cắt đặt cấm binh tuần phòng bảo vệ chúa. Tuyên vũ dũng mưu lược, trầm tĩnh nghĩ suy nên chúa tín cẩn. Chúa nói:
-Ta có mỹ tửu khách thương phương bắc mới tặng, cháu thử xem sao, lát ta có chuyện bàn…
-Chú thích phù dung, cháu không biết thưởng hoa nên thấy hoa nào cũng đẹp.
Chúa cười ôn tồn:
-Ngắm hoa là một trong những thú vui thanh cao, cháu phải hiểu biết về hoa mới phân biệt được hoa nào là quý.
Uống xong chén rượu, chúa vui miệng chỉ những gốc mai xanh biếc lá ở góc vườn:
-Ngay như loài mai cháu thường thấy cũng có nhiều loại. Vùng này nhiều mai vàng, còn gọi là lạp mai. Giống này thân cứng thẳng, lá xanh mượt khác với giống bạch mai hoa trắng và thơm, dáng phong vận, đẹp mà cốt cách. Mùa xuân, trong trăm hoa thì mai nở đầu tiên. Cổ nhân nói “Tiên hướng bách hoa đầu thượng khai” là chỉ ý đó. Còn phù dung, hoa nở vào hai mùa xuân thu. Cây phù dung trong vườn ta rất quý, thuộc loại “tam sắc túy phù dung”, có nghĩa phù dung say biến ba sắc, sớm trắng, trưa đỏ, tối mầu càng đậm. Ta đang cố tìm loại phù dung quý thường được người đời gọi “văn quan hoa”. Giống hoa ngày đầu nở trắng, ngày hai đỏ lợt, ngày ba sắc vàng, ngày bốn đỏ thẫm rồi rụng biến thành mầu tía…
Chúa say sưa nói chuyện hoa, từ các loại đào xinh đẹp đến hoa lê say trăng cợt gió… Ðợi chúa nói hết, Nguyễn Tuyên tần ngần một lúc mới mở lời:
-Chuyện bàn sáng nay về việc quân Trịnh, ý chú quyết định ra sao?
-Chú định theo ý chú Phúc Hiệp bàn. Mai cháu chuẩn bị kéo quân ra sông Nhật Lệ, tùy cơ ứng biến.
-Cháu xin thưa, chuyện năm ngàn quân Trịnh tiến vào Nhật Lệ theo cháu chẳng phải ngẫu nhiên mà ẩn dấu một ý đồ ta chưa khám phá ra. Lòng cháu phân vân ngờ vực từ chuyện trong nhà. Từ lâu cháu biết ý hai chú Hiệp Trạch không bằng lòng với chức phận, việc quân bê trễ, thường cùng nhau rượu chè, xa lánh mọi người.
-Nhưng chuyện hai chú và quân Trịnh nào có chi liên hệ?
-Cháu xin tiếp. Từ vài tháng nay, cháu thấy hai chú bỗng dưng đổi tính, thường xuyên hợp tác luyện binh bày trận, lại dùng cả tượng binh tập công thành. Nay quân Trịnh đột nhiên động binh khiến cháu càng ngờ vực thêm.
Chúa nghe Tuyên nói có vẻ chột dạ:
-Nhưng ta chưa có bằng cớ xác thực chứng minh sự thật, vậy nên tính sao?
-Cháu đã có chủ trương, chỉ cần chú thuận.
Nguyễn Tuyên kề tai chúa thì thầm. Chúa nghe xong đăm chiêu suy nghĩ. Chiều dần tàn, mặt trời đã khuất sau ngọn đồi xa, trời xanh trong nhẹ nắng, có cánh cò lẻ loi cuối chân trời. Chúa khẽ thở dài:“Ðược, cháu liệu việc khá vẹn toàn, mai ta sẽ tiến hành đúng kế sách của cháu”. Ðêm ấy chúa thao thức, đêm dài lê thê.
Sáng sớm, chúa triệu tập một số cận thần. Chúa nói với Phúc Hiệp:“Ta sẽ làm theo kế sách chú trình hôm qua”. Hiệp nghe cả mừng:
-Tuyên cầm quân đi, em sẽ đem quân về bảo vệ ChiÔnh Dinh vì đây còn thưa lính, ta bố trí Phúc Trạch giữ vòng ngoài, thế là mọi sự chu toàn.
Chúa ra vẻ suy nghĩ:“Các chú cứ trở về giữ cơ đội, lo phòng thủ, việc đến ta sẽ liệu sau”. Ý Hiệp và Trạch muốn gần gũi chúa để dễ sát hại, đồng thời chiếm cứ Chính Dinh đón quân Trịnh tiến vào. Nghe chúa nói, cả hai miễn cưỡng lên đường nhưng vẫn mừng, đánh giá mưu đồ thành công một nửa. Hiệp nói với Trạch:“Tuyên đem hết quân đi, ChiÔnh Dinh kể như bỏ trống, ta tìm cách lọt vào thành, nội công ngoại kích tất thủ thắng.”
Nguyễn Tuyên cùng anh là Nguyễn Vệ nhận lệnh chúa dẫn gần năm ngàn quân lên đường tiến ra phía bắc. Vừa qua địa phận Ái Tử, Tuyên nói với Vệ:
-Theo lệnh chúa thượng, anh dẫn hai ngàn quân đến bờ nam sông Nhật Lệ ém binh theo dõi sát địch tình, tuyệt đối cấm không cho bất kỳ ai vượt sông. Phần em có nhiệm vụ khác, anh kíp lên đường.
Nguyễn Vệ lập tức kéo quân đi. Tuyên cho quân bố trí đêm ngày canh giữ các trục lộ chính, lệnh quân xét hỏi bất cứ ai khả nghi. Hai ngày sau, quân canh báo đã bắt giữ kẻ khả nghi đang phi ngựa trong đêm. Y xưng là tùy tướng của Chưởng Cơ Nguyễn Phúc Hiệp, khám trong người tìm được một phong thư niêm kín. Tuyên đọc thư, thư Phúc Hiệp gửi Ðô Ðốc quân Trịnh Nguyễn Khải. Hiệp định ngày tấn công ChiÔnh Dinh, đề nghị Nguyễn Khải vượt sông tấn công cầm chân quân Nguyễn. Tuyên vừa mừng vừa giận, gặp riêng viên tùy tướng hỏi:
-Người là ai? Ði đâu, có việc gì?
-Tôi là tùy tướng của quan Chưởng Cơ. Quan ra lệnh tôi mang thư trao tận tay Nguyễn Ðô Ðốc, nhận thư hồi âm xong gấp rút trở về.
-Chỉ thế thôi ư?
-Thưa vâng, chỉ có thế.
-Ngươi biết nội dung thư?
-Tôi chỉ mang thư theo lệnh chủ tướng, tuyệt không biết thư gì.
Ngay đêm ấy, Nguyễn Tuyên đem viên tùy tướng về ChiÔnh Dinh tường trình chúa mọi việc. Chúa nghe giận tái người, lại nghĩ xấu hổ vì mới đây, chúa từng xỉ vả chê bai họ Trịnh cốt nhục tương tàn. Chúa gọi người em út, Quận Công Nguyễn Phúc Khê hỏi cách đối phó. Khê nói:“Việc này anh phải sử xự phân minh, không vị tình riêng mà quên phép nước. Tôi có cách vạch mặt bọn phản nghịch”. Chúa hỏi cách chi? Phúc Khê đáp:
-Tôi sẽ giả thư Nguyễn Khải gửi cho Hiệp Trạch định ngày khởi binh, giao viên tùy tướng về trao tận tay Hiệp. Khi chúng kéo quân về đây, ta cho phục binh vây kín, nếu đầu hàng ta dung, bằng chống sẽ bị tiêu diệt.
Chúa trầm ngâm:
-Dù sao ta cứ xử trọn nghĩa huynh đệ. Ðích thân tôi và chú sẽ dùng lời phải trái khuyên can, cực chẳng đã mới dùng vũ lực.
Phúc Khê cho là phải, thảo ngay thư, cho gọi viên tùy tướng vào dinh. Khê nghiêm nghị:
-Tội ngươi đáng chết nhưng ta nghĩ kẻ làm tôi phải vâng mệnh chủ tướng nên tạm tha. Nay ngươi theo lệnh ta mang thư này về trao chủ tướng. Việc chỉ có thế. Ta biết ngươi còn mẹ già, vợ dại con thơ hiện ở ngoại dinh. Nếu phản trắc mạng ngươi chẳng còn mà gia đình cũng khốn.
Viên tùy tướng sợ hãi cúi lạy, đập trán trên sàn khóc lóc tạ tội. Phúc Khê lệnh cởi trói, trao thư, cấp thêm tiền bạc, dặn dò cách đối đáp nếu chủ tướng hạch hỏi. Nói xong khiến y lên đường ngay. Phúc Khê ra lệnh cho Nguyễn Tuyên xúc tiến ngay kế sách đối phó.
Năm ngày sau, chúa cùng Phúc Khê thức dậy khi còn tối đất. Anh em đang ngồi uống trà đàm đạo bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập càng lúc càng gần. Chúa biết quân Hiệp Trạch đang kéo đến, bèn cùng Phúc Khê bước lên vọng lâu theo dõi.
Từ xa, Phúc Hiệp cỡi ngựa dẫn đầu khoảng năm trăm quân tiến thẳng đến cổng dinh, thấy trong dinh lặng yên không một ánh lửa. Hiệp mừng lắm nghĩ bên trong không phòng bị, cho ngựa đến dưới dinh hét lớn gọi trưởng canh mở cổng vào yết kiến chúa thượng có việc cơ mật. Hiệp gọi dăm lần mới thấy có tiếng trả lời:
-Bẩm quan Chưởng Cơ, chúa thượng mới ra nghiêm lệnh cấm bất cứ ai vào dinh buổi sớm nếu không có phép chúa. Quan Chưởng Cơ xin đợi đến đầu giờ thìn chúng tôi sẽ trình tâu.
Phúc Hiệp cả giận:
-Ta là em chúa thượng nào ai xa lạ. Mở cổng ngay, chuyện khẩn cấp.
-Bẩm quan, chúng tôi chỉ tuân lệnh chúa thượng. Xin ngài miễn thứ.
Biết không thể thuyết phục trưởng canh, Phúc Trạch bàn nên tấn công gấp. Phúc Hiệp lệnh toán tượng binh chuẩn bị dàn hàng ngang tràn vào cổng dinh, súng thần công lên lửa sẵn sàng nhả đạn. Bỗng có tiếng hét lớn từ trên vọng lâu:
-Ta chưa truyền lệnh, các chú vô cớ kéo quân về đây là nghĩa lý chi?
Nhận ra giọng Chúa Sãi, cả Hiệp lẫn Trạch hơi hoảng nhưng đến nước này không thể dừng, Phúc Hiệp hét lớn:
-Chúng tôi nhận lệnh nhà vua kéo quân đánh phản nghịch. Ông mở cổng dinh ngay, nếu không chớ oán trách.
-Các chú nói lạ. Ai phản nghịch? Vì tình nghĩa huynh đệ, tôi muốn hai chú lui binh, anh em gặp gỡ đàm đạo cảm thông.
Phúc Khê đứng bên chúa lên tiếng:
-Xin các anh nghe lệnh chúa thượng giải quyết chuyện êm đẹp, chớ gây mất hòa khí anh em.
Nghe Phúc Khê nói, Phúc Hiệp mắng lớn:“Mi là thằng em út lại muốn lên mặt dậy đời. Lũ bay cấu kết chống triều đình, mưu đồ làm chúa phương nam, tội đã rành rành cách chi chối cãi”. Nói xong hạ lệnh tấn công.
Bỗng pháo lệnh nổ vang, quân Nguyễn do Nguyễn Tuyên chỉ huy từ bốn phía reo hò như sấm dậy tràn vào trận tuyến. Trên dinh, toán cung nỏ phục sẵn bắn tới tấp vào toán tượng binh, tiếng địa lôi nổ khói bụi mịt mù. Toán tượng binh hốt hoảng chạy trở lui đạp chết cơ man lính. Nửa số quân buông giáo đầu hàng. Hiệp Trạch mở đường máu rút tàn quân tháo chạy về lũy Cồn Cát cố thủ. Nguyễn Tuyên tỏa quân vây kín, bắc loa kêu gọi đầu hàng. Thấy Trạch tinh thần nao núng, Hiệp trấn an:
-Ta vững tâm cố thủ chờ quân Trịnh, tôi đoan chắc chỉ dăm ba ngày họ sẽ tới.
-Tôi nghĩ chỉ còn cách ấy. Quân ta còn ít, không cách chi đối địch lại Tuyên.
Qua hai ngày không nghe động tĩnh, Nguyễn Tuyên tức giận hai chú ngoan cố. Tuyên nói với tướng sĩ:“Bên trong chỉ còn khoảng hai trăm quân, ta có đến ba ngàn, nhất quyết san bằng lũy tóm gọn lũ phản nghịch. Ta thề chỉ trong hai ngày là xong”. Tuyên chia quân thành nhiều toán liên tục tấn công không cho địch nghỉ ngơi, dùng súng thần công bắn tới tấp. Ðêm thứ hai, toán lính canh trong lũy lén mở cổng, quân Tuyên tràn vào. Hiệp và Trạch bị bắt sống tại trận giải về ChiÔnh Dinh. Chúa Sãi chẳng thèm nhìn em, truyền tống giam ngục tối. Phúc Khê nói với chúa:“Pháp bất vị thân, anh cứ xét xử công minh làm gương cho kẻ khác”. Chúa lặng yên.
Phần Ðô Ðốc Nguyễn Khải án binh ở Nhật Lệ chờ mãi chẳng thấy Hiệp Trạch liên lạc. Sau biết việc không thành nên ra lệnh rút quân.
Ít lâu sau, người người đều hay Hiệp và Trạch đã chết trong ngục. Có người bảo cả hai chết do bị bỏ đói, kẻ lại bảo do tự sát…
Sau vụ phản nghịch, chúa buồn bã thường đi đây đó giải khuây. Chúa năng vãn cảnh chùa, coi câu kinh tiếng kệ như niềm an ủi vô biên đưa con người thoát cảnh khổ ải thế tục. Việc triều chính một tay Phúc Khê giải quyết trừ việc hệ trọng mới tâu lên chúa. Một hôm chúa đang ngự ở chùa Thiên Mụ bỗng nhận thư khẩn của Phúc Khê xin chúa hồi triều vì có sứ giả Chân Lạp sang xin giao hảo triều cống. Gặp Phúc Khê, chúa hỏi:
-Hồi còn trấn thủ Quảng Nam, thỉnh thoảng tôi có gặp thương gia Chân Lạp sang buôn bán. Người Chân Lạp tóc rậm da đen, nhỏ con nhưng rắn chắc, bản tính hiền hòa sùng đạo Phật còn hơn người mình. Nay họ cử sứ thần sang ta muốn giao hảo, chú thử đoán ngoài ra họ còn có ý chi khác?
-Tôi đã gặp sứ giả, y là người lịch thiệp nhìn xa trông rộng. Ðặc biệt viên phó sứ nói rành tiếng Việt, y vốn người gốc Thanh Hóa, tổ phụ phiêu bạt sang Chân Lạp đến đời y là thứ ba. Tôi dọ hỏi tình hình xứ ấy, những điều y nói phù hợp với điều các giáo sĩ Tây Dương đã kể tôi nghe về nước Chân Lạp. Ðại khái Chân Lạp phía bắc tiếp giáp Chiêm Thành, phía nam có biển, phía tây là Xiêm La. Chân Lạp đất đai mầu mỡ nhưng rất thưa người nên thường bị Xiêm xâm lấn, loạn lạc chẳng mấy khi yên. Vua Chân Lạp hiện nay còn trẻ mới ngoài ba mươi, nhà vua bấy lâu mến mộ uy danh chúa nước nam nên muốn giao hảo, ngỏ ý xin làm phò mã nhà chúa. Tôi nghĩ ngoài ý ấy, họ chẳng có chi để ta ngờ vực.
-Chân Lạp với ta cách xa ngàn dặm, nay phải gả Ngọc Vạn lấy chồng phương xa lòng ta xót quá đỗi, chú nghĩ ta có nên bằng lòng?
-Tất cả vì đại cuộc, sự tồn vong do ta tự quyết. Chủ trương của ta lúc này là hòa hoãn với cả hai phía bắc nam do quân lực chưa đủ mạnh chịu đựng cuộc chiến dài lâu. Anh hẳn nhớ thân phụ phải nhún nhường cầu thân gả Ngọc Tú cho Trịnh Tráng. Nay Ngọc Vạn tuy lấy chồng xa nhưng họ cũng là vua một nước, hợp cảnh môn đăng hộ đối, kết thân với lân bang là điều nên làm. Hơn nữa, ta kết thân với Chân Lạp cũng là cách cô lập Chiêm Thành, người Chiêm không cùng văn hóa với ta, tin thờ tà đạo, phản trắc vô lường. Một khi ta kết nạp được Chân Lạp, việc mở cõi về nam thuận lợi nhiều bề, ấy là kế sách dài lâu chớ nên để hỏng.
-Chú bàn thuận tai nhưng ta nên hỏi qua ý Mạc chính phi, dẫu sao Ngọc Vạn cũng là con bà, mọi việc thuận cửa nhà êm đẹp. Chú xếp đặt sứ giả gặp ta sáng sớm, việc xong để họ về, chớ nên bắt chờ lâu vì đường cách trở xa xôi.
Tối hôm ấy chúa bàn chuyện với chính phi, phi nói:
-Chuyện Ngọc Vạn, con gái lớn lấy chồng là lẽ thường tình. Ngặt nỗi duyên phận éo le xe định con làm dâu người nước khác, đất lạ quê người.. Em biết chúa thượng gả con cho vua Chân Lạp cũng là tính chuyện đại sự nước non. Việc nước để trước việc nhà, cái chi lợi là làm. Phần Ngọc Vạn, phận gái tùy cha mẹ đặt để, nhưng ta nên lo toan mọi lẽ cho con ấy là trách nhiệm phụ mẫu. Em nghĩ nên lưu viên phó sứ lại thời gian, dậy con nghi lễ cùng chữ nghĩa, tiếng nói nhà chồng để con đỡ ngỡ ngàng khi làm dâu nhà người, xứng vai mẫu nghi, rạng danh đất nước. Ngọc Vạn nhan sắc mặn mà, thông minh lanh lợi chắc chắn học thông. Ta buộc nhà chồng phải theo đúng lệ hôn nhân nước ta, làm đủ nghi lễ đón dâu. Ấy là cách chứng tỏ bề thế uy nghi triều đình, phân minh thượng hạ.
Hôm sau sứ giả triều kiến chúa dâng thư vua Chân Lạp cùng nhiều lễ vật quý giá, chúa hài lòng. Quận Công Nguyễn Phúc Khê cho sứ giả biết đòi hỏi của Ðại Việt, thuận cho vua Chân Lạp cử hành đón dâu vào cuối hạ. Sứ giả hoan hỉ cảm tạ tuân ý chúa để viên phó sứ ở lại, mọi việc khác sẽ trình nhà vua khi về nước.
Một ngày cuối hạ, dù trời nắng gắt, những ngọn gió tây khô khốc thổi rát mặt. Dân chúng bên bờ sông Thạch Hãn lũ lượt đổ ra ven sông nhìn đoàn thuyền sơn son thiếp vàng lạ mắt từ từ rẽ sóng tiến về ChiÔnh Dinh, kinh đô vị chúa phương nam. Dân bàn tán rôm rả nhìn thấy trên thuyền thấp thoáng nhiều vị sư áo vàng. Ðến ChiÔnh Dinh, đoàn thuyền neo hàng ngang trên bến. Chiếc thuyền nhỏ chạm hình rồng vàng kết hoa rực rỡ neo sát bờ, bên cạnh là chiếc thuyền lớn nhất chở hai vị cao tăng và vị đại thần thay mặt vua đến cử hành nghi lễ đón công chúa Ngọc Vạn về làm dâu Chân Lạp.
Hôm sau, đoàn sứ thần Chân Lạp lập hương án trên thuyền, trải chiếu hoa từ bến sông đến lộ chính tiếp đón Quận Công Nguyễn Phúc Khê, đại diện chúa Sãi đến báo tin lành chúa thuận cho vua Chân Lạp làm rể nước Ðại Việt. Vị đại thần đại diện nhà vua quỳ quay về hướng nam, lạy năm lạy tạ ơn chúa. Ngày tiếp, vị đại thần, hai vị cao tăng cùng đoàn tùy tùng mang sính lễ cơ man trân châu bảo ngọc đến Chính Dinh triều kiến chúa, mời chúa xuống ngự thuyền rồng, tặng vật vua Chân Lạp dâng nhạc phụ. Chúa đẹp dạ ban thưởng phò mã vàng bạc, áo mão cân đai, truyền bày tiệc thịnh soạn thết đãi cả đoàn. Buổi sáng nghênh hôn, công chúa Ngọc Vạn sau khi đến cáo lạy, dâng lễ vật tại lăng Tiên Chúa, đoạn trở về cung hầu phụ mẫu, nhận lời giáo huấn, tạ ơn sinh thành dưỡng dục. Sau đó công chúa nhận ngự tửu chúa ban, tạ phụ mẫu mỗi người năm lạy, bùi ngùi bước lên kiệu hoa cùng đoàn người gồm bốn thị nữ, toán khiêng kiệu, toàn những chàng trai khỏe mạnh khôi ngô, có học thức lẫn võ nghệ. Bốn thị nữ và các chàng trai khiêng kiệu được vua Chân Lạp thỏa thuận cho theo công chúa sang ở luôn tại Chân Lạp. Chúa Sãi và Mạc Chính Phi thương con côi cút nơi xứ người nên chọn số ít người thân tín theo hầu bảo vệ con, cố duy trì liên lạc dù công chúa ở quá xa cách. Ðoàn nhà trai chờ sẵn ở cổng chính đưa công chúa xuống thuyền phụng chờ sẵn bên giòng Thạch Hãn. Giòng sông xanh êm đềm nhưng giông bão trong lòng người đi, Ngọc Vạn nức nở rời kiệu bước xuống thuyền…
Sau nhiều ngày mệt nhọc lênh đênh trên biển, đoàn thuyền ghé bến Chân Lạp. Ngọc Vạn nhìn lên bờ thấy dân tụ tập nhộn nhịp, nhạc cử tưng bừng lạ tai.
Một đoàn thiếu nữ xiêm y rực rỡ, tóc búi cao cài hoa thơm ngát đón nàng lên kiệu hoa sơn son thiếp vàng rực rỡ. Trên đường vào kinh đô, dân chúng đứng hai bên đường ca hát đón chào. Thấy người người vui, Ngọc Vạn cảm thấy yên tâm ngắm nhìn cảnh lạ.
Hoàng cung Chân Lạp xây cất quy mô bề thế hơn hẳn Chính Dinh. Khi Ngọc Vạn rời kiệu hoa bước trên con đường trải chiếu hoa vào vương phủ, các cung nữ thi nhau tung hoa chào đón. Những loại hoa sứ, hoa cúc, hoa sen… như ở quê nhà phủ ngập đường tỏa hương thơm dịu mát. Khoảng sân rộng trước vương phủ chật ních bá quan văn võ. Giữa tiếng chiêng trống, tiếng tấu nhạc rộn rã, vua Chân Lạp khôi ngô đường bệ mặc hoàng bào bước xuống ngai đón Ngọc Vạn giữa tiếng tung hô của triều thần. Nhà vua vui mừng nhìn công chúa nước Việt trắng trẻo kiều diễm, hơn hẳn hai người vợ đang sống với vua từ nhiều năm trước.
Từ đấy vua sủng ái Ngọc Vạn, quý nàng hơn trân châu bảo ngọc, truyền xây cung điện nguy nga tráng lệ, cùng người đẹp say đắm hoan lạc miệt mài như chưa từng nếạm hương vị tình ái. Những chàng trai Việt theo Ngọc Vạn đều được đãi ngộ, phong quan chức. Tin lành về tới Chính Dinh. Ba năm sau, những người Việt đầu tiên có mặt ở vùng Ðồng Nai Mô Xoài (Sài Gòn và Biên Hòa ngày nay) canh tác hoặc buôn bán.
Mối giao hảo giữa hai nước Việt Chân Lạp đang tốt đẹp bỗng gặp biến cố. Năm Ất Sửu 1625, vua Chân Lạp lâm trọng bệnh từ trần, triều đình rối loạn do phe thân Xiêm La mưu đoạt quyền hành muốn loại bỏ ảnh hưởng của nhóm thân Ðại Việt. Cảm thấy người Việt ít ỏi không thể chống lại nước Xiêm La kế cận, Ngọc Vạn dù được đặt làm hoàng thái hậu vẫn nhận ra mối nguy, tìm cách rời khỏi triều đình. Nàng cùng hai con trai lánh vào chùa sống ẩn dật.
Năm năm sau, triều đình Chân Lạp lại xẩy ra nhiều biến loạn đổ máu do các hoàng tử tranh ngôi báu. Cuối cùng, hoàng tử Rama Chan do có mẹ là người Lào, được người Lào hợp tác giúp đỡ đoạt ngai vàng. Tân Vương thân Lào tìm mọi cách loại trừ người Việt. Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn được gia nhân bảo vệ cùng hai con về vùng Ðồng Nai khẩn hoang lập ấp, vùng đất hoang dần trở thành trù phú, tấp nập con buôn người Việt, người Tàu, có cả người Tây Dương sang mua hồ tiêu và truyền đạo Gia Tô. Ngọc Vạn xây dựng chùa truyền bá đạo Phật. Chẳng bao lâu, bà trở thành nhân vật được trọng nể tại vùng Thủy Chân Lạp.
Tại kinh đô, vua Chân Lạp không ngừng củng cố quyền hành. Vua hà khắc độc đoán, sẵn sàng tàn sát bất chấp cả những người trong hoàng tộc. Một số hoàng thân tìm cách qua vùng Ðồng Nai liên kết chống lại nhà vua. Ðoán chắc Ðồng Nai sẽ bị tấn công, Ngọc Vạn bí mật liên lạc với Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (cháu nội chúa Sãi), cho chúa biết tình hình Chân Lạp rối ren, xin chúa khẩn cấp can thiệp bằng võ lực cứu nguy cho ba mẹ con và đám hoàng tộc cô thế đang bị đe dọa.
Nhận tin, xót tình máu mủ, chúa Hiền tức tốc sai Phó Tướng Nguyễn Phúc Yên đem ba ngàn quân tinh nhuệ tiến vào Ðồng Nai. Rama Chan đích thân điều binh chống cự bị quân Việt chận đánh tan tác. Quan quân mạnh ai nấy chạy, nhà vua chậm chân bị bắt sống tại trận. Chúa Hiền không muốn Chân Lạp xáo trộn, truyền tha nhà vua nhưng buộc phải triều cống. Hai con trai Ngọc Vạn là Batom và Ang Non cai quản toàn vùng Thủy Chân Lạp, tạo thuận tiện tối đa cho người Việt vào canh tác buôn bán. Khi vua Chân Lạp chết (năm 1660), chúa Hiền hậu thuẫn cho Batom lên ngôi vua, Ang Non thành Phó Vương. Ngọc Vạn được dân kính trọng như Phật sống. Có ai nghĩ bà đã đi những bước đầu mở đường cho người Việt tiến vào phương nam chiếm trọn vùng Thủy Chân Lạp trù phú, kéo dài lãnh thổ Ðại Việt đến tận vùng Cà Mau xa thẳm…
***
Tháng sáu năm Quý Hợi 1623, kinh đô Thăng Long lại xẩy ra biến loạn lớn. Xuân Quận Công Trịnh Xuân, con thứ Bình An Vương Trịnh Tùng, người từng gây bạo loạn mấy năm trước. Lợi dụng thân phụ ốm nặng, nổi loạn chiếm phủ chúa mưu đoạt binh quyền của anh là Thanh Quận Công Trịnh Tráng. Chúa Trịnh bỏ phủ chạy đến huyện Thanh Trì. Em ruột của chúa Quận Công Trịnh Ðỗ lập mưu viết thư gọi Xuân đến gặp phụ vương để nhận binh quyền. Trịnh Xuân trúng kế bị sát hại nhưng chúa cũng mệnh vong. Trịnh Tráng thay cha nắm binh quyền trong cơn biến loạn phải hộ tống vua và triều thần rút về Tây Ðô (Thanh Hóa). Lợi dụng tình hình rối ren, Mạc Kính Khoan ở Cao Bằng kéo quân về chiếm lại Hải Dương, hàng vạn dân hưởng ứng theo Mạc. Kính Khoan cậy đông quân tiến về huyện Gia Lâm mưu chiếm kinh đô. Tại Tây Ðô, Trịnh Tráng chấn chỉnh quân ngũ, chia hai mặt thủy bộ tiến ra bắc. Quân Mạc đại bại rút chạy. Vua và triều thần trở lại Thăng Long, phong Trịnh Tráng tước Nguyên súy Tổng quốc chính Thanh Ðô Vương, quyền tiết chế chư quân thủy bộ.
Tại Thuận Hóa, Chúa Sãi được tin chúa Trịnh đã mất, tình hình đất bắc rối ren bèn họp quần thần nghị bàn. Có kẻ tâu chúa nên thừa cơ gia đạo họ Trịnh tan tành, nghĩa vua tôi sụp đổ, không ai tin họ Trịnh thật tâm phù Lê, phía bắc quân Mạc tràn xuống, nên nhân cơ hội tiến quân đánh Nghệ An Thanh Hóa. Chúa suy nghĩ giây lâu:“Ý các người không phải không hợp lẽ. Nhưng ta với họ Trịnh vốn là thông gia, chẳng nên thừa cơ họ gặp gian nguy mà đánh còn chi nhân nghĩa”. Nói xong truyền Tham Tướng Nguyễn Triều Văn và vài bộ tướng lên đường ra bắc, mang lễ vật đến phúng cùng dọ thám tình hình. Triều Văn trở về tâu chúa họ Trịnh nay nắm toàn quyền, đám quan lại phù thịnh chẳng còn ai nghĩ đến vua Lê, thiếu niên mới mười bốn tuổi.
Chúa Trịnh sau khi ổn định triều chính, nghĩ ngay đến việc Thuận Quảng. Mấy năm qua Chúa Sãi tuyệt không nộp thuế, chúa muốn nhân cơ hội cho người vào đòi thuế, dọ thám tình hình phương nam, nếu cần có thể hưng binh vấn tội biểu dương sức mạnh củng cố uy quyền. Thị Lang Nguyễn Duy Thì nhận lệnh chúa lên đường.
Sứ bộ đến Chính Dinh, Chúa Sãi tiếp đón đúng lễ nghi nhưng tìm cách thoái thác không cho kiểm soát sổ sách thu chi. Chúa nói với sứ giả:“Mấy năm nay thuế má thất thu, lại mất mùa đói kém. Tôi gắng lắm cũng chỉ đủ tiền lo binh bị nói chi đến chuyện thuế má”. Thị Lang Duy Thì ngỏ ý muốn vào Quảng Nam. Chúa nói đường xá xa xôi cách trở, giặc cướp như ong nên chẳng dám chiều ý. Duy Thì hiểu ý Chúa Sãi kiếm cách ngăn trở, dẫn sứ bộ hồi triều làm tờ khải dâng Chúa Trịnh:“… Quận Công Nguyễn Phúc Nguyên trấn thủ Thuận Quảng thoái thác không chịu nộp thuế triều đình, coi khinh phép nước, chỉ lo tuyển tướng luyện quân, luyện tập voi ngựa, chế tạo khí giới… rõ có ý phản nghịch”.
Chúa Trịnh đọc tờ khải nổi giận truyền gọi đám cận thần luận bàn. Chúa nói:
-Phúc Nguyên được triều đình rộng lượng, tin giao cho trấn cõi ngoài làm phên giậu. Nay nó trở mặt khinh nhờn coi thường phép nước, ý ta muốn cất quân chinh phạt, bẻ gẫy âm mưu từ trứng nước, chư khanh nghĩ liệu có nên chăng?
Thị Lang Lê Bật Tứ vẻ tức giận:
-Khải chúa thượng, từ lâu thần vẫn tâu bày về cái họa phiên trấn. Ðất nước muốn thịnh phải thống nhất một nhà, chúa thượng lẽ nào để kẻ khác đến bên giường nằm ngáy? Các xứ Lạng Sơn Cao Bằng, Thuận Quảng bấy lâu ngang ngược do ta bỏ lâu không ngó ngàng. Nay chúa thượng là chúa tể thiên hạ, dưới tay tướng quân dũng mãnh có thể khiến núi lở sông cạn, nếu nương tay không động thủ là dưỡng hổ di họa, vậy nên quyết đoán, bảo vệ cơ nghiệp muôn năm của nước nhà.
Nhiều người đồng tình lý lẽ Bật Tứ. Ðô Ðốc Nguyễn Khải hăng hái tình nguyện làm tiên phong đạo quân phạt Thuận Quảng. Thiếu Bảo Nguyễn Danh Thế lại có ý khác:
-Thần nghĩ các quan hữu lý. Theo ý thần, ta nên dành sức thanh toán cái ung nhọt ngụy Mạc ở phía bắc trước rồi tính chuyện Thuận Quảng cũng chẳng muộn.
Sau khi nghị bàn gay go, chúa thuận theo ý Danh Thế, truyền chuẩn bị binh lương phạt Mạc.
Mùa hạ năm Ất Sửu 1625, chúa cử con trai thứ Quận Công Trịnh Kiều, Thái Bảo Nguyễn Danh Thế thống lĩnh năm ngàn quân tiến đánh Thái Nguyên Cao Bằng. Thủ lĩnh quân Mạc là Mạc Kính Cung thua trận bị bắt sống. Mạc Kính Khoan thấy thế nguy xin hàng phục. Chúa rộng lượng bằng lòng, phong Kính Khoan chức Thông Quốc Công. Từ đấy mặt bắc tạm ổn, chúa Trịnh quyết tâm giải quyết phương nam. Cấp Sự Trung Nguyễn Hữu Bản là người thông minh quyền biến nhận lệnh chúa mang sắc thư vua Lê vào Thuận Hóa.
Sứ giả đến Thuận Hóa được Chúa Sãi và các cận thần tiếp đón nồng hậu. Chúa đọc sắc thư, đoạn mở đầu viết:“Hoàng Thượng sắc dụ Thái Bảo Thụy Quận Công Nguyễn Phúc Nguyên biết:Mệnh lệnh triều đình, đạo làm tôi phải nên tuân thủ. Thuế má phủ huyện, tướng ngoài cõi không được tự chuyên…” Tiếp theo là những lời trách mắng Chúa Sãi chần chừ không chịu nộp thuế, sau cùng đặt điều kiện và đe dọa buộc chúa phải thân ra bắc, hoặc sai con đi thay về triều đình:“… Nhược bằng thoái thác không đến tức là phạm tội với triều đình”.
Chúa đọc sắc thư xong cười hỏi sứ giả:
-Ðây là thư của Thanh Ðô Vương gửi đòi thuế cùng đe dọa ta, sao lại gọi sắc thư của hoàng thượng?
Sứ giả từ tốn:
-Ấy là ý của ngài. Tôi nhận mệnh vua mang sắc thư đến đây, chỉ biết có thế.
Nghe sứ giả nói, chúa trao sắc thư cho Nguyễn Triều Văn, truyền đọc cho mọi người nghe.Chúa tiếp:
-Hoàng thượng là đấng minh quân nhân ái, độ lượng bao dung, xét việc xưa nay chẳng nỡ phụ ân con cháu bậc khai quốc công thần. Vả hoàng thượng dư biết đất ta giữ chỉ là trấn nhỏ, đất rộng người thưa, của cải bao lăm nên chẳng lưu tâm đến việc đòi hỏi sưu thuế. Chỉ có Thanh Ðô Vương hẹp hòi ích kỷ, tham lam vô độ chẳng kể nghĩa tình, cả gan giả mệnh vua đòi hỏi này nọ, dở giọng kẻ cả hòng đe dọa ta.
Tham Tướng Nguyễn Triều Văn tiếp lời:
-Thử hỏi sứ gỉa, cơ nghiệp nhà Lê kể đã tiêu vong, nếu không có đức Thánh Tổ (Nguyễn Kim) sao có ngày này? Thanh Ðô Vương biết điều thì con cháu Thánh Tổ phải được thừa hưởng công lao xứng đáng, có đâu chỉ trấn thủ Thuận Quảng.
Chúa nói thẳng với sứ giả:
-Ông cứ về nói thẳng với Thanh Ðô Vương, nếu còn nghĩ công lao họ Nguyễn, tình thông gia nên cắt thêm hai xứ Thanh Nghệ trao ta cai quản mới hợp lẽ.
Sứ giả không nao núng trả lời:
-Hoàng thượng phong thưởng công thần tất xét kỹ công lao, trao việc lớn căn cứ vào tài năng đức độ. Họ Trịnh trải ba đời tận tụy giúp vua dựng nghiệp chẳng kể gian nguy. Chúa Thái Vương (Trịnh Kiểm), Triết Vương (Trịnh Tùng) đến Thanh Ðô Vương bây giờ hàng trăm năm ra công mở nước, đánh đông dẹp bắc. Ðâu đâu ngóng cổ làm tôi, chốn chốn bó tay hàng phục. Uy vũ sấm ran chớp giật, người người đều tỏ, nào phải ngồi yên mà hưởng bổng lộc triều đình…
Nguyễn Phúc Khê nãy giờ yên lặng, nổi giận ngắt lời sứ giả:
-Dựng cờ đại nghĩa giúp nhà Lê phục nghiệp là do tiên tổ họ Nguyễn. Có Nguyễn mới có Trịnh, bằng không họ Trịnh một mình làm gì nên chuyện. Nay xã tắc ổn định, sơn hà một giải, kẻ có công sao bị lãng quên. Chẳng qua họ Trịnh kiêu ngạo bất chấp vua tôi, trên khinh thiên tử, dưới hiếp đáp quần thần. Họ Trịnh cậy anh hùng, chúng ta đây cũng hào kiệt, há chịu cúi đầu thần phục?
Nghe Phúc Khê nói hăng, chúa ôn tồn:
-Ông về triều thưa lại Thanh Ðô Vương: Ðại trượng phu trên đời chớ vì chuyện nhỏ mà quên nghĩa lớn. Ta vẫn mong hai họ tình nghĩa thông gia thân thiết, chớ kết thù địch mang tiếng với đời.
Hôm sau sứ giả hồi kinh. Chúa bàn với cận thần:
-Ta ra mặt chống đối, Trịnh Tráng không chịu nhịn ắt sẽ động binh chinh phạt. Các ông có kế sách đẩy lùi quân Trịnh?
Triều Văn nói:
-So lực lượng thì ta ít quân nhưng nhiều lợi thế. Quân ta thường xuyên luyện tập, chiến đấu tại đất nhà, địa thế vùng Bố Chính hung hiểm có thể lấy một chọi mười. Quân Trịnh phải hành quân xa. Xưa Tôn Tử thường nói: “Phép hành quân xa tốn ngàn cỗ xe, chở lương xa ngàn dặm cùng là vật liệu khí cụ mỗi ngày tốn phí hàng ngàn lạng vàng.” Họ Trịnh chưa ổn định xong đất bắc, của cải lương thực chưa dồi dào khó chịu đựng nổi cuộc chiến dài lâu. Theo ý thần, ta dụng kỳ binh mai phục đánh tiêu hao lâu ngày, địch nản lòng tất phải rút.
Con thứ của chúa, Trung Tín Hầu Nguyễn Phúc Trung lên tiếng:
-Quân Trịnh tiến vào nhất định sẽ đóng tại bờ bắc sông Nhật Lệ, vượt sông tiến theo đường bộ vào phía nam. Ta phải ngăn địch ngay tại đây bằng cách đóng cọc sắt ngầm dưới lòng sông, bố trí đại pháo ở những cao điểm.
Nguyễn Vệ, cháu của chúa nay được phong Vệ Quận Công đề nghị phải xúc tiến ngay kế hoạch phòng quân Trịnh tấn công bất ngờ. Chúa vui mừng nghe bề tôi luận bàn hợp lẽ. Nội nửa tuần trăng, Quận Công Nguyễn Phúc Khê đích thân ra vùng Bố Chính khai triển kế hoạch. Nguyễn Hữu Dật hăng hái xin chúa cho phép theo Phúc Khê ra vùng chiến trận quan sát địa hình. Chúa thuận.
Hữu Dật là con trưởng của Tham Tướng Nguyễn Triều Văn. Năm ấy Dật vừa tròn hai mươi nhưng sở học uyên bác, kinh sử làu thông, giỏi thi phú. Dật lại là tay vũ dũng hiếm có trên đời nên chúa quý mến như con, thường cùng Dật bàn luận chuyện đông tây kim cổ. Ngoài tài năng, Hữu Dật tính khí cang cường, nói năng ngay thẳng. Có lần chúa nói:“Ta có nhiều tướng dũng cảm, lo chi không đối địch được với họ Trịnh”. Dật tâu chúa:“Phép dụng binh cần tướng giỏi, chọn kẻ dũng cảm là cần nhưng chưa hẳn đủ. Vậy nên người làm tướng trước tiên thận trọng, chuẩn bị tính toán, dụng binh kỷ luật, pháp lệnh giản dị. Ra quân một lòng diệt địch, quả cảm xông pha,chết vinh hơn sống nhục. Thần thấy nay nhiều kẻ cầm binh là người thân cận (của chúa). Có người chẳng hiểu việc binh, coi thường quân kỷ, dung túng quân sĩ làm càn mất lòng dân, dù thắng đôi ba trận nhưng chỉ lẻ tẻ, sao có thể dùng họ dựng nghiệp lâu dài”.
Phúc Khê nghe Dật nói cho là tuổi trẻ ngạo mạn kiêu căng, ý không ưa. Chúa nghĩ khác, khen Dật trực ngôn.
Tại Thăng Long, chúa Trịnh nghe sứ giả tường trình sự việc Thuận Hóa. Chúa tức giận nói:“Tổ phụ ta ba đời chinh chiến nằm gai nếm mật, trời biển công lao. Họ Nguyễn khoanh tay làm chủ Thuận Quảng, hưởng bổng lộc, được phong đến quốc công còn muốn đòi hỏi gì nữa. Phúc Nguyên công cán bao lăm, ta rộng lượng cho hưởng lộc tổ phụ, đã không tận trung lại giở thói ngạo mạn , khinh thường phép nước”. Chúa quyết định động binh chinh phạt phương nam.
Tháng hai năm Ðinh Mão 1627, Ðô Ðốc Nguyễn Khải, Thiếu Bảo Nguyễn Danh Thế chỉ huy năm ngàn quân tiến vào Bố Chính, dừng quân ở hữu ngạn sông Nhật Lệ chờ đại quân tiếp ứng do chính vua Lê ngự giá thân chinh cùng chúa Trịnh.
Nhận mật tin quân Trịnh nam tiến, do có phòng bị trước, chúa Sãi cử Vệ Quận Công Nguyễn Vệ làm Tiết Chế, Nguyễn Hữu Dật Ðốc Chiến đem năm ngàn quân bộ tiến ra trận địa bờ nam sông Nhật Lệ. Thủy Binh do Nguyễn Phúc Trung chỉ huy tức tốc cho chiến thuyền rời bến. Quân Nguyễn biết rõ địa thế nên bố trí lực lượng nhanh chóng kín đáo.
Toán tiên phong Trịnh dùng bè vượt sông, định tốc chiến tốc thắng bị quân Nguyễn nã đại pháo thiệt hại nặng phải rút. Biết quân Nguyễn có phòng bị, Ðô Ðốc Nguyễn Khải lùi quân về phía sau tránh tầm pháo, dọ thám địch tình, nghĩ kế tấn công. Nguyễn Danh Thế bàn với Nguyễn Khải:
-Toán tiên phong của ta phát hiện địch cắm cọc sắt dưới lòng sông, bố trí đại pháo ở các cao điểm ngăn không cho ta vượt sông. Tôi đoán chắc địch sẽ điều quân từ thượng nguồn thừa lúc đêm tối tấn công cướp trại, ta nên tương kế tựu kế diệt địch.
Nguyễn Khải khen phải, bí mật điều quân núp trong rừng để doanh trại trống.
Quả nhiên một đêm, quân Nguyễn từ phía tây bắn tên lửa ào ạt tấn công bị quân Trịnh chận đánh tập hậu phải rút chạy, may nhờ toán tượng binh tiếp cứu nên chỉ thiệt hại nhẹ. Chiến trận từ đấy ở thế dằng co. Hữu Dật nóng lòng đẩy lui quân Trịnh nghĩ ra diệu kế. Dật ngầm cho quân len lỏi sang bắc Bố Chính loan tin các Quận Công Trịnh Gia Trịnh Sầm âm mưu nổi loạn tại các trấn Hải Dương, Sơn Tây. Tin đồn loan xa, chúa Trịnh trong lòng ngờ vực, lại thấy hành binh bốn tháng ròng chẳng thu thắng lợi, tướng sĩ nản lòng. Chúa quyết định rút quân về kinh. Quân Nguyễn kể như thắng trận đẩy lùi được quân Trịnh.
Tại hai phủ Quảng Ngãi và Qui Nhơn, Quận Công Trần Ðức Hòa nhận tin thắng trận, ra lệnh quân dân nhà nhà treo đèn kết hoa, nổ pháo tưng bừng vui như lễ hội. Ðức Hòa trấn thủ hai phủ đã nhiều năm, vốn là người thân cận của chúa, được chúa nhận làm nghĩa đệ từ khi chúa còn trấn thủ dinh Quảng Nam. Hòa xuất thân võ tướng từng lập nhiều công trận nhưng sính thi văn, thường cùng tao nhân mặc khách xướng họa. Vốn tính hào sảng nên quảng giao, mến chuộng nhân tài, chiêu hiền đãi sĩ. Vài hôm sau, Hòa thu xếp công việc, lên đường về Chính Dinh dự lễ khao quân mừng chiến thắng.
Gặp lại người em nuôi, chúa tay bắt mặt mừng. Hòa chúc mừng chiến thắng, hỏi han sức khỏe người anh. Chúa hỏi tình hình hai phủ. Hòa đáp:
-Nhờ trời gió hòa mưa thuận, mùa màng tươi tốt, dân đủ cơm áo nên giặc cướp chỉ còn lẻ tẻ. Ấy cũng nhờ công đức vương huynh nên trăm họ an ổn, xứng là buổi âu ca thịnh trị.
Chúa nghe cả cười:
-Ta khen chú giỏi trị dân lại trọng nhân tài, chiêu hiền đãi sĩ như Mạnh Thường Quân thuở trước. Nay ta đang ở thế đối đầu với họ Trịnh, sao tìm được bậc lương tướng, biết vận độ nhật nguyệt, tiên đoán họa phúc. Lại thông cả sự biến di của chim muông cây cỏ, nhận ra hiểm địa núi sông mà bày trận pháp. Ðược người như thế, ta sẵn lòng trao gươm báu, tặng ấn nguyên nhung khiển tướng điều binh…
-Ý huynh muốn được người thần cơ diệu kế như Lã Vọng Khổng Minh, trận mạc ngoài cõi đảm đương, trong trướng quyết định mưu mô quỷ thần kinh phục. Ðệ hằng tin trời chẳng phụ kẻ tâm thành. Huynh nhân nghĩa gồm đủ, hiệu lệnh nghiêm minh, chuộng tôi trung, khử kẻ nịnh. Quân ta, trên dưới tướng sĩ một lòng quyết giữ cõi, sức mạnh như núi, địch dù mạnh đến đâu cũng chẳng xô ngã nổi Thái Sơn.
-Chú nói cho ta vui. Bấy lâu ta vẫn phó thác việc nước cho Tường Quận Công (Nguyễn Phúc Khê) vì nghĩ mình tuổi đời đã trọng, chẳng mấy chốc đến tuổi thất thập. Nào ngờ trời chẳng cho yên, ngày đêm mang nặng nỗi lo, ăn chẳng ngon, ngủ không an giấc. Ở vào thế chẳng đặng ta phải chống Trịnh, nào ai muốn cảnh tang tóc đao binh?
-Huynh chí lý nhưng ta vì đại nghĩa phải xả thân, có đâu điềm nhiên thị tọa mặc cho kẻ gian hùng tác quái…
Ðêm khuya, tiếng trống canh ba chừng sắp điểm. Mảnh trăng hạ tuần vàng nhạt le lói trên đỉnh non mờ. Gió nhẹ vọng từ xa tiếng dế rền rĩ rên siết. Ðức Hòa đứng lên :
-Ðêm khuya, huynh đi nghỉ lấy sức…
Hòa chưa nói hết câu, rút tập sách mỏng trong tay áo trịnh trọng trao chúa:“Ðệ có viên gia sư soạn thuật quyển Ngọa Long Cương vãn, đệ đọc qua thấy ý vị cao thâm, xin tặng huynh xem từ điệu ngôn ngữ y bày tỏ.” Chúa nhận quyển, chậm rãi băng qua hoa viên về thư phòng ngay góc vườn, nơi chúa thường ngồi đọc sách, có khi nghỉ qua đêm.
Ðêm ấy Ðức Hòa trằn trọc lo lắng. Ý định của Hòa muốn tiến cử viên gia sư với chúa. Trống điểm canh năm, Hòa nhìn sang thư phòng vẫn thấy ánh đèn. Ðêm ấy chúa cũng không ngủ, chăm chú đọc Ngọa Long Cương vãn, nghiền ngẫm nghĩ suy chẳng thấy thấy mỏi mệt. Trời mờ sáng, thấy chúa ra khỏi thư phòng, Hòa cũng trở dậy ra thư hiên gọi hầu cận pha tuần trà sớm hầu chúa. Hòa chuyên trà từ chén tống sang chén quân, trịnh trọng dâng chúa. Chúa nói:
-Ðêm qua ta không ngủ, mải miết đọc, suy ngẫm Ngọa Long Cương vãn, lòng thích thú quên mỏi mệt. Ta nghĩ kẻ soạn thuật tài cao học rộng, mộng kinh bang tế thế. Về binh pháp chẳng nhượng Khổng Minh nên tự ví mình như người ấy, lại đặt tên vãn là Ngọa Long Cương, nơi Khổng Minh ẩn cư. Viên gia sư Ðào Duy Từ là ai, cho ta nghe lai lịch.
Ðức Hòa nghe chúa nói mừng thầm thưa:
-Duy Từ năm nay tuổi ngoại ngũ tuần, vốn người huyện Ngọc Sơn xứ Thanh Hóa, tự ấu thơ miệt mài đèn sách. Năm vừa hai mươi về kinh ứng thí, chí mong dụng chốn quan trường lập thân thỏa chí với đời. Nào ngờ vì là con nhà ca xướng nên bị cấm thi. Bấy giờ thân phụ Từ là Ðào Tá Hán đang làm chức Linh quan (coi đội nữ nhạc) trong cung vua Lê. Bị cấm thi, cho là hoạn lộ bế tắc, Từ phẫn chí buồn bực, tìm vui trong cung đàn nhịp phách. Khi thân phụ mãn phần, vì giỏi nhạc nên được vua cử làm Linh quan thay chức cha…
Như chợt nhớ điều gì, chúa bỗng dưng ra dấu ngắt lời Ðức Hòa, thích thú nói:
-Ta nhớ ra rồi. Hồi Tiên Vương (chỉ Nguyễn Hoàng) vừa ở Thăng Long về, thỉnh thoảng ngài có nhắc đến người này, khen y là tay danh sĩ đất bắc, tiên đoán chuyện đời chẳng kém Trạng Trình. Có lần y khuyên Tiên Vương nên tìm cách trở lại Thuận Quảng, chia đôi giang sơn với họ Trịnh. Chuyện bấy nay kể đã khá lâu, nhưng sao y lại phiêu dạt về Qui Nhơn, rồi lý do nào khiến chú gặp y?
-Huynh chớ nôn nóng nghe đệ kể rõ ngọn ngành vì câu chuyện lý thú. Khoảng trên mười năm sau, một lần Duy Từ đi vào phương nam, ghé huyện Phong Lộc phủ Quảng Bình tìm thăm bạn cũ. Từ dừng chân ngắm núi Thần Ðinh, rặng núi hướng về phía tây hiểm trở cao ngất đụng mây, duy nhất có một ngọn lạc lõng hướng về phía nam, dân địa phương gọi là núi Bất Nghĩa. Lại nghe đồn những đêm rằm thường thấy phật hiện trên núi, hào quang tỏa sáng rực trời. Từ tò mò mạnh bước lên non. Ðến lưng chừng núi thấy ngôi chùa cổ đề Kim Phong Tự. Chùa nay hoang phế, khói lạnh hương tàn. Sau chùa có động lớn, bên trong đá xếp như bàn ghế, có tảng đá giống hình phật tham thiền, nhiều tảng hình thù kỳ dị. Từ đang mải mê say ngắm, bỗng giật mình nghe tiếng người gọi tên mình, giọng nói nhỏ nhưng thanh âm trong trẻo nghe rất rõ. Từ hướng về phía tả thấy ông lão khoác áo vàng ngồi trên tảng đá lớn, Từ nghĩ là phật vội sụp lạy chẳng dám ngước nhìn. Tiếng nói lại vang lên:“Ta chờ người nhận thần thư đã lâu. Hãy tới động có tiếng chiêng trống nhận báu vật”. Bấy giờ Từ mới dám ngẩng đầu thấy ông lão đã biến mất. Từ vui mừng bước ra khỏi động. Trời về chiều, nắng vàng nhẹ giăng. Từ đứng lặng nhìn quanh tìm động có tiếng chiêng trống như lời phật dạy. Núi rừng vẫn lặng lẽ u tịch vắng cả tiếng chim hót. Từ lần theo phía tả ngôi chùa, vui mừng nhận ra cửa động khuất sau mấy bụi cây thấp, băng băng bước tới mặc gai nhọn cào xước. Cửa động nhỏ chỉ vừa một người lọt qua, vào sâu bên trong động rộng dần, thạch nhũ ẩn hiện mang nhiều dáng lạ. Từ nghe những giọt thánh thót tựa tiếng chiêng trống. Ðây đúng là nơi có thần thư. Từ mải miết kiếm tìm khắp động tuyệt không thấy gì . Bóng tối phủ, đêm mênh mông. Từ mỏi mệt ngồi ăn cơm nắm, định tâm ngủ đêm trong động chớ mai sáng tiếp tục. Ðêm ấy Từ thao thức, đêm dài lê thê. Từ vui khi nhận ra những vệt sáng mờ, trời rạng sáng. Từ nhỏm dậy lần mò quanh quẩn. Cả ngày hôm ấy, qua đêm thứ hai, sang ngày thứ ba vẫn không tìm ra thần thư. Từ nản chí bước ra khỏi động thờ thẫn ngó đất trời. Bỗng nhớ chuyện xưa Trương Lương ba lần nhặt dép, hai lần bị mắng, mười ngày chầu chực mới được Hoàng Thạch Công trao Thái Công Binh Pháp. Người xưa kiên nhẫn, ta há chịu nhường? Từ hăm hở trở vào động. Ngày qua đêm về, Từ mỏi mệt thiu thiu tìm tảng đá dựa lưng. Khoảng nửa đêm, có tiếng tiếng sấm động ầm ầm, một vệt sáng xanh rọi vào tảng đá tựa hình sư tử. Từ choàng tỉnh bật dậy lần đến tảng đá, thấy ngay tập sách dầy mạ vàng khắc bốn chữ Hoàng Phủ Binh Pháp. Từ mừng rỡ ôm sách vào ngực, quỳ lạy tạ, lần trong bóng tối ra cửa động, dõi theo ánh trăng mờ xuống núi. Duy Từ mười năm đóng cửa miệt mài nghiên cứu binh thư , thiên văn địa lý… chờ thời cơ đem tài kinh luân thao lược phù tá minh chúa. Năm Ất Sửu1625, Từ luận họ Trịnh phản bội chính nghĩa phù Lê, nhà Lê thực chất chỉ là xác không hồn. Từ thấu rõ mối hiềm khích giữa hai họ Trịnh Nguyễn, lại nghe huynh nhân ái, chiêu hiền đãi sĩ nên quyết tâm vào phương nam phù minh chúa tạo thế lực mới chống Trịnh. Y đi khắp Thuận Quảng xem phong thủy, làm người hát rong kể chuyện độ thân. Năm sau Từ đến Qui Nhơn, theo lời kể của Từ, y biết tiếng đệ hào sảng, trọng người tài năng, lại là người thân thiết với huynh nên quyết định dừng chân, ẩn thân trong nhà một tay hào phú. Ít lâu sau, người này phát giác tài văn chương thi phú của Từ. Viên hào phú nghe đệ đang cần gia sư bèn giới thiệu Từ . Gặp y thấy người phong thái nho nhã, đệ nhận ngay.
-Ra y cố tình gặp chú để chú tiến cử, quả là tay mưu trí tinh đời. Nhưng sao cả năm nay chú mới nói chuyện Duy Từ với ta?
-Ông cha thường dậy:Cư cửu kiến nhân tâm. Ở lâu mới biết được người. Ðệ phải tìm hiểu y hàng năm, biết chắc y có thực tài, không phải phường khoa trương khoác lác mới dám tiến cử lên huynh. Ðệ biết y đang soạn bộ binh thư rất ư huyền diệu, có đủ hỏa công thủy chiến, xà trận điểu trận, mưu mô tướng lược…
Chúa mừng khôn xiết. Ví Duy Từ như Khổng Minh Lã Vọng thuở xưa, truyền Ðức Hòa trở lại Qui Nhơn dẫn Duy Từ đến bệ kiến. Như chia xẻ niềm vui, hôm sau chúa gặp Hữu Dật, kể Dật nghe chuyện Ðào Duy Từ, lại đưa Ngọa Long Cương vãn . Chúa bảo:“Hãy đọc kỹ rồi luận ta nghe tài văn chí khí người soạn thuật.” Dật bái tạ nhận sách.
Vài hôm sau chúa hỏi Dật. Dật thưa:
-Tâu chúa thượng, người soạn thuật nét bút tao nhã trang nghiêm, ý văn tế nhị sâu sắc nhưng về thực tài thần chẳng dám lạm bàn.
-Ngươi nói phải. Dẫu sao ta không thể bỏ qua không dụng người này. Ta biết gỗ quý củi mục, tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
Chúa biết tính Dật bộc trực, chẳng tin loại xướng ca.
Vài ngày sau, Quận Công Trần Ðức Hòa trở về Qui Nhơn. Ðức Hòa gặp Ðào Duy Từ kể mọi sự. Từ cảm kích bái tạ người tạo cho mình cơ hội thi thố tài năng phù vua giúp nước, phát huy tinh túy của tướng môn. Công việc phủ đường bận rộn mãi hơn tháng sau, Ðức Hòa mới thu xếp ổn thỏa dẫn Duy Từ ra Thuận Hóa chuẩn bị lễ dẫn kiến.
Ðến Chính Dinh gặp lúc chúa đi lễ chùa Thiên Mụ, thường vài ngày sau mới trở về. Ðức Hòa thu xếp cho Duy Từ ở công quán, còn mình dành thì giờ đi đó đây thăm bằng hữu. Sáng hôm sau, khi Duy Từ đang ngồi uống trà bỗng thấy thư. Em biết chúa thượng gả con cho vua Chân Lạp cũng là tính chuyện đại sự nước non. Việc nước để trước việc nhà, cái chi lợi là làm. Phần Ngọc Vạn, phận gái tùy cha mẹ đặt để, nhưng ta nên lo toan mọi lẽ cho con ấy là trách nhiệm phụ mẫu. Em nghĩ nên lưu viên phó sứ lại thời gian, dậy con nghi lễ cùng chữ nghĩa, tiếng nói nhà chồng để con đỡ ngỡ ngàng khi làm dâu nhà người, xứng vai mẫu nghi, rạng danh đất nước. Ngọc Vạn nhan sắc mặn mà, thông minh lanh lợi chắc chắn học thông. Ta buộc nhà chồng phải theo đúng lệ hôn nhân nước ta, làm đủ nghi lễ đón dâu. Ấy là cách chứng tỏ bề thế uy nghi triều đình, phân minh thượng hạ.
Hôm sau sứ giả triều kiến chúa dâng thư vua Chân Lạp cùng nhiều lễ vật quý giá, chúa hài lòng. Quận Công Nguyễn Phúc Khê cho sứ giả biết đòi hỏi của Ðại Việt, thuận cho vua Chân Lạp cử hành đón dâu vào cuối hạ. Sứ giả hoan hỉ cảm tạ tuân ý chúa để viên phó sứ ở lại, mọi việc khác sẽ trình nhà vua khi về nước.
Một ngày cuối hạ, dù trời nắng gắt, những ngọn gió tây khô khốc thổi rát mặt. Dân chúng bên bờ sông Thạch Hãn lũ lượt đổ ra ven sông nhìn đoàn thuyền sơn son thiếp vàng lạ mắt từ từ rẽ sóng tiến về ChiÔnh Dinh, kinh đô vị chúa phương nam. Dân bàn tán rôm rả nhìn thấy trên thuyền thấp thoáng nhiều vị sư áo vàng. Ðến ChiÔnh Dinh, đoàn thuyền neo hàng ngang trên bến. Chiếc thuyền nhỏ chạm hình rồng vàng kết hoa rực rỡ neo sát bờ, bên cạnh là chiếc thuyền lớn nhất chở hai vị cao tăng và vị đại thần thay mặt vua đến cử hành nghi lễ đón công chúa Ngọc Vạn về làm dâu Chân Lạp.
Hôm sau, đoàn sứ thần Chân Lạp lập hương án trên thuyền, trải chiếu hoa từ bến sông đến lộ chính tiếp đón Quận Công Nguyễn Phúc Khê, đại diện chúa Sãi đến báo tin lành chúa thuận cho vua Chân Lạp làm rể nước Ðại Việt. Vị đại thần đại diện nhà vua quỳ quay về hướng nam, lạy năm lạy tạ ơn chúa. Ngày tiếp, vị đại thần, hai vị cao tăng cùng đoàn tùy tùng mang sính lễ cơ man trân châu bảo ngọc đến Chính Dinh triều kiến chúa, mời chúa xuống ngự thuyền rồng, tặng vật vua Chân Lạp dâng nhạc phụ. Chúa đẹp dạ ban thưởng phò mã vàng bạc, áo mão cân đai, truyền bày tiệc thịnh soạn thết đãi cả đoàn. Buổi sáng nghênh hôn, công chúa Ngọc Vạn sau khi đến cáo lạy, dâng lễ vật tại lăng Tiên Chúa, đoạn trở về cung hầu phụ mẫu, nhận lời giáo huấn, tạ ơn sinh thành dưỡng dục. Sau đó công chúa nhận ngự tửu chúa ban, tạ phụ mẫu mỗi người năm lạy, bùi ngùi bước lên kiệu hoa cùng đoàn người gồm bốn thị nữ, toán khiêng kiệu, toàn những chàng trai khỏe mạnh khôi ngô, có học thức lẫn võ nghệ. Bốn thị nữ và các chàng trai khiêng kiệu được vua Chân Lạp thỏa thuận cho theo công chúa sang ở luôn tại Chân Lạp. Chúa Sãi và Mạc Chính Phi thương con côi cút nơi xứ người nên chọn số ít người thân tín theo hầu bảo vệ con, cố duy trì liên lạc dù công chúa ở quá xa cách. Ðoàn nhà trai chờ sẵn ở cổng chính đưa công chúa xuống thuyền phụng chờ sẵn bên giòng Thạch Hãn. Giòng sông xanh êm đềm nhưng giông bão trong lòng người đi, Ngọc Vạn nức nở rời kiệu bước xuống thuyền…
Sau nhiều ngày mệt nhọc lênh đênh trên biển, đoàn thuyền ghé bến Chân Lạp. Ngọc Vạn nhìn lên bờ thấy dân tụ tập nhộn nhịp, nhạc cử tưng bừng lạ tai.
Một đoàn thiếu nữ xiêm y rực rỡ, tóc búi cao cài hoa thơm ngát đón nàng lên kiệu hoa sơn son thiếp vàng rực rỡ. Trên đường vào kinh đô, dân chúng đứng hai bên đường ca hát đón chào. Thấy người người vui, Ngọc Vạn cảm thấy yên tâm ngắm nhìn cảnh lạ.
Hoàng cung Chân Lạp xây cất quy mô bề thế hơn hẳn Chính Dinh. Khi Ngọc Vạn rời kiệu hoa bước trên con đường trải chiếu hoa vào vương phủ, các cung nữ thi nhau tung hoa chào đón. Những loại hoa sứ, hoa cúc, hoa sen… như ở quê nhà phủ ngập đường tỏa hương thơm dịu mát. Khoảng sân rộng trước vương phủ chật ních bá quan văn võ. Giữa tiếng chiêng trống, tiếng tấu nhạc rộn rã, vua Chân Lạp khôi ngô đường bệ mặc hoàng bào bước xuống ngai đón Ngọc Vạn giữa tiếng tung hô của triều thần. Nhà vua vui mừng nhìn công chúa nước Việt trắng trẻo kiều diễm, hơn hẳn hai người vợ đang sống với vua từ nhiều năm trước.
Từ đấy vua sủng ái Ngọc Vạn, quý nàng hơn trân châu bảo ngọc, truyền xây cung điện nguy nga tráng lệ, cùng người đẹp say đắm hoan lạc miệt mài như chưa từng nếạm hương vị tình ái. Những chàng trai Việt theo Ngọc Vạn đều được đãi ngộ, phong quan chức. Tin lành về tới Chính Dinh. Ba năm sau, những người Việt đầu tiên có mặt ở vùng Ðồng Nai Mô Xoài (Sài Gòn và Biên Hòa ngày nay) canh tác hoặc buôn bán.
Mối giao hảo giữa hai nước Việt Chân Lạp đang tốt đẹp bỗng gặp biến cố. Năm Ất Sửu 1625, vua Chân Lạp lâm trọng bệnh từ trần, triều đình rối loạn do phe thân Xiêm La mưu đoạt quyền hành muốn loại bỏ ảnh hưởng của nhóm thân Ðại Việt. Cảm thấy người Việt ít ỏi không thể chống lại nước Xiêm La kế cận, Ngọc Vạn dù được đặt làm hoàng thái hậu vẫn nhận ra mối nguy, tìm cách rời khỏi triều đình. Nàng cùng hai con trai lánh vào chùa sống ẩn dật.
Năm năm sau, triều đình Chân Lạp lại xẩy ra nhiều biến loạn đổ máu do các hoàng tử tranh ngôi báu. Cuối cùng, hoàng tử Rama Chan do có mẹ là người Lào, được người Lào hợp tác giúp đỡ đoạt ngai vàng. Tân Vương thân Lào tìm mọi cách loại trừ người Việt. Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn được gia nhân bảo vệ cùng hai con về vùng Ðồng Nai khẩn hoang lập ấp, vùng đất hoang dần trở thành trù phú, tấp nập con buôn người Việt, người Tàu, có cả người Tây Dương sang mua hồ tiêu và truyền đạo Gia Tô. Ngọc Vạn xây dựng chùa truyền bá đạo Phật. Chẳng bao lâu, bà trở thành nhân vật được trọng nể tại vùng Thủy Chân Lạp.
Tại kinh đô, vua Chân Lạp không ngừng củng cố quyền hành. Vua hà khắc độc đoán, sẵn sàng tàn sát bất chấp cả những người trong hoàng tộc. Một số hoàng thân tìm cách qua vùng Ðồng Nai liên kết chống lại nhà vua. Ðoán chắc Ðồng Nai sẽ bị tấn công, Ngọc Vạn bí mật liên lạc với Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (cháu nội chúa Sãi), cho chúa biết tình hình Chân Lạp rối ren, xin chúa khẩn cấp can thiệp bằng võ lực cứu nguy cho ba mẹ con và đám hoàng tộc cô thế đang bị đe dọa.
Nhận tin, xót tình máu mủ, chúa Hiền tức tốc sai Phó Tướng Nguyễn Phúc Yên đem ba ngàn quân tinh nhuệ tiến vào Ðồng Nai. Rama Chan đích thân điều binh chống cự bị quân Việt chận đánh tan tác. Quan quân mạnh ai nấy chạy, nhà vua chậm chân bị bắt sống tại trận. Chúa Hiền không muốn Chân Lạp xáo trộn, truyền tha nhà vua nhưng buộc phải triều cống. Hai con trai Ngọc Vạn là Batom và Ang Non cai quản toàn vùng Thủy Chân Lạp, tạo thuận tiện tối đa cho người Việt vào canh tác buôn bán. Khi vua Chân Lạp chết (năm 1660), chúa Hiền hậu thuẫn cho Batom lên ngôi vua, Ang Non thành Phó Vương. Ngọc Vạn được dân kính trọng như Phật sống. Có ai nghĩ bà đã đi những bước đầu mở đường cho người Việt tiến vào phương nam chiếm trọn vùng Thủy Chân Lạp trù phú, kéo dài lãnh thổ Ðại Việt đến tận vùng Cà Mau xa thẳm…
***
Tháng sáu năm Quý Hợi 1623, kinh đô Thăng Long lại xẩy ra biến loạn lớn. Xuân Quận Công Trịnh Xuân, con thứ Bình An Vương Trịnh Tùng, người từng gây bạo loạn mấy năm trước. Lợi dụng thân phụ ốm nặng, nổi loạn chiếm phủ chúa mưu đoạt binh quyền của anh là Thanh Quận Công Trịnh Tráng. Chúa Trịnh bỏ phủ chạy đến huyện Thanh Trì. Em ruột của chúa Quận Công Trịnh Ðỗ lập mưu viết thư gọi Xuân đến gặp phụ vương để nhận binh quyền. Trịnh Xuân trúng kế bị sát hại nhưng chúa cũng mệnh vong. Trịnh Tráng thay cha nắm binh quyền trong cơn biến loạn phải hộ tống vua và triều thần rút về Tây Ðô (Thanh Hóa). Lợi dụng tình hình rối ren, Mạc Kính Khoan ở Cao Bằng kéo quân về chiếm lại Hải Dương, hàng vạn dân hưởng ứng theo Mạc. Kính Khoan cậy đông quân tiến về huyện Gia Lâm mưu chiếm kinh đô. Tại Tây Ðô, Trịnh Tráng chấn chỉnh quân ngũ, chia hai mặt thủy bộ tiến ra bắc. Quân Mạc đại bại rút chạy. Vua và triều thần trở lại Thăng Long, phong Trịnh Tráng tước Nguyên súy Tổng quốc chính Thanh Ðô Vương, quyền tiết chế chư quân thủy bộ.
Tại Thuận Hóa, Chúa Sãi được tin chúa Trịnh đã mất, tình hình đất bắc rối ren bèn họp quần thần nghị bàn. Có kẻ tâu chúa nên thừa cơ gia đạo họ Trịnh tan tành, nghĩa vua tôi sụp đổ, không ai tin họ Trịnh thật tâm phù Lê, phía bắc quân Mạc tràn xuống, nên nhân cơ hội tiến quân đánh Nghệ An Thanh Hóa. Chúa suy nghĩ giây lâu:“Ý các người không phải không hợp lẽ. Nhưng ta với họ Trịnh vốn là thông gia, chẳng nên thừa cơ họ gặp gian nguy mà đánh còn chi nhân nghĩa”. Nói xong truyền Tham Tướng Nguyễn Triều Văn và vài bộ tướng lên đường ra bắc, mang lễ vật đến phúng cùng dọ thám tình hình. Triều Văn trở về tâu chúa họ Trịnh nay nắm toàn quyền, đám quan lại phù thịnh chẳng còn ai nghĩ đến vua Lê, thiếu niên mới mười bốn tuổi.
Chúa Trịnh sau khi ổn định triều chính, nghĩ ngay đến việc Thuận Quảng. Mấy năm qua Chúa Sãi tuyệt không nộp thuế, chúa muốn nhân cơ hội cho người vào đòi thuế, dọ thám tình hình phương nam, nếu cần có thể hưng binh vấn tội biểu dương sức mạnh củng cố uy quyền. Thị Lang Nguyễn Duy Thì nhận lệnh chúa lên đường.
Sứ bộ đến Chính Dinh, Chúa Sãi tiếp đón đúng lễ nghi nhưng tìm cách thoái thác không cho kiểm soát sổ sách thu chi. Chúa nói với sứ giả:“Mấy năm nay thuế má thất thu, lại mất mùa đói kém. Tôi gắng lắm cũng chỉ đủ tiền lo binh bị nói chi đến chuyện thuế má”. Thị Lang Duy Thì ngỏ ý muốn vào Quảng Nam. Chúa nói đường xá xa xôi cách trở, giặc cướp như ong nên chẳng dám chiều ý. Duy Thì hiểu ý Chúa Sãi kiếm cách ngăn trở, dẫn sứ bộ hồi triều làm tờ khải dâng Chúa Trịnh:“… Quận Công Nguyễn Phúc Nguyên trấn thủ Thuận Quảng thoái thác không chịu nộp thuế triều đình, coi khinh phép nước, chỉ lo tuyển tướng luyện quân, luyện tập voi ngựa, chế tạo khí giới… rõ có ý phản nghịch”.
Chúa Trịnh đọc tờ khải nổi giận truyền gọi đám cận thần luận bàn. Chúa nói:
-Phúc Nguyên được triều đình rộng lượng, tin giao cho trấn cõi ngoài làm phên giậu. Nay nó trở mặt khinh nhờn coi thường phép nước, ý ta muốn cất quân chinh phạt, bẻ gẫy âm mưu từ trứng nước, chư khanh nghĩ liệu có nên chăng?
Thị Lang Lê Bật Tứ vẻ tức giận:
-Khải chúa thượng, từ lâu thần vẫn tâu bày về cái họa phiên trấn. Ðất nước muốn thịnh phải thống nhất một nhà, chúa thượng lẽ nào để kẻ khác đến bên giường nằm ngáy? Các xứ Lạng Sơn Cao Bằng, Thuận Quảng bấy lâu ngang ngược do ta bỏ lâu không ngó ngàng. Nay chúa thượng là chúa tể thiên hạ, dưới tay tướng quân dũng mãnh có thể khiến núi lở sông cạn, nếu nương tay không động thủ là dưỡng hổ di họa, vậy nên quyết đoán, bảo vệ cơ nghiệp muôn năm của nước nhà.
Nhiều người đồng tình lý lẽ Bật Tứ. Ðô Ðốc Nguyễn Khải hăng hái tình nguyện làm tiên phong đạo quân phạt Thuận Quảng. Thiếu Bảo Nguyễn Danh Thế lại có ý khác:
-Thần nghĩ các quan hữu lý. Theo ý thần, ta nên dành sức thanh toán cái ung nhọt ngụy Mạc ở phía bắc trước rồi tính chuyện Thuận Quảng cũng chẳng muộn.
Sau khi nghị bàn gay go, chúa thuận theo ý Danh Thế, truyền chuẩn bị binh lương phạt Mạc.
Mùa hạ năm Ất Sửu 1625, chúa cử con trai thứ Quận Công Trịnh Kiều, Thái Bảo Nguyễn Danh Thế thống lĩnh năm ngàn quân tiến đánh Thái Nguyên Cao Bằng. Thủ lĩnh quân Mạc là Mạc Kính Cung thua trận bị bắt sống. Mạc Kính Khoan thấy thế nguy xin hàng phục. Chúa rộng lượng bằng lòng, phong Kính Khoan chức Thông Quốc Công. Từ đấy mặt bắc tạm ổn, chúa Trịnh quyết tâm giải quyết phương nam. Cấp Sự Trung Nguyễn Hữu Bản là người thông minh quyền biến nhận lệnh chúa mang sắc thư vua Lê vào Thuận Hóa.
Sứ giả đến Thuận Hóa được Chúa Sãi và các cận thần tiếp đón nồng hậu. Chúa đọc sắc thư, đoạn mở đầu viết:“Hoàng Thượng sắc dụ Thái Bảo Thụy Quận Công Nguyễn Phúc Nguyên biết:Mệnh lệnh triều đình, đạo làm tôi phải nên tuân thủ. Thuế má phủ huyện, tướng ngoài cõi không được tự chuyên…” Tiếp theo là những lời trách mắng Chúa Sãi chần chừ không chịu nộp thuế, sau cùng đặt điều kiện và đe dọa buộc chúa phải thân ra bắc, hoặc sai con đi thay về triều đình:“… Nhược bằng thoái thác không đến tức là phạm tội với triều đình”.
Chúa đọc sắc thư xong cười hỏi sứ giả:
-Ðây là thư của Thanh Ðô Vương gửi đòi thuế cùng đe dọa ta, sao lại gọi sắc thư của hoàng thượng?
Sứ giả từ tốn:
-Ấy là ý của ngài. Tôi nhận mệnh vua mang sắc thư đến đây, chỉ biết có thế.
Nghe sứ giả nói, chúa trao sắc thư cho Nguyễn Triều Văn, truyền đọc cho mọi người nghe.Chúa tiếp:
-Hoàng thượng là đấng minh quân nhân ái, độ lượng bao dung, xét việc xưa nay chẳng nỡ phụ ân con cháu bậc khai quốc công thần. Vả hoàng thượng dư biết đất ta giữ chỉ là trấn nhỏ, đất rộng người thưa, của cải bao lăm nên chẳng lưu tâm đến việc đòi hỏi sưu thuế. Chỉ có Thanh Ðô Vương hẹp hòi ích kỷ, tham lam vô độ chẳng kể nghĩa tình, cả gan giả mệnh vua đòi hỏi này nọ, dở giọng kẻ cả hòng đe dọa ta.
Tham Tướng Nguyễn Triều Văn tiếp lời:
-Thử hỏi sứ gỉa, cơ nghiệp nhà Lê kể đã tiêu vong, nếu không có đức Thánh Tổ (Nguyễn Kim) sao có ngày này? Thanh Ðô Vương biết điều thì con cháu Thánh Tổ phải được thừa hưởng công lao xứng đáng, có đâu chỉ trấn thủ Thuận Quảng.
Chúa nói thẳng với sứ giả:
-Ông cứ về nói thẳng với Thanh Ðô Vương, nếu còn nghĩ công lao họ Nguyễn, tình thông gia nên cắt thêm hai xứ Thanh Nghệ trao ta cai quản mới hợp lẽ.
Sứ giả không nao núng trả lời:
-Hoàng thượng phong thưởng công thần tất xét kỹ công lao, trao việc lớn căn cứ vào tài năng đức độ. Họ Trịnh trải ba đời tận tụy giúp vua dựng nghiệp chẳng kể gian nguy. Chúa Thái Vương (Trịnh Kiểm), Triết Vương (Trịnh Tùng) đến Thanh Ðô Vương bây giờ hàng trăm năm ra công mở nước, đánh đông dẹp bắc. Ðâu đâu ngóng cổ làm tôi, chốn chốn bó tay hàng phục. Uy vũ sấm ran chớp giật, người người đều tỏ, nào phải ngồi yên mà hưởng bổng lộc triều đình…
Nguyễn Phúc Khê nãy giờ yên lặng, nổi giận ngắt lời sứ giả:
-Dựng cờ đại nghĩa giúp nhà Lê phục nghiệp là do tiên tổ họ Nguyễn. Có Nguyễn mới có Trịnh, bằng không họ Trịnh một mình làm gì nên chuyện. Nay xã tắc ổn định, sơn hà một giải, kẻ có công sao bị lãng quên. Chẳng qua họ Trịnh kiêu ngạo bất chấp vua tôi, trên khinh thiên tử, dưới hiếp đáp quần thần. Họ Trịnh cậy anh hùng, chúng ta đây cũng hào kiệt, há chịu cúi đầu thần phục?
Nghe Phúc Khê nói hăng, chúa ôn tồn:
-Ông về triều thưa lại Thanh Ðô Vương: Ðại trượng phu trên đời chớ vì chuyện nhỏ mà quên nghĩa lớn. Ta vẫn mong hai họ tình nghĩa thông gia thân thiết, chớ kết thù địch mang tiếng với đời.
Hôm sau sứ giả hồi kinh. Chúa bàn với cận thần:
-Ta ra mặt chống đối, Trịnh Tráng không chịu nhịn ắt sẽ động binh chinh phạt. Các ông có kế sách đẩy lùi quân Trịnh?
Triều Văn nói:
-So lực lượng thì ta ít quân nhưng nhiều lợi thế. Quân ta thường xuyên luyện tập, chiến đấu tại đất nhà, địa thế vùng Bố Chính hung hiểm có thể lấy một chọi mười. Quân Trịnh phải hành quân xa. Xưa Tôn Tử thường nói: “Phép hành quân xa tốn ngàn cỗ xe, chở lương xa ngàn dặm cùng là vật liệu khí cụ mỗi ngày tốn phí hàng ngàn lạng vàng.” Họ Trịnh chưa ổn định xong đất bắc, của cải lương thực chưa dồi dào khó chịu đựng nổi cuộc chiến dài lâu. Theo ý thần, ta dụng kỳ binh mai phục đánh tiêu hao lâu ngày, địch nản lòng tất phải rút.
Con thứ của chúa, Trung Tín Hầu Nguyễn Phúc Trung lên tiếng:
-Quân Trịnh tiến vào nhất định sẽ đóng tại bờ bắc sông Nhật Lệ, vượt sông tiến theo đường bộ vào phía nam. Ta phải ngăn địch ngay tại đây bằng cách đóng cọc sắt ngầm dưới lòng sông, bố trí đại pháo ở những cao điểm.
Nguyễn Vệ, cháu của chúa nay được phong Vệ Quận Công đề nghị phải xúc tiến ngay kế hoạch phòng quân Trịnh tấn công bất ngờ. Chúa vui mừng nghe bề tôi luận bàn hợp lẽ. Nội nửa tuần trăng, Quận Công Nguyễn Phúc Khê đích thân ra vùng Bố Chính khai triển kế hoạch. Nguyễn Hữu Dật hăng hái xin chúa cho phép theo Phúc Khê ra vùng chiến trận quan sát địa hình. Chúa thuận.
Hữu Dật là con trưởng của Tham Tướng Nguyễn Triều Văn. Năm ấy Dật vừa tròn hai mươi nhưng sở học uyên bác, kinh sử làu thông, giỏi thi phú. Dật lại là tay vũ dũng hiếm có trên đời nên chúa quý mến như con, thường cùng Dật bàn luận chuyện đông tây kim cổ. Ngoài tài năng, Hữu Dật tính khí cang cường, nói năng ngay thẳng. Có lần chúa nói:“Ta có nhiều tướng dũng cảm, lo chi không đối địch được với họ Trịnh”. Dật tâu chúa:“Phép dụng binh cần tướng giỏi, chọn kẻ dũng cảm là cần nhưng chưa hẳn đủ. Vậy nên người làm tướng trước tiên thận trọng, chuẩn bị tính toán, dụng binh kỷ luật, pháp lệnh giản dị. Ra quân một lòng diệt địch, quả cảm xông pha,chết vinh hơn sống nhục. Thần thấy nay nhiều kẻ cầm binh là người thân cận (của chúa). Có người chẳng hiểu việc binh, coi thường quân kỷ, dung túng quân sĩ làm càn mất lòng dân, dù thắng đôi ba trận nhưng chỉ lẻ tẻ, sao có thể dùng họ dựng nghiệp lâu dài”.
Phúc Khê nghe Dật nói cho là tuổi trẻ ngạo mạn kiêu căng, ý không ưa. Chúa nghĩ khác, khen Dật trực ngôn.
Tại Thăng Long, chúa Trịnh nghe sứ giả tường trình sự việc Thuận Hóa. Chúa tức giận nói:“Tổ phụ ta ba đời chinh chiến nằm gai nếm mật, trời biển công lao. Họ Nguyễn khoanh tay làm chủ Thuận Quảng, hưởng bổng lộc, được phong đến quốc công còn muốn đòi hỏi gì nữa. Phúc Nguyên công cán bao lăm, ta rộng lượng cho hưởng lộc tổ phụ, đã không tận trung lại giở thói ngạo mạn , khinh thường phép nước”. Chúa quyết định động binh chinh phạt phương nam.
Tháng hai năm Ðinh Mão 1627, Ðô Ðốc Nguyễn Khải, Thiếu Bảo Nguyễn Danh Thế chỉ huy năm ngàn quân tiến vào Bố Chính, dừng quân ở hữu ngạn sông Nhật Lệ chờ đại quân tiếp ứng do chính vua Lê ngự giá thân chinh cùng chúa Trịnh.
Nhận mật tin quân Trịnh nam tiến, do có phòng bị trước, chúa Sãi cử Vệ Quận Công Nguyễn Vệ làm Tiết Chế, Nguyễn Hữu Dật Ðốc Chiến đem năm ngàn quân bộ tiến ra trận địa bờ nam sông Nhật Lệ. Thủy Binh do Nguyễn Phúc Trung chỉ huy tức tốc cho chiến thuyền rời bến. Quân Nguyễn biết rõ địa thế nên bố trí lực lượng nhanh chóng kín đáo.
Toán tiên phong Trịnh dùng bè vượt sông, định tốc chiến tốc thắng bị quân Nguyễn nã đại pháo thiệt hại nặng phải rút. Biết quân Nguyễn có phòng bị, Ðô Ðốc Nguyễn Khải lùi quân về phía sau tránh tầm pháo, dọ thám địch tình, nghĩ kế tấn công. Nguyễn Danh Thế bàn với Nguyễn Khải:
-Toán tiên phong của ta phát hiện địch cắm cọc sắt dưới lòng sông, bố trí đại pháo ở các cao điểm ngăn không cho ta vượt sông. Tôi đoán chắc địch sẽ điều quân từ thượng nguồn thừa lúc đêm tối tấn công cướp trại, ta nên tương kế tựu kế diệt địch.
Nguyễn Khải khen phải, bí mật điều quân núp trong rừng để doanh trại trống.
Quả nhiên một đêm, quân Nguyễn từ phía tây bắn tên lửa ào ạt tấn công bị quân Trịnh chận đánh tập hậu phải rút chạy, may nhờ toán tượng binh tiếp cứu nên chỉ thiệt hại nhẹ. Chiến trận từ đấy ở thế dằng co. Hữu Dật nóng lòng đẩy lui quân Trịnh nghĩ ra diệu kế. Dật ngầm cho quân len lỏi sang bắc Bố Chính loan tin các Quận Công Trịnh Gia Trịnh Sầm âm mưu nổi loạn tại các trấn Hải Dương, Sơn Tây. Tin đồn loan xa, chúa Trịnh trong lòng ngờ vực, lại thấy hành binh bốn tháng ròng chẳng thu thắng lợi, tướng sĩ nản lòng. Chúa quyết định rút quân về kinh. Quân Nguyễn kể như thắng trận đẩy lùi được quân Trịnh.
Tại hai phủ Quảng Ngãi và Qui Nhơn, Quận Công Trần Ðức Hòa nhận tin thắng trận, ra lệnh quân dân nhà nhà treo đèn kết hoa, nổ pháo tưng bừng vui như lễ hội. Ðức Hòa trấn thủ hai phủ đã nhiều năm, vốn là người thân cận của chúa, được chúa nhận làm nghĩa đệ từ khi chúa còn trấn thủ dinh Quảng Nam. Hòa xuất thân võ tướng từng lập nhiều công trận nhưng sính thi văn, thường cùng tao nhân mặc khách xướng họa. Vốn tính hào sảng nên quảng giao, mến chuộng nhân tài, chiêu hiền đãi sĩ. Vài hôm sau, Hòa thu xếp công việc, lên đường về Chính Dinh dự lễ khao quân mừng chiến thắng.
Gặp lại người em nuôi, chúa tay bắt mặt mừng. Hòa chúc mừng chiến thắng, hỏi han sức khỏe người anh. Chúa hỏi tình hình hai phủ. Hòa đáp:
-Nhờ trời gió hòa mưa thuận, mùa màng tươi tốt, dân đủ cơm áo nên giặc cướp chỉ còn lẻ tẻ. Ấy cũng nhờ công đức vương huynh nên trăm họ an ổn, xứng là buổi âu ca thịnh trị.
Chúa nghe cả cười:
-Ta khen chú giỏi trị dân lại trọng nhân tài, chiêu hiền đãi sĩ như Mạnh Thường Quân thuở trước. Nay ta đang ở thế đối đầu với họ Trịnh, sao tìm được bậc lương tướng, biết vận độ nhật nguyệt, tiên đoán họa phúc. Lại thông cả sự biến di của chim muông cây cỏ, nhận ra hiểm địa núi sông mà bày trận pháp. Ðược người như thế, ta sẵn lòng trao gươm báu, tặng ấn nguyên nhung khiển tướng điều binh…
-Ý huynh muốn được người thần cơ diệu kế như Lã Vọng Khổng Minh, trận mạc ngoài cõi đảm đương, trong trướng quyết định mưu mô quỷ thần kinh phục. Ðệ hằng tin trời chẳng phụ kẻ tâm thành. Huynh nhân nghĩa gồm đủ, hiệu lệnh nghiêm minh, chuộng tôi trung, khử kẻ nịnh. Quân ta, trên dưới tướng sĩ một lòng quyết giữ cõi, sức mạnh như núi, địch dù mạnh đến đâu cũng chẳng xô ngã nổi Thái Sơn.
-Chú nói cho ta vui. Bấy lâu ta vẫn phó thác việc nước cho Tường Quận Công (Nguyễn Phúc Khê) vì nghĩ mình tuổi đời đã trọng, chẳng mấy chốc đến tuổi thất thập. Nào ngờ trời chẳng cho yên, ngày đêm mang nặng nỗi lo, ăn chẳng ngon, ngủ không an giấc. Ở vào thế chẳng đặng ta phải chống Trịnh, nào ai muốn cảnh tang tóc đao binh?
-Huynh chí lý nhưng ta vì đại nghĩa phải xả thân, có đâu điềm nhiên thị tọa mặc cho kẻ gian hùng tác quái…
Ðêm khuya, tiếng trống canh ba chừng sắp điểm. Mảnh trăng hạ tuần vàng nhạt le lói trên đỉnh non mờ. Gió nhẹ vọng từ xa tiếng dế rền rĩ rên siết. Ðức Hòa đứng lên :
-Ðêm khuya, huynh đi nghỉ lấy sức…
Hòa chưa nói hết câu, rút tập sách mỏng trong tay áo trịnh trọng trao chúa:“Ðệ có viên gia sư soạn thuật quyển Ngọa Long Cương vãn, đệ đọc qua thấy ý vị cao thâm, xin tặng huynh xem từ điệu ngôn ngữ y bày tỏ.” Chúa nhận quyển, chậm rãi băng qua hoa viên về thư phòng ngay góc vườn, nơi chúa thường ngồi đọc sách, có khi nghỉ qua đêm.
Ðêm ấy Ðức Hòa trằn trọc lo lắng. Ý định của Hòa muốn tiến cử viên gia sư với chúa. Trống điểm canh năm, Hòa nhìn sang thư phòng vẫn thấy ánh đèn. Ðêm ấy chúa cũng không ngủ, chăm chú đọc Ngọa Long Cương vãn, nghiền ngẫm nghĩ suy chẳng thấy thấy mỏi mệt. Trời mờ sáng, thấy chúa ra khỏi thư phòng, Hòa cũng trở dậy ra thư hiên gọi hầu cận pha tuần trà sớm hầu chúa. Hòa chuyên trà từ chén tống sang chén quân, trịnh trọng dâng chúa. Chúa nói:
-Ðêm qua ta không ngủ, mải miết đọc, suy ngẫm Ngọa Long Cương vãn, lòng thích thú quên mỏi mệt. Ta nghĩ kẻ soạn thuật tài cao học rộng, mộng kinh bang tế thế. Về binh pháp chẳng nhượng Khổng Minh nên tự ví mình như người ấy, lại đặt tên vãn là Ngọa Long Cương, nơi Khổng Minh ẩn cư. Viên gia sư Ðào Duy Từ là ai, cho ta nghe lai lịch.
Ðức Hòa nghe chúa nói mừng thầm thưa:
-Duy Từ năm nay tuổi ngoại ngũ tuần, vốn người huyện Ngọc Sơn xứ Thanh Hóa, tự ấu thơ miệt mài đèn sách. Năm vừa hai mươi về kinh ứng thí, chí mong dụng chốn quan trường lập thân thỏa chí với đời. Nào ngờ vì là con nhà ca xướng nên bị cấm thi. Bấy giờ thân phụ Từ là Ðào Tá Hán đang làm chức Linh quan (coi đội nữ nhạc) trong cung vua Lê. Bị cấm thi, cho là hoạn lộ bế tắc, Từ phẫn chí buồn bực, tìm vui trong cung đàn nhịp phách. Khi thân phụ mãn phần, vì giỏi nhạc nên được vua cử làm Linh quan thay chức cha…
Như chợt nhớ điều gì, chúa bỗng dưng ra dấu ngắt lời Ðức Hòa, thích thú nói:
-Ta nhớ ra rồi. Hồi Tiên Vương (chỉ Nguyễn Hoàng) vừa ở Thăng Long về, thỉnh thoảng ngài có nhắc đến người này, khen y là tay danh sĩ đất bắc, tiên đoán chuyện đời chẳng kém Trạng Trình. Có lần y khuyên Tiên Vương nên tìm cách trở lại Thuận Quảng, chia đôi giang sơn với họ Trịnh. Chuyện bấy nay kể đã khá lâu, nhưng sao y lại phiêu dạt về Qui Nhơn, rồi lý do nào khiến chú gặp y?
-Huynh chớ nôn nóng nghe đệ kể rõ ngọn ngành vì câu chuyện lý thú. Khoảng trên mười năm sau, một lần Duy Từ đi vào phương nam, ghé huyện Phong Lộc phủ Quảng Bình tìm thăm bạn cũ. Từ dừng chân ngắm núi Thần Ðinh, rặng núi hướng về phía tây hiểm trở cao ngất đụng mây, duy nhất có một ngọn lạc lõng hướng về phía nam, dân địa phương gọi là núi Bất Nghĩa. Lại nghe đồn những đêm rằm thường thấy phật hiện trên núi, hào quang tỏa sáng rực trời. Từ tò mò mạnh bước lên non. Ðến lưng chừng núi thấy ngôi chùa cổ đề Kim Phong Tự. Chùa nay hoang phế, khói lạnh hương tàn. Sau chùa có động lớn, bên trong đá xếp như bàn ghế, có tảng đá giống hình phật tham thiền, nhiều tảng hình thù kỳ dị. Từ đang mải mê say ngắm, bỗng giật mình nghe tiếng người gọi tên mình, giọng nói nhỏ nhưng thanh âm trong trẻo nghe rất rõ. Từ hướng về phía tả thấy ông lão khoác áo vàng ngồi trên tảng đá lớn, Từ nghĩ là phật vội sụp lạy chẳng dám ngước nhìn. Tiếng nói lại vang lên:“Ta chờ người nhận thần thư đã lâu. Hãy tới động có tiếng chiêng trống nhận báu vật”. Bấy giờ Từ mới dám ngẩng đầu thấy ông lão đã biến mất. Từ vui mừng bước ra khỏi động. Trời về chiều, nắng vàng nhẹ giăng. Từ đứng lặng nhìn quanh tìm động có tiếng chiêng trống như lời phật dạy. Núi rừng vẫn lặng lẽ u tịch vắng cả tiếng chim hót. Từ lần theo phía tả ngôi chùa, vui mừng nhận ra cửa động khuất sau mấy bụi cây thấp, băng băng bước tới mặc gai nhọn cào xước. Cửa động nhỏ chỉ vừa một người lọt qua, vào sâu bên trong động rộng dần, thạch nhũ ẩn hiện mang nhiều dáng lạ. Từ nghe những giọt thánh thót tựa tiếng chiêng trống. Ðây đúng là nơi có thần thư. Từ mải miết kiếm tìm khắp động tuyệt không thấy gì . Bóng tối phủ, đêm mênh mông. Từ mỏi mệt ngồi ăn cơm nắm, định tâm ngủ đêm trong động chớ mai sáng tiếp tục. Ðêm ấy Từ thao thức, đêm dài lê thê. Từ vui khi nhận ra những vệt sáng mờ, trời rạng sáng. Từ nhỏm dậy lần mò quanh quẩn. Cả ngày hôm ấy, qua đêm thứ hai, sang ngày thứ ba vẫn không tìm ra thần thư. Từ nản chí bước ra khỏi động thờ thẫn ngó đất trời. Bỗng nhớ chuyện xưa Trương Lương ba lần nhặt dép, hai lần bị mắng, mười ngày chầu chực mới được Hoàng Thạch Công trao Thái Công Binh Pháp. Người xưa kiên nhẫn, ta há chịu nhường? Từ hăm hở trở vào động. Ngày qua đêm về, Từ mỏi mệt thiu thiu tìm tảng đá dựa lưng. Khoảng nửa đêm, có tiếng tiếng sấm động ầm ầm, một vệt sáng xanh rọi vào tảng đá tựa hình sư tử. Từ choàng tỉnh bật dậy lần đến tảng đá, thấy ngay tập sách dầy mạ vàng khắc bốn chữ Hoàng Phủ Binh Pháp. Từ mừng rỡ ôm sách vào ngực, quỳ lạy tạ, lần trong bóng tối ra cửa động, dõi theo ánh trăng mờ xuống núi. Duy Từ mười năm đóng cửa miệt mài nghiên cứu binh thư , thiên văn địa lý… chờ thời cơ đem tài kinh luân thao lược phù tá minh chúa. Năm Ất Sửu1625, Từ luận họ Trịnh phản bội chính nghĩa phù Lê, nhà Lê thực chất chỉ là xác không hồn. Từ thấu rõ mối hiềm khích giữa hai họ Trịnh Nguyễn, lại nghe huynh nhân ái, chiêu hiền đãi sĩ nên quyết tâm vào phương nam phù minh chúa tạo thế lực mới chống Trịnh. Y đi khắp Thuận Quảng xem phong thủy, làm người hát rong kể chuyện độ thân. Năm sau Từ đến Qui Nhơn, theo lời kể của Từ, y biết tiếng đệ hào sảng, trọng người tài năng, lại là người thân thiết với huynh nên quyết định dừng chân, ẩn thân trong nhà một tay hào phú. Ít lâu sau, người này phát giác tài văn chương thi phú của Từ. Viên hào phú nghe đệ đang cần gia sư bèn giới thiệu Từ . Gặp y thấy người phong thái nho nhã, đệ nhận ngay.
-Ra y cố tình gặp chú để chú tiến cử, quả là tay mưu trí tinh đời. Nhưng sao cả năm nay chú mới nói chuyện Duy Từ với ta?
-Ông cha thường dậy:Cư cửu kiến nhân tâm. Ở lâu mới biết được người. Ðệ phải tìm hiểu y hàng năm, biết chắc y có thực tài, không phải phường khoa trương khoác lác mới dám tiến cử lên huynh. Ðệ biết y đang soạn bộ binh thư rất ư huyền diệu, có đủ hỏa công thủy chiến, xà trận điểu trận, mưu mô tướng lược…
Chúa mừng khôn xiết. Ví Duy Từ như Khổng Minh Lã Vọng thuở xưa, truyền Ðức Hòa trở lại Qui Nhơn dẫn Duy Từ đến bệ kiến. Như chia xẻ niềm vui, hôm sau chúa gặp Hữu Dật, kể Dật nghe chuyện Ðào Duy Từ, lại đưa Ngọa Long Cương vãn . Chúa bảo:“Hãy đọc kỹ rồi luận ta nghe tài văn chí khí người soạn thuật.” Dật bái tạ nhận sách.
Vài hôm sau chúa hỏi Dật. Dật thưa:
-Tâu chúa thượng, người soạn thuật nét bút tao nhã trang nghiêm, ý văn tế nhị sâu sắc nhưng về thực tài thần chẳng dám lạm bàn.
-Ngươi nói phải. Dẫu sao ta không thể bỏ qua không dụng người này. Ta biết gỗ quý củi mục, tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
Chúa biết tính Dật bộc trực, chẳng tin loại xướng ca.
Vài ngày sau, Quận Công Trần Ðức Hòa trở về Qui Nhơn. Ðức Hòa gặp Ðào Duy Từ kể mọi sự. Từ cảm kích bái tạ người tạo cho mình cơ hội thi thố tài năng phù vua giúp nước, phát huy tinh túy của tướng môn. Công việc phủ đường bận rộn mãi hơn tháng sau, Ðức Hòa mới thu xếp ổn thỏa dẫn Duy Từ ra Thuận Hóa chuẩn bị lễ dẫn kiến.
Ðến Chính Dinh gặp lúc chúa đi lễ chùa Thiên Mụ, thường vài ngày sau mới trở về. Ðức Hòa thu xếp cho Duy Từ ở công quán, còn mình dành thì giờ đi đó đây thăm bằng hữu. Sáng hôm sau, khi Duy Từ đang ngồi uống trà bỗng thấy thư sinh tuổi trạc hai mươi đến xin gặp. Thư sinh cung kính thi lễ:
-Danh tiếng tiên sinh loan truyền khắp chốn. Tiểu sinh may mắn được đọc Ngọa Long Cương vãn, lòng cảm phục bội phần. Cổ nhân dậy một trong những niềm vui lớn trên đời là được gặp người tài năng quán thế nên đường đột tới đây, xin tiên sinh khoan dung chớ trách người trẻ vô lễ.
Thấy thư sinh nói năng lễ độ, Từ vui vẻ ra dấu mời ngồi:
-Ta dân dã há dám coi trời bằng vung, cho mình tài năng quán thế. Một đời cầu mong tu thân dưỡng đức, đọc sách thánh hiển mở rộng học nghiệp, chẳng phụ công phụ mẫu sinh thành dưỡng dục, chẳng thẹn với đất trời.
Thư sinh nghe Từ nói ra vẻ suy nghĩ, lại hỏi:
-Tiểu sinh nghe tiên sinh am tường âm luật tất yêu tiếng ca, cung đàn nhịp phách. Hậu sinh ngu muội chẳng hiểu nổi cái tinh túy của nhạc âm?
Biết thư sinh ngụ ý chê mình con nhà xướng ca, Từ nghiêm nghị:
-Nhạc âm sinh tự tâm nên gây xúc động. Tiếng sáo Trương Lương làm quân Sở tan rã, Sở Bá Vương phải hủy mình. Tiếng trống thúc quân làm lòng người phấn chấn quyết chiến chẳng tiếc thân. Ngay nghi lễ xưa nay tiếng nhạc nào vắng? Kẻ rành nghe nhạc biết được đạo đức, sự tồn vong thịnh suy của xã hội. Ðất mầu nuôi cây tốt, nước đục tôm cá cũng gầy còm. Ðời thịnh nhạc hùng dũng ý nghĩa nuôi dưỡng chí khí con người. Ðời suy nhạc dâm, ẻo lả u sầu mà người ưa thích tất đức suy nước loạn. Thầy Tuân Tử dậy: Quân tử để tâm vào đạo mà sửa đức, chỉnh đức để làm nhạc, hòa nhạc để thành thuận, để chỉnh đốn mọi việc. Nên kẻ coi khinh người soạn nhạc, kẻ xướng ca chẳng qua vì họ nông cạn nghĩ suy, mắt mù tai điếc, trí óc tật nguyền.
Thư sinh lặng yên giây lâu, tiếp:
-Tiên sinh chí như Khổng Minh, ngồi trong lều cỏ định việc thiên hạ. Vậy cái thế thời xưa nay có khác?
-Tào Tháo mượn uy vua sai khiến chư hầu khác nào họ Trịnh bây giờ? Họ Nguyễn ở phương nam không khuất phục. Sãi Vương ngang nhiên bãi bỏ các quan chức họ Trịnh cắt đặt, chấp nhận thế đối nghịch, muốn tạo cõi riêng thoát khỏi quyền lực phương bắc. Thế phân tranh đã rõ.
-Phương nam nhiều thành lũy kiên cố, kho tàng xúc tích có đủ sức thắng Trịnh chăng?
-Phương nam thưa người rộng đất, xây nhiều thành lũy tất dân lao nhọc nhiều nên sức kiệt, kho tàng tích lũy tất sưu cao thuế nặng khiến dân oán. Ðó là mầm bại vong, lấy chi thủ thắng.
-Vậy theo cao kiến tiên sinh, bậc minh chúa làm sao định được thiên hạ?
-Cổ nhân dậy:Người được lòng dân sẽ được thiên hạ. Minh chúa khoan dung độ lượng, chăm lo cho dân, giảm nhẹ sưu thuế, thương cái mệnh của dân, tiếc cái chết của dân tất dân cũng xả thân với vua với nước. Minh chúa chiêu hiền đãi sĩ tất hào kiệt tụ về như cá tụ chỗ nước sâu.
Thư sinh nghe Duy Từ luận bàn ra vẻ đắc ý. Lại hỏi:
-Khổng Minh ra giúp Lưu Huyền Ðức dựng lại nghiệp Hán lúc tuổi ngoài hai mươi. Nay tiên sinh quá nửa đời người mới ra giúp nước e quá muộn màng?
Duy Từ cười:
-Quân tử dù có tài kinh bang tế thế chưa gặp thời nên ẩn thân giữ chí khí. Nếu minh chúa cần đô vật sức mạnh đánh hổ báo thì ta xin thua, nhưng cần người bàn việc nước thì ta quá trẻ. Ngươi đọc sử sách há chẳng biết Bách Lý Hề xuất thân nông dân nghèo khổ, tuổi bảy mươi mới ra làm tướng quốc nước Tần. Lã Vọng tuổi tám mươi còn ngồi câu bên sông Vị độ nhật vẫn được Văn Vương trọng tài bái làm tướng soái. Ấy là những bậc tài danh, trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, hiểu thấu lẽ xuất xử ở đời. Khi ra giúp nước đem hết năng lực tế thế an dân, ngoài trận tiền ra kỳ vào chính. Thế mà vẫn khiêm cung lễ độ, trên kính dưới nhường nên ngàn đời sử sách lưu danh. Còn những kẻ tóc xanh mà chỉ biết lấy cái học tầm chương trích cú câu danh lợi, làm thi làm phú cười gió cợt trăng lòe thiên hạ đã dám tự nhân nho gia, coi thường hào kiệt, khinh chê lễ nghĩa thật chỉ là lũ tiểu nhân sâu mọt phá nhà hại nước.
Thư sinh nghe Duy Từ nói có vẻ thẹn, thi lễ lui gót.
Tối hôm sau chúa vừa hồi dinh, Hữu Dật đã chờ sẵn trình việc:
-Cống Quận Công (Ðức Hòa) về dinh chờ chúa thượng làm lễ dẫn kiến Ðào tiên sinh. Tiên sinh hiện ở công quán.
-Ngươi đã gặp Duy Từ?
-Ngay hôm Ðào tiên sinh mới đến, thần giả làm thư sinh đến thử tài biện luận của người.
-Ngươi thấy người ấy ra sao?
-Ðào tiên sinh biện luận thâm sâu, sở học trên đời khó ai bì kịp.
Nghe Hữu Dật nói chúa mừng lắm, chúa biết Hữu Dật tuổi trẻ kiêu ngạo ít khi phục tài ai. Chúa cho người gọi Trần Ðức Hòa, truyền dẫn ngay Duy Từợ vào dinh. Hòa can:
-Ðã tối trời, huynh đường xa mỏi mệt nên ngơi nghỉ chờ sáng mai. Xưa Lưu Huyền Ðức tam cố thảo lư cầu Khổng Minh. Nay huynh cũng nên lấy lễ mà tiếp Duy Từ khiến y cảm phục bậc minh chúa chiêu hiền đãi sĩ.
Chúa cho là phải. Hẹn đầu giờ thìn sáng mai Ðức Hòa dẫn Duy Từ vào.
Sáng sớm hôm sau, Duy Từ vừa thức giấc đã thấy Ðức Hòa và viên nội giám mang áo mão văn quan chúa ban đến cho Từ. Duy Từ cảm kích theo Ðức Hòa vào dinh. Tại công đường, Chúa Sãi áo mão chỉnh tề đã ngồi đợi sẵn. Thấy Duy Từ dung mạo uy nghi, nói năng khiêm tốn đáng mặt danh tài, chúa nói:
-Ta mộ danh người nay mới cơ may gặp gỡ, tuy muộn nhưng chưa đến nỗi như Lã Vọng thuở xưa.
Duy Từ kính cẩn:
-Tiện dân chỉ là kẻ hủ nho nơi chốn quê mùa, nào ngờ được chúa thượng thương tưởng ban mũ áo mà lòng áy náy cảm kích muôn vàn.
-Chúa tôi gặp gỡ là cơ duyên ngàn năm, như Cao Tổ gặp Tử Phòng, như Huyền Ðức gặp Khổng Minh… Ðế vương gặp hiền tài là nên đại nghiệp.
-Tiện dân chẳng dám ví mình với tiền nhân, chỉ mong tận dụng năng lực phù tá chúa thượng đền đáp tấm lòng minh chúa. Những mong được như Khổng Minh, một lòng phù chúa”cúc cung tận tụy, tử nhi hậu hĩ”, hết lòng tận tụy, đến chết mới thôi.
Chúa truyền bày tiệc khoản đãi Duy Từ và các cận thần như Quận Công Nguyễn Phúc Khê, Tham Tướng Nguyễn Triều Văn, Quận Công Nguyễn Vệ… Thấy chúa phong thái đĩnh đạc, thân mật gần gũi quần thần. Từ vui mừng không cảm thấy xa lạ, cùng mọi người trò chuyện thân mật tự nhiên. Ðang chờ nhập tiệc bỗng thấy văn quan trẻ tuổi từ ngoài bước vào đến trước Duy Từ thi lễ:
“Tiểu sinh là Hữu Dật kính cẩn ra mắt tiên sinh. Xin ngài miễn thứ tội vô lễ.” Duy Từ nhận ra ngay Hữu Dật chính là thư sinh gặp mình ở công quán, hiểu chuyện Hữu Dật muốn gặp mình thử tài biện bác nên vui vẻ cười xòa. Trong bữa tiệc, mọi người bàn về chuyện chiêu hiền đãi sĩ. Ðược Phúc Khê hỏi ý, Duy Từ đáp:“Trên đời biết bao người cảm thán sinh bất phùng thời, bao người đau khổ vì chẳng có dịp thi thố tài năng. Vì chẳng có thời cơ nên bao anh tài đắm chìm như hạt cát trong dòng lịch sử, chỉ đôi người cơ may trở thành những ngôi sao rực rỡ ghi khắc sử xanh. Nay ta mở rộng vòng tay mời đón nhân tài, chính là tạo thời cơ cho họ vậy.” Phúc Khê cho chí lý.
Tàn tiệc, chúa dành cho Duy Từ căn nhà khang trang ngay trong dinh, đủ kẻ hầu hạ. Sau vài ngày bàn bạc với Phúc Khê, chúa cho gọi Duy Từ:
-Tổ chức ở dinh ta đặt ba ty lo mọi việc chính trị: Xá sai ty giữ việc từ tụng văn án, Tướng thần lại ty lo lương thực thuế khóa, Lệnh sử ty giữ việc tế tự, lương tiền… Từ trước đến giờ ta vẫn giao Tường Quận Công (Phúc Khê) giữ Lệnh sở ty. Nay ta giao cho người thay quận công, làm Nha Úy nội tán giữ ty ấy.
Duy Từ bái tạ, đội ơn chúa phong tước cao, giao trọng trách.
Từ ngày nhậm chức, Từ mải miết suy nghĩ đêm ngày chỉnh đốn công việc, mọi kế hoạch trình chúa đều thuận, chúa tôi tâm đắc. Chúa thường bảo với quần thần:“Ta có quan Nội Tán khác nào Huyền Ðức có Khổng Minh.”
Một lần chúa hỏi:
-Sức ta nay so với Trịnh thế nào?
Duy Từ trả lời thẳng thắn:
-Nói cho công bình ta yếu sức hơn Trịnh bởi nội lực chưa được củng cố, giao tranh lâu ngày suy yếu tất bại vong. Thần sẽ cố trong ba năm chỉnh đốn các mặt. Nếu ta làm hoàn hảo, không những có thể chống mà còn đủ lực tấn công Trịnh. Thần nghĩ tấn công là cách phòng thủ hay nhất.
-Xưa Quản Trọng một tay vực nước Tề từ yếu thành mạnh. Ngô Khởi giúp Lỗ thì Lỗ mạnh, giúp Ngụy thì Ngụy thắng, giúp Sở thì Sở phú cường… Nay ta có nên theo cái phép người xưa mà dựng nước?
-Với người xưa, ta không nhất thiết bắt chước cái phép, chỉ nên thấu hiểu cái tinh thần. Mục đích của thần lấy sức thiên hạ sinh của cải, lấy của thiên hạ dùng việc thiên hạ. Thần đã có chủ trương cải cách thuế khóa, chiêu hiền, tuyển binh, học hành khoa cử…
-Dân ta bấy lâu thiếu chữ nghĩa do sự học chưa mở mang. Vậy giáo dục theo ngươi phải cải cách thế nào?
-Thần nghĩ lối học từ chương, chú sớ của Hán nho, Ðường nho nên bỏ. Học là cầu ở cái tinh thông nghĩa lý, chớ không cầu thuộc sách cho nhiều.
Chúa bóp trán suy tư:
-Mọi việc nhờ ngươi toan liệu. Dục tốc bất đạt, cứ tuần tự nhi tiến, chậm mà chắc vẫn hơn.
Ðược chúa tin yêu, Duy Từ miệt mài công việc. Nhiều đêm ngủ lại công đường không thiết chi trở về dinh ngơi nghỉ. Chúa biết chuyện càng thêm cảm mến.
Mùa hạ năm Kỷ Tị 1629 trời nóng bức lạ thường. Khoảng đầu tháng sáu, nhiều toán người từ miền bắc bỏ quê hương phiêu bạt vào phương nam tìm đất sống. Ai nấy gầy guộc bước thất thểu do đói khát cơ khổ lâu ngày. Thấy cảnh chạnh lòng, Duy Từ truyền quân thu xếp quán dịch cho người hoạn nạn tạm trú, gọi một người tuổi trung niên vào công đường hỏi han. Người ấy kể:“Bẩm quan, hai trấn Thanh Nghệ gặp hạn lớn, nắng cháy thiêu lúa má, cây cối héo khô, lá hoa ủ rũ. Nhiều vùng hết thóc, dân ăn cả củ mài củ gấu, đến như cóc nhái rắn rết, cào cào châu chấu… cũng bị người ăn cạn kiệt, chó đẻ ra chẳng kịp mở mắt. Người người lũ lượt ra đi, kẻ ra bắc ăn mày đầu đường xó chợ những nơi thị tứ, người vào nam lê tấm thân tàn tạ còm cõi như những bóng ma thất thểu đi vật vờ trong cõi âm. Trên đường đi, tôi gặp cơ man xác chết, người già con trẻ, đàn ông đàn bà. Thôi thì đủ cách chết, chết ngồi chết nằm, chết co chết quắp, chồng lên nhau mà chết… Chúng tôi may còn sống là nhờ vào đến khu vực Bố Chính được người thương xót, rủ lòng cho miếng cơm cặn canh thừa…”
Duy Từ nghe xong suy nghĩ, rạng ngày tâu chúa lập kế hoạch đón định cư người hoạn nạn. Chúa buồn rầu:
-Nhìn thấy bao cảnh khổ trên đời, từ chiến chinh lửa máu, đến đói khổ lầm than mà lòng thêm xót xa. Ngẫm lời Phật dạy cõi thế trầm luân sinh lão bệnh tử, nợ phù sinh lắm nỗi mấy ai thoát bến mê, cứ mải miết chìm đắm trong ưu tư phiền não bộn bề… Ta trót sinh ra, phải lăn mình vào chốn tranh đua, những mong tìm chỗ chân như để lòng giác ngộ…
Thấy chúa ưu phiền, Duy Từ chậm rãi:
-Thần kiến thức nông cạn xin góp vài câu thô thiển, chúa thượng lượng xét bao dung. Thiển nghĩ chúa thượng xuất thân thế gia vọng tộc, nhận mệnh trời cai quản một giang sơn, uy đức bao trùm trăm họ yên vui no ấm. Quốc gia hưng đạo ắt thịnh, có minh quân ắt có chân đạo sĩ. Tu tại chùa là nơi u tĩnh, dễ xa lánh những mê đắm thế gian. Nay chúa thượng ở ngay chốn đô hội mà giác ngộ được người, được mình ấy mới thật sự đạt đến cái chân đạo lý…
Chúa nghe cúi đầu suy nghĩ khẽ thở dài. Duy Từ lảng sang chuyện khác:
-Nay đàng ngoài mất mùa đói kém, thần đoan chắc Trịnh Tráng sẽ cho người vào thúc dục thuế khóa, đòi nộp thóc lúa cứu nguy, vừa dò ý định của ta, vừa dọ thám tình hình thuận lợi sẽ động binh chinh phạt. Xin chúa thượng tiên liệu kế sách đối phó.
Chúa cho là phải, hứa sẽ hội ý bàn bạc cùng các cận thần.
***
Tại Thăng Long mùa thu năm ấy (1629), Thanh Ðô Vương Trịnh Tráng gặp gỡ cận thần bàn tình hình Thuận Quảng. Chúa nói:
-Mấy năm nay Nguyễn Phúc Nguyên tự cao tự đại, coi thường phép vua quyết không chịu nộp thuế. Ta đã động binh nhưng hắn ngang nhiên chống lại, tội phản nghịch rõ ràng, nếu không hưng binh trừng phạt còn chi uy tín triều đình.
Quần thần hăng hái luận bàn, đa số chủ hòa chưa muốn động binh. Chúa nghe xong kết luận:
-Xét lời bàn các khanh có phần hợp lý. Nay phía bắc bọn giặc cỏ ngụy Mạc vẫn chưa yên, thừa cơ quan quân rút về lại nổi lên quấy phá, dù chúng chưa làm nên chuyện nhưng cũng tạo cho ta nỗi lo. Hơn nữa Thanh Nghê hạn hán mất mùa, lê dân khốn khó, nếu động binh ngay có nhiều bất lợi. Chi bằng tạm quên chuyện cũ giả cách thuận hảo, cho người đệ sắc vào Thuận Quảng phong Phúc Nguyên tước quốc công, truyền nộp thóc lúa, buộc y thân hành về kinh sư điều quân đánh Cao Bằng. Nếu y ra đây khác nào cọp lìa rừng. Bằng muốn kháng cự ta sẵn sàng chinh phạt. Ðó là diệu kế, binh xuất hữu danh.
Chúa cho thi hành kế sách, sai Thượng Thư Nguyễn Khắc Minh viết đạo sắc phong, đích thân Khắc Minh lên đường vào nam gặp Chúa Sãi.
Tin sứ Trịnh vào nam không làm Chúa Sãi ngạc nhiên. Chúa nói với Duy Từ:“Quan Nội Tán liệu việc như thần, lòng ta xiết bao cảm kích”. Lần đầu chúa thân mật gọi Từ bằng chức vị, Từ hiểu hơn ai hết ưu ái của chúa dành cho. Chúa tiếp:“Ta đã có chủ trương, mọi việc cứ tuần tự nhi tiến”.
Sứ bộ đến vào buổi trưa, Duy Từ đích thân dẫn các quan chức đến chào mừng. Từ nói với sứ giả (Thượng Thư Nguyễn Khắc Minh):
-Nguyễn tướng công nhọc mệt trong người chẳng được trọn lễ. Cử tôi và bá quan đón tiếp sứ bộ, xin ngài niệm tình chớ chấp nê.
Khắc Minh lễ độ:
-Tôi tuy sứ của triều đình, nhưng kẻ ở phương xa vẫn là khách. Nay được quan Nội Tán và quý ngài tiếp đón niềm nở xiết bao vinh hạnh, nào có điều chi dám chấp nhất phiền hà.
Duy Từ truyền bày tiệc khoản đãi sứ bộ đến khuya mới từ tạ, hẹn sáng mai sẽ mời sứ bộ đến diễn vũ trường xem diễn binh, thật sự ý muốn phô trương sức mạnh quân lực Thuận Quảng.
Rạng sáng, Duy Từ cử Hữu Dật đến quán dịch mời sứ bộ lên đường xem diễn binh. Khắc Minh và sứ bộ đến khán đài phía cánh tả, đi giữa hai hàng binh gươm giáo tuốt trần, khí thế bừng bừng như sắp lâm chiến.
Diễn vũ trường là khu vực rộng lớn, xa xa những ngọn đồi thấp, dưới là khu rừng thưa có con sông nhỏ uốn khúc bao quanh. Khắc Minh nhìn lên tướng đài thấy Duy Từ mặc áo dài xanh thêu chữ thọ, đầu đội khăn chữ nhân. Từ ngồi trên ghế nệm tay phe phẩy quạt lông, phong thái nho phong đĩnh đạc chẳng khác quân sư Khổng Minh thuở trước. Hai bên có hai võ tướng trẻ áo giáp trắng đeo trường kiếm trông uy nghi lẫm liệt. Khắc Minh hỏi Hữu Dật về hai viên tướng trẻ. Dật thưa:
-Người bên trái quan Nội Tán là Nguyễn Ðình Hùng, tay tướng trẻ võ nghệ tuyệt luân, hung thần tiễu trừ giặc cướp vùng tây nguyên. Bên phải là Nguyễn Phúc Vệ cũng là trang danh tướng.
Khắc Minh lặng yên, dư biết Vệ chính là người chỉ huy đánh bại quân Trịnh mấy năm trước tại cửa sông Nhật Lệ.
Tiếng loa vang báo giờ diễn binh đã điểm. Tiếng chiêng trống liên hồi phá tan không gian tĩnh lặng, tiếng trống lúc dồn lúc khoan trầm bổng thôi thúc. Duy Từ đứng dậy bước tới trước tướng đài. Lá cờ xanh từ tay Từ vừa phất, tiếng pháo lệnh vang rền như sấm. Từ phía đông, đoàn chiến mã mang trên lưng những kỵ sĩ áo xanh vun vút lao vào trận địa mịt mù bụi khói. Khoảnh khắc, diễn vũ trường tràn ngập mầu xanh, đoàn chiến mã tiến thối nhịp nhàng uốn lượn như rắn. Khắc Minh hiểu ngay Duy Từ lập trận trường xà nhưng thế trận biến hóa kỳ ảo đến chóng mặt. Trên tướng đài Duy Từ phất cờ đỏ, tiếng trống trận đổi nhịp chậm nhưng vang như sấm rền. Từ những ngọn đồi, đàn voi trận do các quản tượng áo đỏ ào ào lao vào trận địa như muốn xé nát quân ngũ, phá tan thế trận của những kỵ mã áo xanh. Diễn vũ trường trở thành bãi chiến, hai mầu xanh đỏ như trộn vào nhau, tiếng vũ khí va chạm, tiếng la thét vang trời. Toán tượng binh bị vây chặt trong lưới nhện của trận không cách gì phá nổi hoặc rút khỏi trận thế. Thượng Thư Khắc Minh ngây người theo dõi, thầm cảm phục tài điều binh khiển tướng xuất quỷ nhập thần của Ðào Duy Từ. Trên tướng đài Duy Từ hạ cờ xanh, thế trận mở rộng, đoàn kỵ mã áo xanh tỏa ra tám hướng, mở vòng vây cho toán tượng binh rút khỏi trận thế, biến mất sau rừng cây phía đông…
Ðêm hôm ấy, Khắc Minh trằn trọc. Sứ giả chúa Trịnh kinh ngạc trước sức lớn mạnh của quân lực Nguyễn, cộng với tài năng xuất chúng của Duy Từ. Với sức mạnh ấy, quân Trịnh chắc chắn sẽ gặp địch thủ vô cùng nguy hiểm hơn đám tàn quân nhà Mạc ở biên thùy phía bắc.
Sáng hôm sau, sứ bộ vào đại điện gặp Chúa Sãi. Vừa bước vào cửa, Khắc Minh thấy hai hàng bá quan văn võ sắc phục tề chỉnh, Chúa Sãi đường bệ uy nghi ngồi trên ngai cao. Khắc Minh bưng sắc vàng đệ lên, chúa bước xuống tiếp sắc. Vua Lê tấn phong Chúa Sãi làm Tiết Chế Thuận Quảng, Thái Phó Quốc Công. Truyền mang nạp lễ gồm voi và thuyền triều cống Minh Triều, ra Ðông Ðô triều yết nhà vua nhận lệnh điều binh đánh ngụy Mạc ở Cao Bằng.
Xong chiếu chỉ, chúa và bá quan quay về phương bắc vái tạ hồng ân hoàng thượng.
Sau nghi lễ, chúa bày tiệc khoản đãi sứ bộ. Chúa nói với Khắc Minh:
-Ông phụng mệnh triều đình, chẳng ngại đường xa lao nhọc mang đến tin vui, lòng này cảm kích. Tôi sẽ dâng biểu văn lên hoàng thượng, đa tạ tấm lòng minh quân thương tưởng công thần, ban thêm phẩm tước.
-Tôi vào đây là vâng mệnh vua, phận thần tử tuân phục đấng chí tôn chẳng từ nan bất cứ điều gì, dù phải vào chốn hiểm nguy dầu sôi lửa bỏng.
Duy Từ ngồi gần nghe Khắc Minh nói, hiểu thâm ý Khắc Minh ngầm trách Chúa Sãi bấy lâu không vâng phục mệnh lệnh triều đình. Chúa bình thản tiếp:
-Gia tộc tôi ba đời thờ vua, dựng cờ đại nghĩa nên trước sau như nhất, một dạ tôi trung, những mong kề cận hoàng thượng sớm tối hộ vệ. Ngặt nỗi nay mang trọng trách trấn giữ biên trấn, tình thế khẩn trương một khắc chẳng dám rời. Nhưng nay mọi việc tạm ổn, thế nào rồi cũng tạo dịp trở ra Ðông Ðô.
Khắc Minh ra vẻ vui, nói:
-Tôi vốn thân cận với Thanh Vương (chúa Trịnh), thường nghe người tâm sự:“Ta với Nguyễn Quận Công vốn chỗ thân thuộc. Hai họ Trịnh Nguyễn mấy đời gắn bó ra sức phù Lê, giữ yên nghiệp đế. Dù có lúc hiểu lầm nhau nhưng việc xảy ra chẳng có chi đáng tiếc. Nay anh em xa cách lâu năm, những mong có dịp tương ngộ”.
Chúa cả cười:
-Nào chỉ có Thanh Vương mới nghĩ thế, lòng ta có khác chi. Ông khải với Thanh Vương, Phúc Nguyên này mong tái ngộ ngài, cùng điều binh đánh Mạc, chỉ qua hồi trống đủ phá tan giặc rạng danh hào kiệt cõi nam.
Vài ngày sau, chúa tặng sứ bộ nhiều phẩm vật. Ðích thân quan Nội Tán tiễn sứ hồi kinh. Chúa Sãi và Duy Từ tiếp tục đàm luận. Chúa nói:
-Ta đã qua bước đầu tiếp sứ giả, cho ta nghe kế trả sắc phong. Ta xưng hùng một cõi, làm chúa một phương há cần họ Trịnh phong tước?
-Việc trả sắc thần đã liệu xong, nhưng trước khi trả sắc, tức công khai khiêu khích miệt thị họ Trịnh, ta phải có kế phòng thủ vẹn toàn vì Trịnh chắc chắn động binh rửa nhục. Thần nhiều phen quan sát kỹ đất Quảng Bình, nghĩ suy cặn kẽ lập kế hoạch. Ta nên dựa thế hiểm, đắp chiến lũy phòng thủ chận các mũi tấn công của Trịnh. Thành lũy như phên giậu của đất nước, vừa bảo vệ biên trấn, vừa che chở cho dân quân. Chỉ một ngàn quân đầy đủ lương thực dự trữ, trang bị thêm hàng trăm đại pháo đủ sức chọi hàng vạn quân tấn công, đồng thời tổ chức phục binh, cắt đường vận lương… Ấy là thượng kế.
Duy Từ trình chúa bản đồ chi tiết đắp lũy khởi từ làng Trường Dục dưới chân Trường Sơn tới phá Hạc Hải giáp sông Nhật Lệ. Lũy dài khoảng 2500 trượng (10 đến 12 cây số), chiều cao, chiều rộng chân lũy tùy địa hình đắp rộng hẹp cao thấp. Phía tây chiến lũy là vùng núi hiểm trở, phía tây là phá Vạn Xuân bốn mùa lầy lội. Chúa hỏi:
-Công trình to lớn ắt hao tổn người của, người tính toán ra sao?
-Việc phải khẩn trương hoàn tất. Thần và Hữu Dật đích thân xúc tiến, ước lượng phải dụng khoảng năm ngàn quân dân Thuận Quảng, chỉ nội một tháng là xong. Vật dụng gỗ ván tre nứa có sẵn trong rừng. Khoản tiền thực phẩm lương thực không quá lớn.
-Ngoài việc đắp chiến lũy ta còn vấn đề nào khác?
-Mặt nam tương đối ổn, chúa thượng nghĩ cách tăng mối giao hảo với Chiêm Thành để hoàn toàn yên tâm không ngại người Chiêm thừa cơ xâm lấn khi ta đương đầu với Trịnh.
Chúa suy nghĩ giây lâu, hỏi tiếp:
-Với Chiêm Thành ta đã có chủ trương, nhưng sao chỉ chú trọng phòng thủ Quảng Bình? Thủy binh Trịnh rất hùng hậu. Trịnh có thể đổ bộ vùng biển phía nam Thuận Quảng, làm gọng kìm bao vây phủ chúa.
Duy Từ trả lời ngay:
-Nếu ta nắm được Chiêm Thành, thủy binh Trịnh dù mạnh chẳng dám vào sâu, sợ bị kẹp giữa quân Chiêm và ta. Các cửa biển gần như cửa Việt, cửa Eo (Thuận An) thì phải theo các sông Quảng Trị, Thuận An tiến về phủ. Hai sông này chật hẹp dễ bị phục binh. Thần cam đoan không bao giờ Trịnh dám mạo hiểm tiến quân theo ngả ấy. Cách duy nhất chỉ là vượt sông Nhật Lệ, từ đấy làm bàn đạp tấn công vào phía nam.
Chúa vui vẻ chấp thuận kế hoạch. Ngay tháng sau, Duy Từ khởi công đắp lũy Trường Dục. Chúa sai Quận Công Nguyễn Phúc Khê lên đường vào kinh đô Chiêm Thành thắt chặt giao hảo. Chúa nói:
-Việc này hệ trọng nên tôi cậy chú một phen lao nhọc. Ngày phụ thân còn, người vẫn ôm mộng bành trướng lãnh thổ về phương nam, khoảng hai mươi năm trước, dù trọng tuổi người vẫn xung trận đánh chiếm phần đất Chiêm bên kia đèo Cù Mông lập phủ Phú Yên. Vài năm nay ta giao Nguyễn Hữu Vinh trấn đất ấy (Vinh là con rể của chúa). Vinh trẻ tuổi tài cao, cai trị giỏi khiến tôi yên tâm, nhưng người Chiêm chưa quên hận xưa vẫn thường quấy phá. Chú đi chuyến này, mục đích thắt chặt giao hảo với họ, nhiệm vụ nặng nề khó khăn nhưng tôi tin chú khôn ngoan trầm tĩnh, việc khó mấy cũng thành.
Phúc Khê tạ anh cùng đoàn tùy tùng lên đường mang theo nhiều phẩm vật quí giá tặng vua Chiêm.
Tháng sau, lũy Trường Dục hoàn thành. Chúa hài lòng sau khi đích thân đến quan sát, hết lời khen ngợi Duy Từ. Chúa nói chiến lũy kiên cố chẳng kém Vạn Lý Trường Thành của nhà Tần thuở xưa. Ngày trở về phủ lại nhận thêm tin vui, Quận Công Phúc Khê từ Chiêm Thành trở về cho chúa biết công việc kết quả tốt đẹp. Khê nói:
-Lúc đầu vua Chiêm có ý e dè, thái độ cởi mở thân thiện của mình làm y yên tâm. Hữu Vinh cho đệ biết vua Chiêm hiện có hai vợ, một bà người Chiêm, một bà người mọi vùng cao, nhan sắc tầm thường. Vua Chiêm ham nữ sắc. Biết vậy đệ nói với y: Chúa nước nam có con gái da dẻ trắng ngần, sắc đẹp chim sa cá lặn. Y nghe mừng rỡ, ngỏ ý muốn làm phò mã nhà chúa. Ý huynh nghĩ sao?
Chúa cười lớn:
-Chú có nhớ vùng đất chúng ta cai quản hôm nay tự đâu mà có? Ðó là sính lễ vua Chiêm Chế Mân tặng vua Trần để cưới công chúa Huyền Trân. Không ngờ lịch sử tái diễn, công chúa Ngọc Khoa họ Nguyễn thua chi công chúa họ Trần. Lại nữa, Ngọc Vạn đã là hoàng hậu Chân Lạp thì Ngọc Khoa làm hoàng hậu Chiêm Thành rất xứng. Ta có hai phò mã là hai ông vua, danh giá nào hơn. Chú viết thư ngay cho vua Chiêm nói ta chấp thuận, muốn hắn đích thân đến kinh đô nước nam làm lễ đính hôn rồi tiếp lễ thành hôn. Chú nói ta thông cảm giản dị lễ nghi vì phò mã đường xá xa xôi, lại là vua một nước.
Cuối xuân, đám cưới vương giả cử hành. Công chúa Ngọc Khoa lên kiệu hoa về nhà chồng, tận nước Chiêm xa xăm, mở rộng thêm đường nam tiến của dân Việt. Chúa Sãi bùi ngùi nhìn theo kiệu hoa đến khi khuất bóng…
Dăm tháng sau, chúa vui mừng nhận tin vua Chiêm sủng ái Ngọc Khoa, tôn thờ nhan sắc, cho người tạc tượng nàng để trong tháp ngà…
Chúa bàn tiếp với Duy Từ chuyện trả sắc phong. Từ nói:
-Thần đã liệu xong mọi việc. Ta sẽ làm chiếc mâm hai đáy, trên để lễ vật, dưới để sắc phong. Người đi sứ thần chọn viên Ty Lại Văn Khuông, y là người trầm tĩnh khôn ngoan, có tài ứng đối.
-Cho ta nghe tỉ mỉ kế hoạch, việc lỡ Văn Khuông sẽ không toàn mạng trở về.
-Thần thảo sẵn những câu đối đáp bắt Khuông học thuộc, cùng là lễ nghi khi triều yết vua, dự trù sẵn phương tiện thoát thân ngay khi dâng phẩm vật bên phủ chúa. Ðường đi nước bước vùng Ðông Ðô thần nằm lòng, xin chúa thượng yên tâm.
-Cho ta nghe qua câu đối đáp.
-Chúa Trịnh sẽ cật vấn sao không nộp thuế, nộp phẩm vật triều cống như đã hứa, việc binh bị dân sinh, việc đắp lũy Trường Dục…
Ðầu mùa hạ năm Canh Ngọ 1630, Văn Khuông dẫn sứ bộ ra bắc. Sau khi đệ tiến lễ vật tạ ơn vua Lê sắc phong, dâng phẩm vật nhiều vàng bạc lụa là, Văn Khuông được lệnh sang phủ chúa Trịnh thính hầu. Nằm lòng những câu vấn đáp do Duy Từ soạn, Văn Khuông trả lời chúa Trịnh trôi chảy khiến chúa thầm khen tài biện bác. Chúa cho sứ bộ về dịch xá nghỉ ngơi, chờ nhận lệnh triệu. Mười ngày qua, sứ bộ thong thả rong chơi ngoạn cảnh kinh kỳ, chẳng hề thấy lệnh triệu của phủ chúa. Văn Khuông nghĩ đã đến lúc phải thoát thân, cho đoàn tùy tùng giả đi chơi, lẻn xuống Hải Dương neo thuyền đợi sẵn. Ngay sau đó đến dinh quan Thượng Thư Nguyễn Khắc Minh xin thiếp văn trở về. Khuông mang đến cái mâm hai đáy nói với Khắc Minh:
-Tôi ở kinh đô đã lâu, lòng nôn nóng muốn trở về. Phiền ngài khải chúa cấp cho thiếp văn.
Chỉ mâm đồng phủ vải điều buộc kín, Khuông tiếp:
-Ðây là chút lễ mọn chủ tôi tiến dâng lên Thanh Vương, tôi nhờ ngài chuyển vào phủ chúa.
Khắc Minh nói:
-Ngày mai ta sẽ khải chúa ra lệnh triệu. Còn phẩm vật, đích thân ông phải dâng chúa cho đúng lễ nghi. Ông cứ gửi đây, ta chẳng quản ngại.
Chỉ mong có thế, Văn Khuông bái tạ cáo từ, lên ngựa ra roi phóng thẳng đến điểm hẹn, xuống thuyền cùng sứ bộ căng buồm về nam. Tất cả vui mừng hoàn thành sứ mệnh.
Hôm sau, Khắc Minh vào phủ khải chúa việc sứ đàng trong muốn diện kiến dâng phẩm vật của Quốc Công Nguyễn Phúc Nguyên. Chúa hỏi:
-Sao hắn không dâng phẩm vật ngay hôm mới đến mà phải chờ đến nay?
Khắc Minh thưa:
-Thần nghe hắn nói phải tuân lệnh chủ, chờ đến gần ngày về mới dâng phẩm vật.
Chúa thuận, hẹn sáng sớm cho Văn Khuông vào phủ. Buổi chiều, Khắc Minh sai thủ hạ đến dịch xá báo tin, thủ hạ về trình dịch xá vắng tanh không có bóng người. Khắc Minh biết việc bất thường, khẩn báo vào phủ. Chúa sai Ðề Lĩnh, viên quan chỉ huy bảo vệ kinh đô đem quân vây dịch xá. Quân tiến vào chỉ thấy đồ đạc ngổn ngang, khám xét cẩn thận chẳng thấy gì lạ. Sứ bộ đàng trong đã xa chạy cao bay.
Chúa nghi ngại, truyền Khắc Minh đem mâm phẩm vật vào phủ. Mâm khá dầy, mở ra bên trên chỉ thấy trầu cau. Chúa thấy lạ sai đập mâm, thấy sắc phong của nhà vua nằm dưới lớp vải điều. Chúa nổi nóng vỗ án:“Phúc Nguyên vô đạo, ngạo mạn coi khinh phép vua, đúng là lũ tâm xà khẩu phật. Hắn trả lại sắc phong, ngang nhiên bội phản, tội trạng rành rành, không hưng binh chinh phạt còn chi thể thống. Ta nguyền bắt hắn về, quỳ giữa sân triều cho quần thần vấn tội”. Ðám cận thần thấy chúa thịnh nộ, cúi đầu im lặng chẳng dám nhìn lên. Chúa nhìn dưới đáy mâm thấy có mảnh hoa tiên trên viết bốn hàng chữ. Chúa đọc dăm lần chẳng hiểu ý gì, trao cho Khắc Minh bảo giải nghĩa. Khắc Minh chăm chú đọc, bóp trán suy nghĩ:
-Khải chúa, thần biết bốn câu này do chính Ðào Duy Từ viết, nhưng trí nông không hiểu thấu ẩn nghĩa. Xin cho hội ý với đồng liêu tìm giải đáp.
Chúa thuận. Ðám văn quan, toàn những bậc khoa bảng chăm chú đọc, suy nghĩ luận bàn. Kết quả khải chúa: Phúc Nguyên không nhận sắc phong.
Chúa chưa nguôi giận, truyền đám cận thần họp khẩn lập kế chinh phạt, rũ áo bước vào hậu cung.
Các quan tuân lệnh chúa luận bàn. Ðám võ quan nóng tính đa phần chủ chiến, đám văn quan dè dặt nói cần cân nhắc kỹ do tình hình các nơi vẫn chưa yên, nhiều vùng mất mùa dân sống cơ cực đói kém, cần trữ lương thực cứu tế xoa dịu nhân tâm. Mọi người để ý Lễ Bộ Thượng Thư Nguyễn Thực lặng yên không ý kiến. Nguyễn Thực đỗ tiến sĩ, nổi tiếng thanh liêm cương nghị, ăn ngay nói thẳng, triều thần trọng nể, ngay cả vua chúa cũng tin dùng giao trọng trách. Triều thần còn nhớ chuyện xẩy ra hồi cuối xuân, Nguyễn Thực dập đầu can vua Thần Tôn quyết không lập Trịnh Thị Ngọc Hạnh làm hoàng hậu, can chúa chớ làm trái luân thường đạo lý. Nguyên Ngọc Hạnh con gái chúa, là vợ của Quận Công Lê Trụ, bác họ nhà vua. Ngọc Hạnh có với Lê Trụ bốn mặt con. Trụ phạm tội phản nghịch bị cầm, chúa buộc vua cưới Ngọc Hạnh lập làm hoàng hậu. Ðám cưới xong, trời làm mưa dầm hàng tháng. Nhiều phố phường kinh đô biến thành sông, buôn bán ngưng trệ nhiều người chết đói, bao kẻ lê lết khất thực đầu đường xó chợ. Ðạo lý tơi tả trong cuộc bể dâu.
Họp hành đến chiều vẫn chưa dứt khoát, các quan tạm nghỉ hẹn ngày mai tiếp tục. Ai nấy đoán già Thượng Thư Nguyễn Thực thế nào cũng lên tiếng phản bác phe chủ chiến. Ý kiến của Thực sẽ nghiêng đòn cân về phía chủ hòa.
Sáng sớm, chúa nhận được tin khẩn từ Lạng Sơn. Ðám tàn quân Mạc đánh phá nhiều vùng, Trấn Thủ Cao Bằng xin triều đình tăng cường viện binh. Ðám cận thần tiếp tục cuộc họp dang dở. Gần trưa, chờ mọi người nói xong, Nguyễn Thực đứng lên nghiêm trang phát biểu, giọng nói thấp cao sắc cạnh đanh thép:
-Thưa các ngài, tôi tuy quan văn nhưng sinh thời biến loạn nên cũng nghiền ngẫm binh pháp các nhà, hầu ứng xử cho hợp thời thế, mưu việc ích quốc lợi dân. Cứ xem tình thế nước ta, chỉ tính từ đầu xuân đến nay, các ngài hẳn nhận ra bao điều thuận, không thuận. Ðấng bề trên phỏng có hòa, quan lại nhiều nơi bất xứng, nhũng lạm sách nhiễu, trong dân chúng người người có được ấm no, an cư lạc nghiệp? Tôi đọc Ngô Tử, sách viết:“ Muốn dụng dân mưu đại sự, trước hết phải hợp ý dân. Chớ cậy tài giỏi, sức mạnh mà chủ quan. Nên đem đại sự cáo tỏ trời đất tổ tiên, với triều thần xét việc lành dữ. Nếu tất cả đồng thuận tất nên dấy binh… Lại xét đàng trong, mấy năm nay thuận lợi, mùa màng tốt tươi, nhân dân no ấm. Phúc Nguyên rắp tâm phản bội, cố khai thác tài năng của Ðào Duy Từ, xây thành đắp lũy, củng cố binh bị. Tình hình trong ấy, quan Thượng Thư Bộ Lại ắt rõ hơn ai do mới từ trong ấy về. Bàn việc nước phải ngay thật, sáng suốt nhận đúng cái thời cái thế. Vài ý thô thiển, quý ngài lượng định.”
Ngay hôm ấy, các quan đồng thuận khải chúa tạm ngưng việc binh, chờ khi thuận lợi. Trong khi chờ nên tăng cường dọ thám tình hình để nắm địch tình. Chúa nghe không nói gì. Việc chinh phạt Thuận Quảng không thấy nhắc đến…
***
Tại đàng trong, Chúa Sãi vui mừng thấy sứ bộ bình yên trở về. Nghe Văn Khuông tường trình chuyến đi kết quả tốt đẹp, chúa hậu thưởng mọi người, thăng chức Văn Khuông. Chúa cười nói với Duy Từ:
-Ngươi đáng mặt quân sư, liệu việc như thần. Phen này Trịnh Tráng và đám bề tôi kinh hoàng vỡ mật, giận thấu trời xanh. Ngươi nghĩ việc phòng thủ đàng trong còn chi khiếm khuyết?
Duy Từ hớn hở:
-Khiếm khuyết hẳn không thể tránh. Kế hoạch tiếp của thần, ta phải động binh đánh chiếm ngay Nam Bố Chính, lấy sông Gianh làm ranh giới chia đôi sơn hà với họ Trịnh. Kế phòng thủ hay nhất là tấn công. Nay Trịnh chưa phòng bị, ta phải đánh trước chiếm thượng phong.
-Làm thế có phiêu lưu quá chăng? Tại sao phải chiếm Nam Bố Chính?
-Thần đã tính kỹ. Phải chiếm ngay Nam Bố Chính để giữ sông Gianh, dựa vào hiểm địa để ngăn quân Trịnh. Sông Gianh còn có tên Linh Giang. Sông dài rộng, gần biển thường có sóng lớn khác nào chiến hào trời tạo ngăn trở đôi bờ bắc nam. Tướng Trịnh giữ Nam Bố Chính là Tri Châu Nguyễn Tịch. Hắn không phải tướng tài, ta đánh bại hắn dễ như trở bàn tay.
Chúa nghĩ giây lâu, hỏi:
-Ngươi định dùng ai làm tường, cần bao nhiêu quân, bao lâu thắng trận?
-Thần sẽ dùng Nguyễn Ðình Hùng làm tướng (Quận Công Nguyễn Ðình Hùng vốn họ hàng với chúa). Hùng vũ dũng, đánh tấn công giỏi ít người bì kịp. Ta cần năm ngàn quân, bất ngờ tấn công qua đêm là toàn thắng.
Chúa nghe phấn khởi, truyền Ðình Hùng chuẩn bị hành quân. Chỉ non nửa tháng, chúa nhận tin thắng trận. Tri Châu Nguyễn Tịch bị tấn công bất ngờ trong đêm, một mình một ngựa tháo chạy đã tử thương. Hàng ngàn quân Trịnh bị bắt làm tù binh, chiến địa ngổn ngang xác chết, vũ khí vứt la liệt… Chiến thắng khởi đầu giai đoạn chia cắt. Sông Gianh là giòng phân ly đôi bờ, như lưỡi gươm cắt ngang thân thể Việt Nam ứa máu, non nước ngậm ngùi. Dân đôi bờ nam bắc chấm dứt thông thương. Hai họ Trịnh Nguyễn cùng lợi dụng danh nghĩa phù Lê, cùng nắm ngôi vương làm chúa tể hai miền nam bắc.
***
Sau chiến thắng, Chúa Sãi tuy vững tin hơn vào sức mạnh quân sự, vẫn ra sức củng cố nội bộ, mộ thêm quân sẵn sàng chờ cuộc tấn công của Trịnh. Duy Từ lo lắng mọi việc, chuyên chú soạn binh thư buộc các tướng cẩn thận nghiên cứu. Mọi nỗ lực của Từ hầu như dành cho cuộc chiến Trịnh Nguyễn sẽ diễn ra khốc liệt, quy mô rộng lớn hơn.
Cuối xuân năm Tân Mùi 1631, Duy Từ bàn với chúa:
-Sau trận thắng năm ngoái, tuy việc bố phòng Nam Bố Chính được củng cố nhưng thần vẫn còn nhiều e ngại. Ngặt nỗi công việc bộn bề, chưa rảnh tay xem lại mọi việc. Nay thấy việc tạm ổn, thần xin chúa thượng cho phép đích thân thị sát lại toàn bộ hệ thống phòng thủ.
-Ta cũng có ý ấy, ngại nỗi thấy quân sư ngày đêm tận tụy lo lắng hao tổn sinh lực, sức khỏe khó bề chịu đựng. Chi bằng nên dành thời gian tĩnh dưỡng thuốc men phục hồi, sau đó liệu việc cũng chẳng muộn.
Nghe chúa nói Duy Từ cảm động. Lần đầu tiên Từ nhận ra chúa đổi cách xưng hô gọi mình là quân sư, trong tia nhìn, trong cách nói của vị chúa phương nam biểu lộ thâm tình mặn mà ruột thịt. Từ ngày ấy, cứ mấy bữa, quan thái y nhận lệnh chúa đến chẩn bệnh săn sóc sức khỏe, thường xuyên bốc những thang thuốc bổ quý giá nhất cho nhân vật đang kê vai gánh trách nhiệm bảo vệ mảnh giang sơn chúa Nguyễn ở phương nam.
Hơn tháng sau, Duy Từ lại ngỏ ý muốn tiến hành dự tính. Chúa thuận nhưng cử Hữu Dật đi theo phụ giúp. Duy Từ vui mừng khen chúa tinh tế chọn người giao việc. Hữu Dật trẻ người nhưng thông minh sâu sắc, tính khí ngay thẳng, kính trọng Duy Từ như vị thầy khả kính. Dưới mắt Duy Từ, sau này Hữu Dật sẽ là bề tôi lương đống tài đức chẳng nhường ai.
Hai thầy trò cùng mười người lính khỏe mạnh tháo vác hộ tống lên yên thẳng đường ra phía bắc. Vượt qua lũy Trường Dục bề thế kiên cố, Duy Từ hài lòng thấy tướng sĩ trên dưới một lòng quyết tâm chiến đấu bảo vệ biên trấn, đoàn người vào địa phận Nam Bố Chính vào một buổi chiều trời trong nắng nhạt, vùng đồi núi hùng vĩ chập chùng bốn phía vây quanh. Duy Từ cho ngựa phi nước kiệu lên ngọn đồi thấp dừng lại quan sát. Chỉ ngọn núi phía tây, Duy Từ nói với Hữu Dật:
-Ngươi nhìn kỹ ngọn núi kia, thế núi hùng vĩ vút cao như cây xà mâu đâm thẳng lên trời. Ðó là núi Ðâu Mâu, triền dốc hiểm trở. Ta trấn núi ấy, địch dù có cánh chẳng thể vượt qua…
Hữu Dật chăm chú nhìn, nghĩ con người khác nào con sâu cái kiến trước cảnh đất trời mênh mông sâu thẳm. Dật nói:
-Tiếc là núi ấy ta chưa lập đồn phòng thủ, thầy hẳn có chủ trương?
-Ðó là thiếu sót của ta do chưa có thời gian nắm vững địa hình. Ta đi chuyến này ý muốn bổ túc khiếm khuyết. Ngươi nhìn kỹ trước núi Ðâu Mâu còn có nhiều rặng núi thấp như đàn rùa bò lên cao. Thế núi khác chi chiến lũy, ta cố nghĩ cách khai thác địa hình thiên nhiên, một trong những điều quan trọng của binh pháp.
Quay sang hướng nam, Duy Từ chỉ ngọn núi cao chót vót:
-Kìa là núi Thần Ðinh, ngọn duy nhất hướng về nam thay vì hướng tây như những ngọn khác. Dân vùng này thường gọi núi Bất Nghĩa, phong cảnh nên thơ hữu tình. Ta đã có dịp lên núi ngoạn cảnh, nhìn xuống vùng thượng lưu sông Nhật Lệ. Sau Thần Ðinh còn nhiều ngọn núi khác. Tựu chung, vùng này gồm đủ núi non sông ngòi, vùng đồng lầy rộng lớn được hai rặng núi chắn trông tựa càng cua.
Suốt gần tháng trời, đoàn người băng núi vượt sông nghiên cứu địa hình. Ngày đi đêm đốt lửa căng võng nghỉ. Hữu Dật vẽ bản đồ chi tiết, ghi chú cẩn thận những vùng đi qua. Duy Từ quyết định tâu chúa kế hoạch đắp lũy Ðộng Hải. Lũy Ðộng Hải sẽ bề thế, dài hơn lũy Trường Dục, hệ thống phòng thủ tăng cường nhiều đại pháo. Duy Từ nói:
-Với lũy Trường Dục, quân Trịnh vẫn vượt được sông Nhật Lệ. Nay ta đắp lũy mới có ý ngăn quyết không cho địch vượt sông.
Hữu Dật nghe giảng giải cảm phục bội phần. Thấy công việc hoàn tất, ngay hôm sau, Duy Từ cùng đoàn tùy tùng lên đường trở về. Qua địa phận Ái Tử, Duy Từ nhận được hung tin: Thế tử Nguyễn Phúc Kỳ, Trấn thủ Quảng Nam, con trai trưởng của chúa vừa đột ngột từ trần.
Chúa Sãi năm ấy tuổi ngót bảy mươi. Chúa có mười một công tử, trai trưởng là Phúc Kỳ được chọn làm Thế Tử. Phúc Kỳ được chúa chú tâm đào tạo từ tấm bé, văn võ tinh thông. Kỳ nói năng khiêm tốn, liệu việc cẩn trọng, lại giống phụ vương rất mộ đạo Phật nên chúa yêu quý. Ðược cử giữ chức Trấn Thủ Quảng Nam, Kỳ sống mẫu mực, giỏi cai trị không phụ lòng người cha kỳ vọng.
Duy Từ về đến nơi trời sẫm tối, lệnh cho đoàn tùy tùng về nhà nghỉ ngơi, còn mình vào thẳng vương phủ vấn an chúa. Trăng mười sáu tròn vành vạnh, tỏa sáng trên các mái ngói, trên các lối đi trải đá thoảng mùi hương lài dìu dịu. Quan tài Thế Tử đặt giữa công đường, đèn đuốc sáng trưng nồng nặc hương khói. Ðám cận thần vẫn còn dăm người ngồi hai bên quan tài. Thân nhân người chết đang quỳ trước linh cửu, sau lưng vị sư áo vàng ê a tụng niệm. Câu kinh trầm buồn, lê thê điểm những tiếng chuông ngân buồn da diết. Chúa ngồi cúi đầu trầm ngâm trên chiếc cẩm đôn bọc lụa vàng. Duy Từ đợi xong nghi lễ, bước vào thắp hương trước linh cửu, đến lạy chào chúa. Chúa ngước nhìn bâng quơ:“Quân sư mới về”. Duy Từ kính cẩn:
-Thần vừa về đến, nghe hung tín vội vào ngay vương phủ.
Chúa buồn bã:
-Thế Tử tài đức nào ngờ mệnh yểu, cuối đời ta mang nỗi khổ cha già khóc con.
Duy Từ hỏi qua bệnh tình. Chúa đáp:
-Công chúa kể tháng trước, Thế Tử người vẫn khỏe nhưng thường than nhức đầu, đau phía sau gáy, đôi khi xây xẩm. Hôm nọ đang ngồi trong thư phòng, Thế Tử ngã sấp ngất sỉu, vài ngày sau là đi.
Duy Từ nói dăm câu an ủi, lạy tạ chúa trở về tư dinh. Lợi dụng những ngày phủ chúa lo tang ma, Duy Từ lập phương án đắp lũy Nhật Lệ. Hơn tuần sau, Duy Từ gặp chúa. E ngại chúa muộn phiền, Duy Từ chỉ trình bày sơ lược kế hoạch. Chúa nghe xong nói sẽ từ từ toan liệu.
Việc tang ma Thế Tử kéo dài hàng tháng mới xong. Duy Từ nôn nóng muốn trình chúa chi tiết nhưng chúa ở hậu cung không thiết triều, hầu như hoàn toàn giao việc nước cho Quận Công Nguyễn Phúc Khê. Duy Từ cho Phúc Khê xem kế hoạch, nói việc đắp chiến lũy rất khẩn cấp chớ nên chần chờ. Phúc Khê trình chúa dự án. Chúa nói:“Việc phòng thủ mặt bắc ta đã có lũy Trường Dục, lại nới rộng lãnh thổ đến tận sông Gianh, kể ra tạm ổn. Việc đắp chiến lũy mới xét chưa cần, chớ nên bắt quân dân phải quá khó nhọc lao khổ, tinh thần nao núng, nên chờ lúc thuận tiện sẽ liệu”. Phúc Khê thuật lại cho Duy Từ nghe, lại nói:“Chúa thượng muộn phiền chưa nguôi, thân hình tiều tụy. Quân sư rán đợi thời gian để người phục hồi. Tôi tin ngài sẽ thuận kế hoạch của quân sư”. Duy Từ nghe buồn bã trở về tư dinh, từ đấy đóng cửa đọc sách, soạn binh thư thác bệnh không vào triều…
Sáng nọ trời đẹp trong xanh, Duy Từ sai hầu cận thắng ngựa, ăm mặc như khách thương dạo chơi phố xá. Ðàng trong tuy không phồn thịnh như đàng ngoài nhưng phố phường khá tấp nập người chợ búa bán buôn. Qua khu chợ, Duy Từ ngừng ngựa nghe lũ trẻ tụ tập hò hát: “Kể từ em bước chân ra. Bỏ con bỏ cả cửa nhà em đi. Em tham tiền bạc làm chi. Mà em bỏ giỗ năm ni không về? Vợ chồng đầu gối má kề. Em ơi nghĩ lại mà về với anh. Mực tàu khéo họa nên tranh. Khi giận anh mắng khi lành anh thương… Mình anh đứng thảm ngồi sầu. Ngóng em mỏi mắt dạ rầu như dưa, Chờ em hết sớm lại trưa. Em còn mê mẩn sao chưa trở về!”. Duy Từ đăm chiêu, tại sao câu hò trên những chuyến đò dọc ngang sông Mã, giòng sông thân yêu xứ Thanh Hóa quê ông lại vượt ngàn trùng vào tận nơi đây? Bấy lâu xa cách, nay nghe điệu hát cũ lòng bỗng bâng khuâng ngậm ngùi. Ý thơ lục bát thở than trách móc người phụ tình bỏ xứ tha phương. Từ sai hầu cận hỏi lũ trẻ. Trẻ trả lời câu hát do thần nhân dậy. Vó ngựa từng bước chậm rãi vào sâu thôn xóm, bỗng thêm một lần ngừng. Duy Từ lại nghe lũ trẻ khác hát. Hát rằng:“Trèo lên cây bưởi hái hoa. Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Em đi lấy chồng anh tiếc lắm thay”. Duy Từ sai hầu cận hỏi. Trẻ lại đáp do thần nhân dậy. Nét mặt đang u uẩn suy tư của quan Nội Tán chợt nở nụ cười tươi, như vừa nghĩ điều thích thú. Duy Từ hiểu hai khúc hát do một người cố tình dậy cho lũ trẻ, mong sẽ đến tai mình. Từ truyền hầu cận mua bánh phát cho lũ trẻ, buộc trẻ học thuộc, lại nói phải hát thường xuyên. Hát rằng:“Tiếc gì một lá trầu cay. Sao anh không hỏi những ngày còn không. Bây giờ em đã lấy chồng. Như chim vào lồng như cá cắn câu. Cá cắn câu biết đâu mà gỡ. Chim vào lồng biết thuở nào ra?”
Ðêm ấy Duy Từ ngồi rất lâu ngoài hiên sau, ngắm con trăng lênh đênh trên đỉnh trời tròn tỏa ánh sáng dịu phủ trên cây lá. Gió nhẹ mây vương, tiếng dế than não nề canh vắng. Từ hiểu thâm ý của những câu hát, âm mưu họ Trịnh muốn dùng tình cảm dụ Từ bỏ Chúa Sãi trở về đất tổ. Chim xa rừng thương cây nhớ tổ, người đành đoạn lìa xa chốn quê… Tài trai chí lớn không thành há chịu một đời tay trắng? Canh bạc đời bày sẵn, không cơ mưu quyền biến ôm hận một đời. Họ Trịnh bạc bẽo coi khinh nhân tài buộc lòng chim sáo sang sông…
Sáng ra, Duy Từ sai mấy hầu cận đi khắp nẻo chợ. Từ dặn thấy kẻ lạ kíp theo dõi gắt, chớ để cá vượt lưới. Dăm hôm sau, hầu cận trình:
-Bẩm tướng công, ngoài chợ có kẻ lạ lang thang, giọng nói rõ người đàng ngoài. Hắn thường đến chỗ đông người kể chuyện xưa tích cũ, xin người nghe rộng lòng bố thí. Tôi nhiều phen dọ hỏi chẳng ai rõ tung tích kẻ ấy, chỉ biết hắn xuất hiện mới non nửa tuần trăng.
Duy Từ nghe gật gù:
-Hình dạng kẻ lạ?
-Người tầm thước, da ngăm, ăn mặc thô sơ, đầu trần chân đất nhưng có dáng của người ăn học.
-Hắn thường kể chuyện chi?
-Chuyện Khổng Minh Gia Cát Lượng thông thiên đạt địa nhưng không cãi nổi mệnh trời. Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên. Cuối cùng đời con Lưu Bị vẫn phải hàng phục họ Tào. Chuyện Việt Vương Câu Tiễn nằm gai nếm mật quyết tâm phục quốc, khi thành công lại giết công thần. Chuyện Hán Cao Tổ giết Hàn Tín. Duy Trương Lương chủ trương”công thành thân thoái” nên tránh được tai họa.
Duy Từ ngẫm nghĩ, nói:
-Ngươi tiếp tục tìm kẻ tình nghi. Khi nào gặp hắn đang kể chuyện cấp báo ngay. Ta sẽ đến tại chỗ xem hắn có điều chi đáng ngờ.
Dăm hôm sau được báo, Duy Từ mặc áo quần thô sơ như thường dân, chen vào đám đông theo dõi kẻ lạ. Thoạt trông, Từ vô cùng kinh ngạc nhận ra kẻ lạ chính là Tú Ðỗ, người đồng hương thân thiết Từ vẫn coi như em. Ðỗ là tay văn nhân, đỗ tú tài nhưng bỏ đèn sách khoa cử dù Ðỗ thông minh đĩnh đạc, luận bàn thế sự trước sau hết lẽ. Ðỗ ở quê dậy dăm ba đứa trẻ làm kế sinh nhai. Thấy Ðỗ hay chữ, nhiều phụ huynh gửi con em đến học. Mùa nào thức ấy, học trò biếu thầy nào thóc gạo thịt thà, khi nải chuối buồng cau… Ðược cái Ðỗ dễ tính, ai cho gì nhận nấy chẳng hề hé môi kêu nài nên phụ huynh yêu mến năng tạ lễ thầy. Cuộc tình bi thương của Ðỗ làm người người thương cảm. Năm đôi tám Ðỗ cưới vợ. Người vợ cùng làng Ðỗ rất mực yêu thương. Vài tháng sau ngày cưới, hương lửa đang mặn nồng, vợ Ðỗ bị cọp vồ mất xác khi vào rừng đẵn củi. Ðỗ thẫn thờ đau đớn, thề quyết thủy chung với tình, sống đơn độc. Ai cũng nghĩ thời gian hàn gắn vết thương lòng, Ðỗ còn trẻ chắc chắn xây tổ ấm mới. Thời gian qua, mười năm rồi hai ba mươi năm sau. Con người thủy chung không sai câu thề trước vong linh người vợ trẻ, ai nấy thầm phục Ðỗ một dạ sắt son. Duy Từ chưa hiểu tại sao Ðỗ lại bỏ quê trôi giạt vào đây.
Người nghe lặng yên, chăm chú nghe Ðỗ miên man kể tài trí Khổng Minh. Nào là Khổng Minh thiệt chiến quần nho, nộ khí Chu Du, thất cầm Mạnh Hoạch… Nhưng cặp mắt thông minh, tính tường của Ðỗ vừa kịp nhận ra trong đám người nghe có mặt Ðào Duy Từ, quân sư của vị chúa phương nam. Người đang làm nghiêng đòn cân chiến thắng về phía chúa Nguyễn, người đang làm chúa Trịnh nát óc điên đầu lẫn nuối tiếc để Từ lọt mắt xanh chúa phương nam. Người mà Ðỗ tha thiết muốn gặp, những mong tìm lời can ngăn Duy Từ chớ dùng tài năng xui chúa Nguyễn gây cuộc binh đao nồi da xáo thịt. Người Việt vốn dĩ hòa vi quý, người đàng trong đàng ngoài anh em một nhà nỡ nào bôi mặt đá nhau, không phòng cái họa ngàn năm từ phương bắc… Ðỗ cao giọng, như cố ý cho Duy Từ nghe rõ: Mới hay hoàng thiên hữu nhãn định đoạt mọi việc trong sách trời. Thành hay không là do ý trời. Khổng Minh cuối cùng không cứu nổi nghiệp Hán… Thuận ý trời thì còn, nghịch ý trời tất mất. Sử xanh ngàn đời ai khen việc binh đao nồi da xáo thịt. Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng…
Hết chuyện Khổng Minh, Ðỗ chuyển sang chuyện Việt Vương Câu Tiễn. Ðỗ kể nước Việt kể như đã mất về tay nước Ngô nhưng nhờ Câu Tiễn quyết tâm nếm mật trả hận, rắp rắp theo mưu hai đại phu quyền biến Văn Chủng, Phạm Lãi nên dựng lại nghiệp bá. Thành việc, Lãi gửi thư cho Chủng khuyên Chủng “công thành thân thoái”, chim hết phải cất cung, thỏ chết chó săn sẽ bị nấu. Vua cổ dài mồm nhọn, chỉ chung lao khổ không thể chung hưởng phú quí. Văn Chủng đọc thư phiền muộn, tấn thối lưỡng nan. Thấy Chủng lâu cáo bệnh không vào triều, Câu Tiễn ngờ vực gọi Chủng vào chầu. Vua nói:“Người dậy quả nhân bảy thuật đánh Ngô, nay ta mới dụng ba mà nước Ngô đã mất. Còn bốn thuật nữa, người nên xuống suối vàng trợ giúp tiên vương”. Nói xong trao kiếm cho Chủng. Việt Vương Câu Tiễn xử án tử đệ nhất công thần tàn nhẫn lạnh lùng. Văn Chủng mang mối hận ngàn đời về nơi vĩnh cửu, không van xin lạy lục. Phạm Lãi thức thời bỏ đi ngao du sơn thủy nên thoát thân…
Ðỗ mời mọi người nghe chuyện cuối. Chuyện tay hào kiệt đất Hoài Âm tên Hàn Tín. Tín thuở hàn vi không nuôi nổi thân phải nhờ cậy nhiều người. Ðã thế đi đâu cũng đeo liễu kiếm. Có tên đồ tể ngứa mắt thách thức: Hàn Tín, mi dáng cao lớn nhưng đói khổ, lại thích chơi kiếm. Nếu là tay hào kiệt thì hãy đâm tao, bằng không nên lòn dưới háng tao mà đi.
Tín lẳng lặng không nói, luồn dưới háng tên đồ tể. Ai nấy cùng cười chê Tín hèn nhát. Gặp thời biến loạn, Tín theo phò Sở Bá Vương Hạng Võ. Bá Vương không nhận ra tài năng của Tín, thậm chí coi thường. Hàn Tín buồn nản bỏ đi. Hán Vương Lưu Bang mưu dựng nghiệp bá, tin lời tiến cử của mưu thần Trương Lương bái Tín làm đại tướng, đeo ấn nguyên nhung chấp chưởng binh quyền. Tín thuở xưa khác nào thiên lý mã bị nhốt chung chuồng với đám ngựa trâu tầm thường, nay có người nhận ra ngựa quý, đưa đến chốn đồng cỏ thênh thang mặc sức tung vó ngàn dậm dong ruổi. Quân Hán do Tín chỉ huy sức mạnh tăng vạn lần. Tín vượt Tây Hà cầm tù vua Ngụy, chiêu hàng nước Triệu, uy hiếp nước Yên, bình định nước Tề, qua phía nam đánh tan hai mươi vạn hùng binh nước Sở… Trí dũng ấy không phải thời nào cũng có. Hán Vương từ trọng dụng, nể phục đâm ra lo ngại tài năng con người xuất chúng, buộc lòng phong Tín làm Tề Vương. Sở Bá Vương lo sợ tìm cách ly gián Hàn Tín với Hán Vương , sai sứ giả sang thuyết. Sứ giả nói với Hàn Tín:
-Thiên hạ đại loạn do nhà Tần bạo ngược. Nay Tần bại vong, các nước nên họp bàn định công chia đất cho sĩ tốt nghỉ ngơi, dân sống thái hòa. Nay Hán Vương mưu đồ chiếm hết thiên hạ, quyết tâm diệt Sở. Ngài đang bị y lợi dụng, vì nếu không có ngài Hán Vương không cách chi thủ thắng, mà còn có thể bại vong. Con người Hán Vương vốn dĩ thủ đoạn, bao phen bội phản. Nếu một mai Sở mất, ngài sẽ chẳng tồn tại dài lâu. Chi bằng ngài bằng lòng hòa với Sở, chia ba thiên hạ làm thế chân vạc, danh vọng cao sang. Thế chẳng phải là kế lâu dài ư?
Hàn Tín nghĩ giây lâu, nói:
-Ngày ta phò Bá Vương chỉ là tên cầm kích đứng hầu. Hán Vương đãi ta như thượng khách, giao tướng ấn binh phù ấy là quá tin ở ta. Công danh ta có hôm nay là do Hán Vương, trượng phu trên đời thề quyết không bội phản.
-Mai sau ngài sẽ hối…
Sứ giả biết khó thuyết Hàn Tín do Tín vẫn hận Sở Bá Vương, buồn bã bái biệt.
Khoái Thông, danh sĩ nước Tề nghe chuyện Hàn Tín từ chối đề nghị của Bá Vương. Thông rất lấy làm tiếc, quyết tâm xin yết kiến thuyết phục Hàn Tín. Khoái Thông chân tình:
-Tiện dân vì chuyện đại định thiên hạ, vì quý cái tài điều binh khiển tướng của ngài ngàn năm khó kiếm, xin được bày tỏ gan ruột.
Hàn Tín quả quyết:
-Ta nghe ngươi nói, nhưng quyết không bội phản Hán Vương.
Khoái Thông thản nhiên bắt đầu:
-Ngài tự cho là thân tín với Hán Vương mà không nhận ra chân tướng Hán Vương. Hán Vương ôm mộng lớn dựng đại nghiệp. Do ham muốn nhiều nên nghĩ sâu, lòng dạ khó lường. Cái thân của ngài với Hán Vương quyết không bằng cái thân của Việt Vương với Văn Chủng Phạm Lãi. Người xưa răn bảo: Trí dũng hơn vua nguy đến thân, công lao quá lớn không được thưởng. Xét cái tài, cái công, cái danh của ngài thời nay ai dám sánh?
Khoái Thông ngừng nói. Thấy Hàn Tín có vẻ suy tư, Thông tiếp:
-Ngài như chim bằng sải cánh vạn dặm, cớ sao cam tâm tôn phù người làm chủ, cam tâm hưởng cái lợi ít mà quên cái lợi lớn. Của trời cho mà không lấy ắt rước họa vào thân. Vấn đề là quyết định, mãnh hổ do dự chẳng bằng con sâu cái kiến liều lĩnh, ngựa hay không chạy chẳng bằng ngựa hèn bước chắc… Thời cơ chỉ đến một lần, bỏ qua tiếc thay!…
Hàn Tín trầm ngâm giây lát, hỏi:
-Ta làm cách nào đại định thiên hạ?
-Ðầu tiên ngài án binh, hòa với Sở, tách khỏi quyền lực của Hán. Thiên hạ ở thế chia ba chân vạc. Bá Vương, Hán Vương so về tài trí không thể bằng ngài. Lúc ấy ngài biến nước Tề thành hùng mạnh, khống chế nước nhỏ, cắt đất nước lớn phong chư hầu. Lấy uy đức vỗ về chư hầu cứu muôn dân thoát cảnh chiến chinh, trăm họ về một mối. Thế là cái ngôi bá chủ trời dành giao cho ngài vậy.
Xong chuyện, Khoái Thông bái biệt Hàn Tín. Tín trong lòng phân vân nhưng vững tin Hán Vương không nỡ phụ mình.
Quả nhiên sau này Hàn Tín từ từ bị Hán Vương đoạt binh quyền. Tín tức giận quyết bội phản nhưng bị Lữ Hậu lập kế dụ vào cung giết chết, ba họ bị tru di.
Lúc gần chết, Hàn Tín thở than không nghe lời Khoái Thông, đến nỗi chính mình và giòng họ thảm tử.
Hán Vương dẹp loạn phương xa về kinh nghe tin Lữ Hậu đã giết Hàn Tín. Vương vừa thương vừa mừng…
Giọng nói của Ðỗ rõ ràng sắc sảo. Ðỗ kể chuyện duyên dáng hấp dẫn thu hút mọi người. Ai nấy tưởng chuyện còn dài nào ngờ Ðỗ dứt ngang ở đó sau khi nhắc lại đôi lần câu”Hàn Tín chết. Hán Vương vừa thương vừa mừng”.
Bất ngờ Ðỗ rảo bước đến trước Duy Từ thi lễ: Ôi tôn huynh, hôm nay đệ được niềm vui tha hương ngộ cố tri. Ngờ đâu bao năm xa cách, tôn huynh lạc bước đến nghe thằng em ba hoa lắm điều.
Duy Từ cầm tay Ðỗ, thầm phục con người thông minh tinh tế. Từ nói nhỏ: Chú tinh mắt lắm, rất mừng gặp lại. Giờ lặng yên theo tôi về nhà sẽ chuyện vãn.
Ðám hầu cận ngạc nhiên thấy chủ thân tình với người kể chuyện, lặng lẽ bước theo hai người.
Về đến nhà, Duy Từ cười nói:Chú gặp may, nhà hôm nay sẵn rượu thịt đãi khách. Những thứ ấy ít khi tôi có sẵn, ngày ngày cơm rau qua bữa.
Nhìn thấy cảnh nhà Duy Từ khang trang nhưng đạm bạc đơn sơ, Ðỗ cảm kích biết bạn làm quan thanh liêm, chẳng phải bọn tham quan ô lại.
Hai người ngồi nhâm nhi ngay tại thư phòng. Ðỗ nhìn kệ sách đầy ắp nói:
-Tôn huynh chứa hết túi khôn thiên hạ trong căn phòng này.
-Chú vẫn biết tôi ham đọc sách thánh hiền, như sở học của chú nào kém chi ai.
-Ngày huynh còn ở nhà, anh em sớm tối gặp gỡ đàm luận, đệ vui thấy cuộc đời bớt đơn lẻ. Huynh bỏ đi, đệ não ruột. Tiếng đàn trác tuyệt, tiếng hát truyền cảm của huynh quấn quít lấy đệ chẳng chịu rời xa. Chiều chiều ra bến sông ngồi dựa gốc đa nghe câu hò điệu hát trên những chuyến đò dọc ngang, gửi hồn theo cung điệu, bay cùng mây gió. Sau nghe tin huynh thành đạt, làm quân sư cho Chúa Sãi, xin có lời chúc mừng huynh công toại danh thành.
-Nào có chi là toại là thành. Chúa Trịnh coi khinh con nhà đào hát, tôi một đời dùi mài kinh sử, chí những đem sở học phù tá minh quân. Tôi phải bỏ đi vì một lời hứa với phụ thân khi người sắp lìa đời, vì chẳng muốn trắng tay, thẹn cả với cây cỏ. Ðược Chúa Sãi trọng dụng tín cẩn, tôi đem hết sức đáp lại tấm lòng.
-Chúa Sãi có mắt tinh đời biết dụng nhân tài khác chi Hán Vương dụng Hàn Tín.
Duy Từ biết Tú Ðỗ sắp dở giọng thuyết phục, đáp:
-Chúa nhân ái, mộ đạo Phật, thủy chung như nhất.
-Huynh thứ lỗi, minh chúa phải chăng cần người mộ đạo. Ðệ nghĩ mộ đạo chẳng bằng ngộ đạo. Chúa Sãi nếu quả ngộ đạo đã chẳng mưu đồ làm chúa phương nam, bành trướng lãnh thổ, quyết tranh phân mất còn với họ Trịnh chẳng tiếc máu xương quân dân. Một người đạt công danh, vạn người trả giá đắt. Người giầu tham vọng thường nghèo nhân ái, lòng dạ khó lường nói chi hai chữ thủy chung. Huynh chẳng nhớ Chúa Sãi đang tâm giết chết hai người em Phúc Hiệp và Phúc Trạch. Ðệ nghĩ huynh chẳng thân chúa bằng em của người.
Duy Từ hiểu bạn chân thật khi giọng Ðỗ hơi gay gắt. Từ bỗng phá lên cười, vẻ ấm cúng thân mật trở lại. Từ nói:
-Khá khen chú túc kế đa mưu, giả làm người kể chuyện, giả cả thần nhân bày bọn trẻ hát nhưng thực tâm muốn thuyết ta bỏ Nguyễn về Trịnh. Phải chăng chú vào đây do mệnh lệnh chúa Trịnh?
Nghe Duy Từ nói Ðỗ cười vui:
-Bội phục huynh kiến thức cao thâm khó ai qua mắt, tài năng đáng mặt tể tướng làm vị chúa đàng ngoài ăn ngủ chẳng yên. Ðệ tỏ thật, bỏ quê vào đây cố tìm gặp huynh là ý của đệ, đệ chẳng là bề tôi, chẳng tuân lệnh bất kỳ ai. Cách đây già nửa năm, một hôm cụ Cống Vũ Long mở hội bình thơ, nhiều danh sĩ được mời trong đó có cả đệ. Dịp ấy đệ tình cờ gặp Quận Công Nguyễn Thực, tay danh sĩ đất bắc nổi tiếng hay chữ và cương trực. Cụ Nguyễn tuổi ngoại thất tuần vẫn minh mẫn nhanh nhẹn. Chúa Trịnh trọng nể vị lão quan thường gọi là Quốc Lão. Quốc Lão rất tán thưởng bài thơ Tiếng Sáo Trương Chi của đệ. Biết đệ người phủ Tĩnh Gia, Quốc Lão buột miệng hỏi chuyện Ðào Duy Từ. Chuyện khá dài nhưng đệ vắn tắt. Quốc Lão nói: Ta rất tiếc chúa thượng chẳng tin lời ta. Từ thời Triết Vương (Trịnh Tùng), nghĩa là khoảng gần hai mươi năm trước, ta khải chúa nên đưa Phúc Nguyên hồi triều vì nhận ra tham vọng của y muốn làm chúa phương nam. Ðến đời Thanh Vương, ta đôi lần nhắc nhở nhưng chúa thượng dùng dằng chủ trương hòa hiếu. Khi gặp Ðào Duy Từ ở Thăng Long trên mười năm trước, ta tâm phục người này, tài năng đáng mặt tể tướng. Ta khuyên chúa thượng kíp dụng y nhưng chúa thượng bảo Duy Từ chỉ giỏi đàn ca hát xướng, sao dám giao trọng trách e quần thần dị nghị. Khi nghe tin Phúc Nguyên tin dùng Ðào Duy Từ, ta tiếc nuối ân hận. Tiếc nuối vì chúa thượng bỏ mất tài năng, Phúc Nguyên có Duy Từ khác nào rồng thêm vây, hổ mọc cách. Ân hận vì đất nước lại lâm cảnh binh đao, bao kẻ thịt nát xương tan, đầu rơi máu chảy… Ta xem đám danh tướng đàng ngoài chưa ai đủ tài đương đầu với họ Ðào. Ngay chính chúa thượng nay cũng rất hối hận để mất Duy Từ.
Quốc Lão nói đến đấy lặng yên cúi đầu thở vắn than dài. Ðệ trở về suy nghĩ, xét mặt công lao tuy họ Nguyễn khởi xướng việc trung hưng nhưng đại công là của họ Trịnh. Họ Trịnh trải ba đời ngót trăm năm xông pha chiến địa trong khi họ Nguyễn trấn đất Thuận Quảng đã góp bao nhiêu công sức cho cuộc trung hưng? Nay họ Nguyễn ngang ngược tranh quyền với Trịnh xét ra trái lẽ. Cái thế đại định thiên hạ đệ nghĩ trời trao cho huynh…
Duy Từ ngắt:
-Cái thế nay đã là thế. Tôi thề chẳng phụ ơn người trọng dụng.” Tiếc gì một lá trầu cay. Sao anh không hỏi những ngày còn không…”. Tôi hứa với chú ngày nào còn, tôi sẽ khuyên Chúa Sãi tuy chia đôi sơn hà, cố tránh gây cảnh lửa binh. Tôi vẫn tin định mệnh dân tộc sẽ có ngày giang sơn một dải nối liền.
Bên ngoài trời ngả nắng, nắng mềm úa vàng thoi thóp trên sườn non mờ xa. Ðỗ rót rượu uống tràn. Làn hương thơm thoang thoảng theo gió tỏa ngát. Ðỗ đang trầm tư bỗng thảng thốt: Cố nhân, cố nhân. Ôi hương hoa cau diệu kỳ son phấn gợi nhớ người xưa. Ðệ một đời khổ não khuân vác khối u tình lặng lẽ. Ðệ nhớ quê, đệ phải trở về dù đêm đêm một mình một bóng, chỉ nghe tiếng muỗi vo ve, tiếng dế rền rĩ và tiếng thở dài…
Ðỗ say mềm gục xuống bàn…
***
Cuối cùng Chúa Sãi thuận cho đắp lũy Ðộng Hải. Quân dân Thuận Hóa dãi dầu lao khổ hàng mấy tháng hoàn thành chiến lũy. Lũy bề thế vững chắc hơn lũy Trường Dục. Duy Từ lòng vui như hội say sưa ngắm bức trường thành ngoằn ngoèo uốn khúc, kiên cố thập phần chắc chắn ngăn trở ý chí chinh nam của đoàn quân chúa Trịnh. Dân gian gọi lũy Ðộng Hải tùy theo vùng địa lý, kẻ gọi lũy Nhật Lệ, người gọi Trường Lũy, số đông lại gọi lũy Thầy. Ý tôn xưng Duy Từ như người thầy Chúa Sãi, họ đặt câu ca:
Có tài vượt nổi sông Gianh
Dẫu thêm hai cánh trường thành khó qua.
Chúa Sãi tham quan các chiến lũy cũng thấy yên tâm. Duy Từ quả quyết quân Trịnh sẽ bị đánh tan nếu cố tình xâm lấn. Thời gian dần qua, Duy Từ vẫn không xao lãng luyện tập binh sĩ. Cơ may lại gặp Nguyễn Hữu Tiến, tay hào kiệt người Thanh Hóa. Thấy Tiến vũ dũng khẳng khái, Từ quý mến gả con gái quyết tâm chọn rể tài cao. Sau này Tiến trở thành viên tướng trụ cột bảo vệ phương nam đánh quân Trịnh bao lần tan tác.
Cuối tháng mười năm Quý Dậu 1633, quân dọ thám báo tin khẩn đích thân chúa Trịnh thống lĩnh đại quân thủy bộ chinh nam. Hau người con chúa Trịnh Quận Công Trịnh Tạc và Trịnh Ðệ đã dàn quân tại Bắc Bố Chính. Chúa Sãi truyền họp khẩn. Duy Từ tâu:
-Việc trước tiên thần sẽ lệnh Trấn Thủ Quảng Bình cắm cọc sắt dưới sông Nhật Lệ. Nếu tin chính xác, ta sẽ cử Hữu Dật làm đốc chiến. Quân ta dàn ở vùng hiểm địa Nam Bố Chính bất ngờ truy kích. Thần tin ta sẽ đại thắng.
Nghe Duy Từ quả quyết, chúa hỏi:
-Quân sư lấy lẽ chi quả quyết?
-Thần quả quyết do biết sức mình sức người. Chúa Trịnh động binh bất ngờ trong tình thế không thuận tiện. Chúa thượng đã rõ đầu năm nay, núi Ða Bút, ngọn núi hùng vĩ thuộc đất tổ họ Trịnh bỗng nhiên sụp lở, dân kinh hoàng nghe tiếng nổ như sấm tự lòng đất kéo dài hàng khắc mới yên. Dân đồn đại mồ mả tổ tiên họ Trịnh bị động. Tại Thăng Long sông Hồng bỗng dưng nổi sóng đánh đắm thuyền bè giết chết nhiều dân. Chúa Trịnh lo sợ cúng vái cầu an nên chắc có lý do nào thúc đẩy ghê gớm mới dám động binh, nhất là ra quân vào mùa đông càng thêm bất lợi.
Quả thật tại Thăng Long chúa Trịnh truyền lệnh động binh, đích thân vua Lê ngự giá theo đàn quân chinh phạt. Quận Công Nguyễn Danh Thế được lệnh chuẩn bị gấp rút. Chúa Trịnh nói với Danh Thế:“Ta bất ngờ chinh nam vì không bỏ lỡ cơ hội bằng vàng. Trong nhà họ Nguyễn rối loạn, con trai Phúc Nguyên là Phúc Anh hiện đang trấn thủ Quảng Nam ngầm gửi mật thư cho ta, tình nguyện làm nội ứng. Khi quân ta đến sông Nhật Lệ, Phúc Anh sẽ nổ pháo báo hiệu tấn công. Có nội ứng lo chi việc lớn không thành”.
Ðại quân Trịnh tiến vào nam dàn quân ở cửa Nhật Lệ. Năm ấy trời giá buốt, đêm đêm sương mù dầy đặc đứng gần chẳng nhìn rõ mặt. Qua mấy ngày chẳng thấy động tĩnh, Chúa Trịnh nôn nóng bần thần cho nổ đại pháo ra hiệu. Gần mười ngày tình thế chẳng đổi. Một đêm, quân Nguyễn bất ngờ đột kích phóng hỏa đốt kho lương, tinh thần quân Trịnh nao núng. Chúa Trịnh thấy ở lâu không lợi truyền lệnh rút quân…
Ðoán biết quân Trịnh thực sự rút, vài ngày sau, Hữu Dật và Quận Công Nguyễn Thắng cũng kéo quân trở về. Chúa Sãi mừng rỡ tổ chức khao thưởng đoàn quân chiến thắng. Ðoàn quân về Chính Dinh được dân chúng đứng hai bên đường nồng nhiệt hò reo đón mừng. Hữu Dật và Nguyễn Thắng trên lưng chiến mã dẫn đầu, hai hàng quân gươm giáo tuốt trần nhịp bước giữa tiếng chiêng trống vang lừng. Ðêm ấy chúa cho mở hội hoa đăng, dân thi nhau bắn pháo bông, đàn vui yến tiệc thâu đêm… Dân chúng vui chơi hàng tuần mừng chiến thắng, người ta lạc quan vui sống say hương thanh bình vì tin quân Trịnh sẽ không bao giờ dám liều tĩnh tái tấn công đàng trong. Ngày lại ngày… Năm dậu tàn, năm tuất đến.
Riêng Quan Nội Tán Ðào Duy Từ, ngoài mặt tuy vui nhưng dường như khó dấu những suy tư từ tiềm thức sâu thẳm. Những người gần gũi với Duy Từ thường chỉ đoán ông quá lo lắng việc nước, chưa vui vì việc lớn chưa thành.
Không ai biết ông đang suy nghĩ về nguyên nhân cuộc động binh bất ngờ của chúa Trịnh. Là chiến lược gia lỗi lạc, tầm mắt của Từ không giống thế nhân, Duy Từ quyết tìm ra manh mối giải tỏa nghi hoặc canh cánh bên lòng. Cuối cùng, bài toán có đáp số. Duy Từ điều tra ra âm mưu phản nghịch, éo le thay, kẻ bội phản lại chính là Quận Công Nguyễn Phúc Anh, con trai chúa Sãi. Phúc Anh đang là Trấn Thủ Quảng Nam.
Tìm ra manh mối kẻ bội phản, nhưng có nên báo cho Chúa Sãi tin đau lòng? Chúa đang buồn não ruột sau cái chết của trưởng nam Phúc Kỳ, nay nghe thêm việc Phúc Anh… Duy Từ nát óc suy tính tìm cách khôn khéo giải quyết vấn đề thay vì làm khổ tâm vị chúa phương nam tuổi đã thất tuần. Duy Từ đề cử một số người thân tín vào Quảng nắm chức quyền kềm chế Phúc Anh, không cho hắn tự tung tự tác.
Tháng sau, bộ binh thư cũng hoàn thành. Duy Từ vui mừng có thêm đứa con tinh thần. Chiều chiều ngồi sau hoa viên, Từ thường ngâm nga mấy câu thơ trong Tư Dung Vãn:
Sớm thời dậy
Tối thời nằm
Khát đào uống
Ðói cày ăn
Sự ai ta chẳng biết
Thú ta dễ ai ngăn
Lều Doãn ơ thờ ba mớ cỏ
Kíp thâu phong nguyệt bốn mùa xuân.
Người con trai Duy Huệ nghe cha ngâm xong,hỏi:
-Ý thầy muốn như Y Doãn chán công danh vui chơi với trăng gió?
Duy Từ chậm rãi:
-Tám năm giúp chúa thượng dựng nghiệp lớn, nay thầy nhiều lúc thấy nhọc người muốn tìm nơi vắng vẻ dựng lều cỏ ngắm trăng sao. Ðời người ngắn ngủi, con hẳn nhớ lời Trang Tử:Nhân sinh thiên địa chi gian, nhược bạch câu chi quá khích, hốt nhiên chi dĩ… Con người sống trong trời đất khác nào bóng ngựa trắng thoáng qua cửa sổ.
Hoàng hôn, trời ngả bóng tà. Hương hoa xoan thoảng ngây ngất gợi Duy Từ nhớ quê xưa, nhớ cảnh nhớ người. Thương Tú Ðỗ đêm ngày thui thủi, thương quê nghèo ruộng trắng xác xơ, dân lành cơ cực…
Một tối nọ vằng vặc trăng sao, Duy Huệ thấy cha trầm mặc ngắm trời rất lâu, sau đó buồn bã vào thư phòng ngồi lặng yên. Quá nửa đêm, Huệ thức giấc thấy thư phòng còn ánh đèn. Duy Huệ chần chờ một lát rồi bước vào phòng:
-Ðã qua canh ba, thầy nên nghỉ kẻo mai còn ra công đường sớm.
Duy Từ quay nhìn con, chỉ ghế ra dấu bảo Huệ ngồi, chậm rãi:
-Mấy đêm nay, thầy xem thiên văn thấy khách tinh sáng tỏ mà chủ tinh u ám, các sao tướng phụ mờ nhạt nên nghĩ mệnh sắp tàn. Lại nữa, thầy vẫn ví mình như Gia Cát Khổng Minh. Khổng Minh mất ở tuổi 54 khi sự nghiệp dang dở. Ta nay 63, sống hơn Khổng Minh đã chín năm… Thôi số trời đã định nào phải ý mình?
-Dạng trời muôn ngàn vẻ đổi thay có chi đáng căn cứ. Thầy an nhiên tự tại vui sống điều độ ắt tuổi thọ vững bền, chẳng nên chuốc sầu não nhọc thân.
Một buổi sáng mùa đông năm Giáp Tuất 1634 chúa họp bá quan. Trời chưa sáng rõ mọi người tề tựu đông đủ, quan Nội Tán vẫn chưa tới. Khi chúa vừa bước khỏi hậu cung bỗng gặp Duy Huệ hớt hải báo tin phụ thân bị ngất xỉu trên đường đến dinh nên phải tức tốc đưa về nhà thang thuốc. Chúa truyền Thái Y đến cứu chữa. Chúa thiết triều trong lòng nôn nóng lo âu, trao việc cho Quận Công Phúc Khê lên kiệu thẳng tới nhà Duy Từ. Nhìn ngôi nhà khang trang nhưng bài trí đơn sơ, chúa xúc động cảm thương tôi trung thanh bạch. Duy Từ vẫn hôn mê, Thái Y chẩn mạch dáng suy tư nghiêm trọng. Lát sau tâu:
-Tâu chúa thượng, mạch quan Nội Tán lúc đầu im, lúc sau vừa nhận được vụt biến mất. Thần kiên nhẫn đợi nhận được mạch trở lại thấy tựa con tôm đang bơi, thỉnh thoảng cong lưng nhảy. Sách gọi mạch Hà Du, bệnh quan Nội Tán rất trầm trọng. Thần chỉ biết tận nhân lực cứu chữa cho ngài.
Chúa nghe ủ dột biết Thái Y là tay thầy thuốc nổi tiếng Thuận Quảng, chẩn đoán trăm lần không sai chệch. Chúa ngồi bên giường Duy Từ đến trưa mới lên kiệu hồi cung. Bệnh nhân vẫn mê man…
Cả tuần sau tình trạng vẫn không khả quan, Chúa Sãi ngày ngày tới lui thăm nom. Ngày thứ tám chúa đến từ sáng sớm. Duy Huệ nhìn cha mê man bỗng bật khóc:“Thầy bệnh tật khổ thân, nhọc công chúa thượng âu lo khó nhọc”. Lạ thay mắt bệnh nhân hé mở, lệ chảy ròng ròng. Chúa nắm chặt bàn tay Duy Từ lạnh giá không cầm được nước mắt. Duy Từ như cố thu tàn lực thều thào:“Tạ ơn chúa đãi ngộ, thần chẳng còn sống để đáp đền…” Duy Từ muốn nói thêm nhưng không thể, mắt vẫn hé mở như tiếc nuối không muốn xa rời những khuôn mặt thân yêu… Cứ như thế… Ðến trưa, Duy Huệ nói với chúa:“Xin chúa thượng hồi cung nghỉ ngơi cho thầy thần ra đi, chúa còn đây, thầy lưu luyến không thể nhắm mắt”. Chúa buông bàn tay Duy Từ ngập ngừng đứng dậy bước lùi ra cửa. Duy Từ ưỡn ngực thở hắt, chúa khựng lại bật khóc biết người bệnh vừa thở hơi cuối cùng… Duy Huệ để nhúm bông trên mũi cha thấy bất động cũng òa khóc…
Linh cữu vị đệ nhất công thần được đưa về an táng trọng thể tại Tùng Châu Qui Nhơn.
Từ ngày Duy Từ mất, chúa ưu tư héo mòn như cây khô. Việc nước phó thác một tay Quận Công Phúc Khê đảm trách. Chúa dặn em:“Chú cố chăm lo việc nước, dậy dỗ Phúc Lan mai sau nối nghiệp rạng danh tổ tiên”. Nguyễn Phúc Lan, người sẽ kế vị ngôi chúa phương nam năm ấy tròn ba mươi lăm. Phúc Lan giống cha rất sùng đạo Phật. Chúa dặn con:“Mai sau gánh vác sơn hà nhớ lời cha chớ mê đắm sắc dục, lo cho dân cho nước rạng rỡ sự nghiệp họ Nguyễn. Nước có vững thì đạo mới tồn… Thầy nay đã bảy mươi hai, sức đã tàn chẳng còn sống được bao lâu nữa”. Phúc Lan khóc tạ cha nhận di huấn. Từ đấy chúa thường đến chùa Thiên Mụ, có khi lưu lại hàng tuần trăng, ăn chay niệm phật như quên hẳn việc đời.
Những ngày cuối năm Ất Hợi 1635, một chiều chúa ngự thuyền nhỏ lênh đênh trên sông Hương. Giòng nước trong xanh lặng lẽ trôi như đời người không bao giờ trở lại. Tiếng chuông chùa ngân xa vắng mênh mông, âm thanh của giác ngộ luồn vào từng làn da thớ thịt… Chiều lên đêm xuống, trăng sao vằng vặc gọi nhau về mở hội. Trong khoang thuyền, Hữu Dật bồn chồn thấy chúa ngồi bất động quá lâu nhưng không dám làm chúa kinh động. Dật biết cả ngày chúa chỉ uống vài chung trà, chưa hề dùng bữa… Khoảng nửa đêm, Hữu Dật không thể kiên nhẫn, lên tiếng tâu xin chúa nghỉ ngơi. Chúa lặng yên. Dật đánh bạo bước lên mũi thuyền thấy chúa đã mê man, kinh hãi vội cho thuyền cập bến…
Vài đêm sau, vị đại sư trụ trì chùa Thiên Mụ bước ra trước hiên nhìn trời thấy ngôi Ðế Tinh phương nam bỗng lóe sáng rồi phụt tắt, tan thành muôn mảnh tỏa khắp hướng như pháo thăng thiên. Trời bỗng tối sầm, gió hiu hiu hòa lẫn tiếng côn trùng rền rĩ… Sư chưa sạch lòng trần buồn bã thở than:“A di đà phật, vị chúa phương nam, Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên đã vong mệnh rồi”…
HẬN SÔNG GIANH
Những năm cuối đời, Tiên Chúa Nguyễn Hoàng tuổi đã ngoài tám mươi lăm vẫn có tầm nhìn chiến lược sáng suốt. Chúa dặn bảo các con chủ trương “bắc hòa nam tiến”, hòa hiếu với Trịnh, tìm cách mở mang bờ cõi về phương nam. Thực hiện chủ trương, Tiên chúa gả con gái Ngọc Tú cho Thế Tử Trịnh Tráng. Vài năm sau, lợi dụng tình hình Chiêm Thành rối loạn, chúa sai quân nam tiến, vượt đèo Cù Mông chiếm thêm vùng đất phía nam huyện Tuy Viễn lập phủ Phú Yên. Sự nghiệp mở mang bờ cõi của họ Nguyễn bắt đầu từ trận đánh này.
Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên nối nghiệp Tiên Chúa tiếp tục phát triển phương nam, cố tình biến Ðàng trong thành quốc gia riêng, thách thức quyền lực họ Trịnh ở Ðàng ngoài. Tháng ba năm Ðinh Mão 1627, chúa Trịnh Tráng thấy cần trả lời thái độ khiêu khích coi thường phép nước của Ðàng trong. Dù là rể Tiên Chúa (chúa Trịnh lấy Ngọc Tú, con gái Tiên Chúa), chúa Trịnh gạt bỏ tình riêng hạ lệnh khởi binh chinh phạt. Cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn bắt đầu. Hai bên giao tranh vài trận thắng bại chưa phân, Ðốc Chiến Nguyễn Hữu Dật tung tin đồn Ðông Ðô biến loạn, chúa Trịnh Tráng nghi hoặc rút quân. Sáu năm sau, nhận mật thư của Nguyễn Phúc Anh, em ruột chúa Sãi ý muốn qui thuận, tình nguyện làm nội tuyến. Chúa Trịnh Tráng lại rước vua Thần Tôn, kéo đại binh vào cửa Nhật Lệ. Chúa án binh chờ Phúc Anh mãi chẳng thấy động tĩnh. Trong lúc nghi hoặc lại bị Ðốc Chiến Nguyễn Hữu Dật kéo binh đánh úp. Quân Trịnh vỡ chạy hao quá nửa, chúa lo sợ vội cho rút quân. Năm Quí Mùi 1643, chúa Trịnh Tráng lại rước vua vào quyết đánh vùng Nam Bố ChiÔnh, tiến vào cửa sông Nhật Lệ. Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan, người nối nghiệp chúa Sãi cử đại binh chống trả. Hai bên giao tranh dằng dai gần ba tháng. Bấy giờ gặp tháng hạ, trời nóng nực tạo dịch bệnh lan tràn trong quân. Chúa Trịnh thấy ở lâu không lợi truyền lui binh. Sau mỗi lần giao tranh, hai bên Trịnh Nguyễn bên nào cũng khao quân mừng chiến thắng, thiệt thòi chăng là những góa phụ, những trẻ mồ côi, bậc cha mẹ của những người con bỏ thây nơi chiến địa, những xóm thôn tiêu điều lửa khói.
Mùa xuân năm Mậu Tý 1648, Ðô Ðốc Trịnh Ðào nhận lệnh khẩn của chúa Trịnh, bất ngờ đem đại quân tấn công Ðàng trong. Bộ binh Trịnh nhanh chóng vượt sông Gianh, thủy binh đánh thẳng vào cửa Nhật Lệ. Quân Nguyễn núng thế lùi dần cố thủ lũy Trường Dục. Quân Trịnh dùng đại bác bắn phá không ngừng, nhiều chỗ lũy bị hư hại nặng nhưng cha con Trấn Thủ Trương Phúc Phấn, Trương Phúc Hùng cố tử thủ chờ viện binh. Quân Nguyễn do chúa Thượng chỉ huy tiến qua khỏi Quảng Trị phải dừng lại do chúa bất ngờ ngã bệnh. Thế Tử Nguyễn Phúc Tần và Giám Chiến Nguyễn Hữu Dật thay chúa chỉ huy quân Nguyễn tiến thẳng ra chiến địa. Nhờ có viện binh, quân Nguyễn giữ vững lũy Trường Dục, dũng tướng Ðàng trong, Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Tiến (con rể Quân Sư Ðào Duy Từ) tổ chức phục binh, dùng tượng binh tấn công đại thắng quân Trịnh, bắt hàng vạn tù binh. Thừa thắng, Thế Tử Tần hạ lệnh phản công trên khắp mặt trận. Quân Trịnh rút qua sông Gianh. Quân Nguyễn ngưng truy kích do chúa Thượng từ trần trên đường trở lại phủ. Số trên ba vạn tù binh Trịnh, Thế Tử Tần chỉ thả về một ít chiến tướng, còn bao nhiêu bị mang vào phân tán tại các vùng từ Quảng Nam đến Phú Yên. Tù binh được định cư, giúp phương tiện khai khẩn ruộng đất. Thân phận người tù cay đắng, con đường trở lại quê xưa mịt mùng…
Thế Tử Nguyễn Phúc Tần nối ngôi cha năm hai mươi tám tuổi. Người Ðàng trong thường gọi chúa Hiền. Chúa có tài thao lược, chuyên tâm lo việc quốc gia. Lãnh thổ phía nam mở rộng thêm vào đến Phan Rang, biên giới phía bắc cũng được phòng thủ cẩn mật. Hàng vạn quân trấn giữ các điểm trọng yếu, các chiến lũy được tu bổ dự trữ lương thực phòng quân Trịnh bất ngờ tấn công. Chúa là người dũng cảm cương quyết, biết nghe lời ngay. Ðọc truyện cổ kim, ý thức được đa mê sắc dục thường dẫn đến họa nghiêng đổ giềng mối, chúa đã cương quyết giết nàng hầu xinh đẹp vốn là ca nhi danh tiếng xứ Nghệ đã làm chúa say đắm từng phen bỏ phế việc nước.
Tháng hai năm Ất Mùi 1655, Quận Công Lê Văn Hiểu trấn giữ Bắc Bố Chính ra lệnh thuộc tướng tiến quân vượt sông Gianh, xâm phạm vùng Nam Bố Chính. Chúa Hiền được tin họp các cận thần. Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật hiến kế:“Bấy lâu nay quân Trịnh thường chủ động đánh ta trước. Ta cũng nên thừa dịp này tấn công ra bắc để chứng tỏ uy lực. Thần biết rõ cách bố trí của quân Trịnh bên kia sông Gianh, ta chỉ cần đồng loạt tấn công các cứ điểm chính, dụng kế công đồn đả viện, phục binh đánh Lê Văn Hiểu, dạy hắn bài học đích đáng về tội ngạo mạn.” Chúa xưa nay vẫn trọng tài, tin tưởng Hữu Dật nên rất đẹp dạ. Ngay hôm sau, chúa phong Thuận Nghĩa Hầu Nguyễn Hữu Tiến làm Tiết Chế, Hữu Dật làm Ðốc Chiến. Hai tướng được toàn quyền quyết định việc quân. Ðại quân Nguyễn rầm rộ lên đường. Quân Nguyễn hành quân đúng kế hoạch, quân Trịnh thua to. Bắc Bố Chính thất thủ, Quận Công Hiểu rút tàn quân chạy vòng phía sau Hoành Sơn. Ðến gò Bạch Thạch lại bị phục binh, Hữu Dật giương cung bắn Văn Hiểu trọng thương nhưng Hiểu vẫn thoát chạy về Nghệ An. Hữu Dật dụng độc kế phao tin về tới Thăng Long rằng Văn Hiểu sẽ đầu hàng Nguyễn. Chúa Trịnh Tráng nghe tin tức giận bắt các bại tướng trở về kinh, lại cử Thái Bảo Trịnh Trượng kéo quân vào Nghệ An tiếp cứu. Trên đường về kinh, Văn Hiểu tự sát.
Quân Nguyễn tiếp tục thắng thế. Thăng Long rúng động được tin bảy huyện phía nam sông Lam lọt vào tay quân Nguyễn. Chúa Trịnh vội cử hai con là Thế Tử Trịnh Tạc và Quận Công Trịnh Toàn lên đường vào mặt trận. Tình hình vẫn bất lợi cho quân Trịnh vì lòng dân muốn ủng hộ Nguyễn. Cuối năm, Thế Tử Trịnh Tạc nhận lệnh hồi kinh do chúa Trịnh bệnh hoạn suy yếu muốn gọi con về phòng hậu họa khi mệnh một. Ðoán biết tình hình Ðàng ngoài rối rắm, Nguyễn Hữu Dật tung hết nỗ lực đánh canh bạc lớn. Dật ngầm cho người đem mật thư đến các trấn Bắc Hà chiêu dụ cùng nổi dậy đánh Trịnh. Ðích thân kéo quân trấn giữ vùng ngã ba sông Lam. Bên Trịnh nhờ tài thao lược của Trịnh Toàn vẫn giữ vững thế trận cản bước tiến quân Nguyễn. Toàn được chúa tưởng thưởng phong chức quốc công. Nhận thấy uy tín người em ngày càng lớn, Trịnh Tạc từ lâu có ý ngờ vực người em muốn tranh quyền lực, lo ngại sai con là Trịnh Căn kéo quân vào Nghệ An, mục đích theo dõi Trịnh Toàn. Bên phía Nguyễn nội bộ cũng lủng củng. Hữu Tiến tức giận cho Hữu Dật ngạo mạn cậy công thường tự quyết định mọi việc, ý coi thường đám võ tướng hữu dõng vô mưu.
Chiến trận ở thế dằng co, hai bên đều hao tổn nặng. Chúa Hiền đích thân kéo binh đến dinh Quảng Bình động viên tướng sĩ.
Tháng chín năm Ðinh Dậu 1657, chúa Trịnh Tráng từ trần. Tây Vương Trịnh Tạc nối ngôi cha. Chúa Trịnh lệnh triệu ngay Trịnh Toàn hồi kinh xét tội. Ðám thủ hạ của Toàn sợ hãi đầu hàng Nguyễn. Toàn bị giam chết trong ngục. Quận Công Trịnh Căn, con trai của chúa nắm quyền chỉ huy.
Bên Nguyễn, sự chia rẽ giữa Hữu Tiến và Hữu Dật ngày càng trầm trọng. Tiến công khai trách Dật lộng quyền coi thường quyền tiết chế của mình. Ðám thủ hạ của Tiến hùa theo chủ đào sâu chia rẽ. Chúa Trịnh Tạc nhận ra địch tình nói với quần thần:“Hữu Dật chuyên dùng kế ly gián ta, nay ta sẽ ly gián lại xem hắn đối phó cách nào?” Chúa điều tra phá vỡ giết chết những kẻ âm mưu làm nội ứng cho quân Nguyễn, lại cho người thân tín vào nam mang trân châu vàng bạc, cùng mật thư dụ Hữu Dật đầu hàng. Hữu Dật vờ ưng thuận nhưng ngầm báo cho chúa Hiền biết để tỏ lòng trung.
Trận chiến dằng dai kéo dài sang năm thứ năm. Tháng chín năm Canh Tý 1660, Trịnh Căn được tăng viện mở các cuộc phản công. Quân Trịnh thắng nhiều trận, dần dần chiếm lại bảy huyện. Hữu Tiến lo sợ, ngầm phao tin tập trung lực lượng phản công. Ðêm ấy Tiến bí mật rút quân, Hữu Dật không biết gì vẫn giữ căn cứ Khu Bộc. Trịnh Căn kéo quân bao vây. Dật mưu trí cho người trong thành thản nhiên đàn ca hát xướng. Căn ngờ vực nghe ngóng sợ phục binh. Ðêm ấy, Dật lặng lẽ rút quân. Hôm sau quân Trịnh truy kích nhưng lại bị Hữu Dật dụng kế nghi binh nên không dám tiến sâu. Quân Nguyễn rút về Nam Bố Chính. Trịnh Căn mừng rỡ báo tin chiến thắng về kinh. Tháng hai năm Tân Sử 1661, đoàn quân chiến thắng về Thăng Long. Kinh thành đón mừng vui như hội. Căn được phong Thái Úy Nghi Quốc Công.
Lần đầu tiên chỉ huy đại quân đánh bại các danh tướng Ðàng trong, Trịnh Căn đánh giá quân Nguyễn đã suy yếu sau nhiều năm giao tranh vất vả, Căn củng cố quân đội ý muốn tiếp tục tấn công không cho quân Nguyễn có cơ phục hồi. Tháng mười năm ấy, Căn thống lĩnh quân đội tiến vào nam. Vua Lê chúa Trịnh chỉ huy hậu quân tiến sâu vào tả ngạn sông Gianh. Hữu Dật bấy giớ trấn thủ Nam Bố Chính. Thấy quân Trịnh thế mạnh, Dật lùi về giữ lũy Ðộng Hải tử thủ. Hàng tháng trời, quân Nguyễn nhiều lần khiêu chiến nhưng Dật quyết không ra quân. Vào một đêm cuối năm trời mờ sương lạnh, Dật cho quân mặc giả quân phục Trịnh bất ngờ tấn công. Hàng trăm tướng sĩ Trịnh tử trận. Quân Nguyễn có viện binh mở cuộc phản công, Trịnh Căn cho lệnh rút quân qua sông Gianh thì dừng. Thấy lương thực thiếu, chúa Trịnh đem vua về kinh. Trận chiến kể như chấm dứt.
Suốt ba mươi lăm năm, hai bên giao tranh sáu lần, kể như bất phân thắng bại. Người già trên sáu mươi sống ở hai vùng giao tranh đôi bờ sông Gianh vẫn nhớ như in những năm chiến trận. Vết hằn chiến tranh, những mất mát đau thương như mũi dao khắc sâu tâm khảm, cho dù thời gian qua lâu chưa thể vùi sâu, như vết thương vẫn hằng rỉ máu.
Trận chiến lần thứ sáu kết thúc. Một năm sau, từ những nơi ẩn náu trong rừng sâu núi thẳm… Người dân nhớ nơi chôn nhau cắt rún, nghe tự tâm linh tiếng thôn làng réo gọi, tiếng thở than của ruộng đồng hoang vu do thiếu bàn tay con người chăm sóc, lục tục kéo nhau trở về quê xưa. Người ta giúp nhau dựng lại nhà, vun sới lại vườn rau ao cá. Ước mơ được sống thanh bình trong thôn xóm với hàng tre xanh bảo bọc sớm hôm. Từng mùa trăng qua, cuộc sống người dân vươn mình đứng dậy. Xuân về tết đến, thân xóm lại reo vui tiếng trẻ nô đùa. Trai gái làng gặp gỡ hát câu giao tình trong lễ hội xuân. Người già ấm lòng, cầu trời hai họ Trịnh Nguyễn tàn mộng tranh bá đồ vương cho nhân dân sống mãi trong cảnh thái hòa. Gần mười năm qua, nhiều người lạc quan đoán hai bên chán cảnh chiến chinh. Ðàng trong xây thêm chiến lũy, củng cố phòng thủ kiên cố sẽ làm chúa Trịnh nản chí bỏ mộng chinh phạt. Ước mơ bình thường tan vỡ vào năm thứ mười, năm Nhâm Tý 1672 dưới thời Tây Vương Trịnh Tạc làm chúa Ðàng ngoài. Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (tục gọi chúa Hiền) chúa tể Ðàng trong. Chiến tranh nam bắc tái diễn…
***
Kinh đô Thăng Long những ngày đông năm Tân Hợi 1671. Trời lạnh căm, mưa phùn rải bụi trắng mờ mờ. Phố phường thưa vắng, dân kinh đô ngại những ngọn gió bấc buốt xương, bị buộc chân quanh bếp lửa, bên lò than hồng. Kinh đô đang buồn hiu hắt bỗng đổi sắc diện. Khu hoàng thành và phủ chúa cờ xí rợp trời, dân được lệnh làm sạch đường phố, làm đẹp cửa nhà, treo đèn kết hoa chờ ngày đăng quang tân vương Lê Gia Tôn, người sẽ nối ngôi Huyền Tôn Mục Hoàng Ðế mới băng hà tháng trước. Nhà vua mới mười một tuổi, được chúa Trịnh nuôi dưỡng bên phủ chúa từ năm lên hai. Ông vua trẻ coi chúa như cha ruột.
Sau lễ đăng quang, chúa cho tổ chức diễn binh lớn, biểu dương sức mạnh quân đội. Từ sáng sớm, dù trời giá rét, hàng vạn dân kinh đô đổ xô ra đứng dọc hai bên con đường từ diễn vũ trường thẳng tới hoàng thành. Nhiều đám dân quê từ vùng xa, hiếu kỳ đổ về kinh dự hội lễ, cũng là cơ hội biết chốn kinh kỳ hoa lệ. Cuối giờ thìn trong hoàng cung vừa cử hành xong lễ đăng quang. Tiếng kèn trống, tiếng nhã nhạc hòa lẫn tiếng pháo nổ vang chào mừng tân vương. Trên vọng lâu, ông vua trẻ dáng nhỏ bé mặc hoàng bào ngồi trên ngai bên cạnh chúa Trịnh cao lớn trong bộ lễ phục mầu đỏ tía.
Hồi trống xuất quân vang rền, hàng trăm lính đội trật tự đi dọc hai bên đường, tay cầm roi kết bằng những giây tơ nhuộm đỏ quay tít ngọn roi trên đầu loang loáng tựa chuỗi thảm nhung. Năm thớt voi dàn hàng ngang dẫn đầu, trên là năm võ tướng mặc giáp đen chỉ huy cấm binh canh giữ năm cửa ô dẫn vào kinh đô. Thớt voi tiếp có hai lọng tía và đại kỳ đề chữ Quốc Công Trịnh. Trên bành voi, Quốc Công Trịnh Căn người chỉ huy diễn binh oai nghiêm trong bộ chiến bào đỏ tía. Dân chúng trầm trồ khen ngợi người con trưởng của chúa, tay võ tướng lừng danh đất bắc từng đánh bại quân Nguyễn nhiều phen. Theo sau Trịnh Căn là thớt voi của Quận Công Lê Thì Hiến, tay dũng tướng mưu lược bề dầy chiến công ít người dám sánh. Thì Hiến được chúa cũng như Quốc Công Trịnh Căn tin dùng giao nhiều trọng trách. Toán quân diễn binh dài đến vài dặm. Có toán mang cờ biển… Một rừng cờ, từ ngũ sắc đến nhật nguyệt, đội cờ nhị thập bát tú tượng trưng hai mươi tám vị sao, lại có cả toán cờ thanh long bạch hổ… Ðội nhã nhạc cung đình tấu nhiều khúc nhạc lạ tai mà có người cả đời chưa từng được nghe. Hàng ngàn kỵ mã nai nịt gọn gàng, tay cầm giáo chĩa ngọn lên trời trông như rừng chông được dân chúng cổ võ nồng nhiệt… Những đoàn quân tuốt trần gươm giáo đều bước theo nhịp trống dồn thôi thúc… Quá ngọ đến cuối giờ mùi cuộc diễn binh chấm dứt. Nhiều người như luyến tiếc chần chừ chưa muốn rời đám đông trở về…
Ðêm ấy, trời kinh đô được tô điểm hàng ngàn ngọn pháo bông. Người ta vui chơi hát xướng trong cảnh thái hòa sau hàng chục năm vắng chiến chinh. Trong cảnh tưng bừng rộn rã ấy, người con cả cụ Thượng Nguyễn thấy cha mình dường như chẳng vui, khuôn mặt ưu tư pha lẫn phiền muộn. Cụ Thượng tuổi ngoại bát tuần, làm Thượng Thư từ thời Thanh Vương (Trịnh Tráng). Gần hai mươi năm hồi hưu nhàn hạ, cụ có thú vui ngày ngày nghiền ngẫm sử kinh, ghi lại chuyện đời từng trải cho con cháu sau này noi gương cha ông sống hợp đạo lý. Người con cả kính trọng sở học uyên bác của cha, cẩn thận lưu giữ những bộ sách cha khổ công biên soạn vào rương lớn khóa kín.
Sáng sớm hôm sau, cha con ngồi trong thư phòng. Qua vài tuần trà, người con lên tiếng:
-Hôm qua coi diễn binh, con thấy thầy lộ vẻ ưu tư phiền muộn?
Cụ Thượng chiêu xong ngụm trà, chậm rãi:
-Anh khá tinh. Ðã mười năm hai bên Trịnh Nguyễn ngưng giao tranh. Thầy mừng, tưởng đâu họ nhận ra cái thế không bên nào có thể thủ thắng, bỏ cuộc được thua cho dân hưởng thái bình. Nay nhà chúa bỗng dưng tổ chức diễn binh lớn, phô trương lực lượng. Ðám võ tướng vênh vang diệu võ dương oai, thầy e thuở thái bình chẳng còn kéo dài được lâu.
-Con nghe nhà chúa tin dùng quan Thượng Phạm (Thượng Thư Phạm Công Trứ là sử gia có tài kinh bang tế thế), dụng kế sách ngưng chiến để xây dựng đất nước. Ở Ðàng trong, Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật cũng khuyên chúa Hiền nên chủ trương”bắc hòa nam tiến”. Tìm cách mở mang bờ cõi về phương nam.
-Anh còn trẻ nào thấu chuyện đời. Thầy biết rõ họ Trịnh, từ Thái Vương (Trịnh Kiểm) đến Triết Vương (Trịnh Tùng), Thanh Vương (Trịnh Tráng) rồi nay là Tây Vương (Trịnh Tạc). Các ngài đều là trang dũng tướng hiếu chiến và tham vọng. Quen sống trên lưng ngựa, xông pha trận mạc hơn ở lầu son gác tía. Ngay đến Quốc Công Trịnh Căn, người sẽ nối ngôi chúa tể Ðàng ngoài cũng là tay hào kiệt ngạo mạn, tất không bỏ qua thái độ thách thức của chúa Hiền. Năm ngoái, chính Trịnh Quốc Công khải chúa cho người vào nam đòi thuế nhưng chúa Hiền thẳng tay bác khước.
Người con suy nghĩ, lại hỏi:
-Hai họ Trịnh Nguyễn thù nghịch, mỗi người trấn mỗi cõi. Cớ sao chúa Trịnh lại sai người vào đòi thuế, chuyện vô lý ngang ngược làm sao chúa Nguyễn chịu nhún nhường?
-Bởi hai bên cùng nêu đại nghĩa phù Lê. Chúa Nguyễn làm chúa Ðàng trong nhưng vẫn dùng niên hiệu vua Lê, kết tội chúa Trịnh tóm thu quyền hành, coi vua là bù nhìn, tự tiện đặt để kẻ lên ngôi báu, nếu cần thí cả vua. Ngược lại chúa Trịnh lên án chúa Nguyễn phản nghịch, dám chống mệnh vua, coi thường phép nước.
-Con nghĩ cả hai bên đều chẳng coi vua ra gì. Họ giao tranh vì tham vọng mưu bá đồ vương. Quân dân hai bên phải lấy máu xây tham vọng cho một giòng họ. Tội ác lấy chi rửa sạch!
-Anh nghĩ phải. Thầy buồn vì lực bất tùng tâm, chỉ mong hai bên tỉnh ngộ ngưng đao binh cho dân yên sống. Cơ trời vận nước, thầy tin rồi cũng có ngày nước non nối liền một giải, nòi Việt trường tồn vinh quang.
Người con đi chợ sớm. Cụ Thượng Nguyễn bước ra sân thơ thẩn nhìn trời. Gió hiu hiu lạnh, chỉ còn hơn tháng nữa là tết…
Chiều hôm ấy trong phủ liêu, chúa Trịnh gặp các cận thần bàn quốc sự. Chúa vui cười cởi mở hỏi Quận Công Lê Thì Hiến tình hình biến giới phía bắc, vùng Cao Bằng Lạng Sơn. Hiến khải chúa các nơi yên tĩnh, mùa màng tốt tươi. Quốc Công Trịnh Căn, Tiết Chế thủy bộầ chư dinh tường trình tình hình xứ Nghệ, mọi người chú tâm theo dõi vị chỉ huy quân đội Ðàng ngoài:
-Khải chúa thượng, thần thanh sát xứ Nghệ non tháng. Quận Công Trịnh Ðống cần mẫn, bố phòng chu đáo. Ngoài dân yên ổn được mùa nên mức dự trữ lương thực nuôi quân khả quan.
Chúa gật gù hài lòng, hỏi tình hình Ðàng trong. Trịnh Căn tiếp:
-Phúc Tần (chúa Hiền) chuẩn bị chiến tranh, đắp thêm các chiến lũy Trấn Ninh, Sa Phụ… dự trữ lương thảo sẵn sàng tấn công quân ta bất cứ lúc nào. Ðiều này thần nghĩ sớm muộn gì cũng sẽ xẩy ra vì hắn vốn hiếu chiến, tự hào từng chỉ huy thủy binh đốt cháy chiến thuyền người Hà Lan tại cửa Eo (Thuận An) năm nào. Hắn thường lên giọng trịch thượng coi võ tướng Ðàng ngoài như cỏ rác…
Chúa nghe mặt đanh lại, hỏi:
-Ta thừa biết Phúc Tần ngỗ nghịch. Chính hắn cả gan hạ lệnh tấn công chiếm bảy huyện Nghệ An nhưng ta đã phản công đuổi hắn khỏi bờ cõi. Năm ngoái, Tham Chính Lê Ðức Toàn mang dụ của vua vào, hắn cương quyết không cho qua cửa Nhật Lệ. Ta giận nhưng tạm gác lo chuyện nội bộ, chẳng có nghĩa tha thứ kẻ phản nghịch. Khanh là tiết chế quân đội hẳn có kế sách đối phó?
Trịnh Căn lặng yên, ra vẻ suy nghĩ. Mọi người chờ nghe, Căn nói:
-Thần nghĩ giản dị:Tiên hạ thủ vi cường. Nay tướng sĩ ta khí thế đang lên, tinh thần tướng sĩ là yếu tố quyết định thủ thắng cho dù kẻ địch cậy hiểm địa.
Chúa nhìn Thượng Thư Phạm Công Trứ. Công Trứ đỗ tiến sĩ, người có công khảo duyệt, tục biên bộ Ðại Việt sử ký, lại là người chủ trương hòa bình xây dựng kinh tế để nước giầu dân mạnh. Trứ biết cha con nhà chúa muốn chiến chinh, cản ngăn vô ích. Nhất là Trịnh Căn vẫn mang mối hận nhiều phen trúng kế Nguyễn Hữu Dật thua chạy tan tác, ý muốn báo thù. Công Trứ muốn tìm cách hoãn binh, may ra với thời gian, chúa Trịnh tỉnh ngộ nhận ra Trịnh không thể thắng Nguyễn. Trứ từ tốn:
-Phúc Tần ngạo mạn đáng trừng phạt. Thần nghĩ Ðàng trong nhiều chiến lũy. Muốn đánh chiến lũy cần nhiều quân, nhiều lương thảo. Nay đang tiết đông chưa thuận tiện ra quân, hoàng thượng mới tức vị cần vỗ về an dân. Tốt nhất nên chờ sau vụ đông xuân thu thêm thóc lúa, đợi mùa hạ nắng ráo xuất quân là hợp lẽ.
Quận Công Lê Thì Hiến phản bác:
-Theo ý thần, phép dụng binh quý nhất tướng sĩ một lòng quyết chiến, lợi dụng bất ngờ tấn công khiến địch không kịp trở tay. Thần xét thấy nay ta đủ yếu tố tất thắng. Hơn nữa, danh tướng Ðàng trong nào còn ai đáng ngại. Nguyễn Hữu Tiến, con rể nghịch thần Ðào Duy Từ đã chết. Còn Nguyễn Hữu Dật, cũng là đệ tử họ Ðào nay ngót bảy mươi, sức cùn trí mỏi. Bao nhiêu năm nay dân Ðàng trong chịu sưu cao thuế nặng nên than oán. Vậy lúc này ta chẳng ra binh e mất cơ may.
Chúa nghe Thì Hiến nói xong, nhếch mép mỉm cười. Nụ cười bí hiểm pha chút ngạo mạn của người từng chủ trương dùng bạo lực làm chính sự. Qua những kinh nghiệm đau xót xẩy ra trong giòng họ ruột thịt hàng trăm năm dậy chúa điều ấy. Chúa từng xuống tay sát hại cháu ngoại, lập mưu giết Quận Công Trịnh Toàn là người em chỉ vì củng cố ngôi vương bá. Chúa nói với Thì Hiến:
-Khanh nói chưa hết ý. Hữu Dật tuy tài năng nhưng đã bị ta cho đòn ly gián chí tử. Phúc Tần trọng tài Hữu Dật, nể y là bậc huân thần nhưng trong dạ ngờ vực. Ta nghe đồn Dật lo sợ, từng bẻ mũi tên trước mặt Tần thề một lòng tận trung. Nếạu ta ra quân, chắc chắn Tần không dám giao trọng trách cho Dật. Dật đành bó tay thúc thủ. Ðó là ta đã loại được tay nguy hiểm.
Quần thần sôi nổi luận bàn. Cuối cùng chúa quyết định theo kế sách của Phạm Công Trứ. Lại truyền Trịnh Căn và Thì Hiến thường xuyên tập luyện thủy bộ, cách công thành phá lũy.
Mùa thu năm sau, mười vạn quân Trịnh rầm rộ tiến vào nam. Trịnh Căn làm đại nguyên súy chỉ huy thủy binh. Lê Thì Hiến thống suất bộ binh. Ðích thân vua Lê chúa Trịnh chỉ huy hậu quân vào thẳng Nghệ An. Dân hai miền nam bắc Bố Chính gạt lệ rời quê cha đất tổ, bồng bế dắt dìu nhau tản cư vào rừng sâu núi thẳm tránh hiểm họa. Còn đâu làng quê thanh bình, nay chỉ còn cảnh nhà trống ruộng hoang…
Tại Thuận Hóa, chúa Hiền nghe tin Trịnh động binh. Chúa nói với quần thần:“Ý ta chẳng muốn giao tranh nhưng Trịnh Tạc không từ bỏ mộng xâm lấn. Nay y đem quân vào, rồi cũng chuốc thất bại do ta chuẩn bị kỹ” Thấy chúa tự tin, quần thần phấn khởi. Chưởng Cơ Trương Phúc Cương bàn:
-Họ Trịnh xưa nay hiếu chiến ngạo mạn. Trịnh Tạc cử con là tiết chế, thần đề nghị chúa thượng cũng cử Chưởng Cơ Hiệp Ðức cầm quân (Ðức là con trai thứ tư của chúa). Ý ta tỏ cho Trịnh biết họ Nguyễn chẳng thiếu tướng tài. Thần thấy Chưởng Cơ tuy trẻ nhưng tài đức vẹn toàn, bản lĩnh trí mưu đáng mặt lĩnh ấn nguyên nhung.
Chúa nghe cả cười khen ý hay, nói:
-Ta bấy lâu không chinh chiến cơ thể suy nhược, gân cốt uể oải, nay cũng nhân dịp trở lại chiến trận trợ chiến, đồng lao cộng khổ với chư tướng ba quân.
Ngay hôm ấn, chúa cử Hiệp Ðức làm nguyên súy, truyền các ty dụng sức trâu, ngựa, kể cả voi chuyển lương thực ra mặt trận. Chúa quen chinh chiến, muốn buộc quân Trịnh phải công thành nên trữ nhiều lương thực. Trì hoãn chiến càng lâu, quân Trịnh càng thất lợi.
Chưởng Cơ Hiệp Ðức đêm ấy trăn trở. Mới mười chín tuổi đầu, Hiệp Ðức không dám khước từ trọng trách phụ vương giao, nhưng thực tâm không muốn thấy cảnh đầu rơi máu chảy. Hiệp Ðức được ấp ủ nuôi dưỡng, tư chất thông minh, tiÔnh tình thuần hậu, quí người chất phác, thương kẻ cơ hàn. Thích yên tịnh thanh cao hơn ngồi quanh tiệc rượu. Sáng sớm, Ðức đến trướng phủ xúc tiến ngay việc vận lương. Mười vạn quân sĩ các nơi được điều động hàng hàng lớp lớp ra mặt trận. Ðức rất kính trọng Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật, cho thủ hạ mời Hữu Dật đến tham khảo. Hiệp Ðức nói:
-Tiểu sinh tuổi đời non trẻ, lần đầu tiên được chúa thượng giao trọng trách rất đỗi lo lắng. Ngài từng trải trên năm mươi năm kinh nghiệm chiến chinh, từng làm họ Trịnh nhiều phen nếm mùi chiến bại cay đắng. Xin cho đôi lời chỉ giáo, làm sao đánh bại mười tám vạn quân Trịnh?
Vị lão tướng tóc bạc như cước vẫn nhanh nhẹn tráng kiện, chậm rãi:
-Chúa thượng tự tin, hẳn ngài sẵn kế sách chiến thắng. Tôi nghĩ vùng cửa sông Nhật Lệ sẽ là chiến trường. Ðịch công thành thì ta tử thủ. Tôi cam đoan địch chỉ khoảng mười vạn quân, nói phóng lên mười tám vạn. Mười vạn quân phải công thành, lại giao tranh trên đất địch nên phải đánh mạnh đánh nhanh. Ta kiên trì dũng cảm địch sẽ thất bại.
-Chiến lũy kiên cố của ta có đủ sức cầm chân quân Trịnh thời gian dài?
-Tôi đã nói, nếu địch quyết tâm mà ta thối chí thì chiến lũy dù kiên cố cách mấy cũng bị phá. Tướng quân chớ khinh địch vì Trịnh Căn và Thì Hiến không phải tay vừa.
Nghe Hiệp Ðức nói cách điều binh của chúa Hiền, Hữu Dật buồn lòng khi chúa chỉ định mình trấn lũy Sa Phụ nhưng không tiện nói. Cử tướng già giữ lũy là thất cách, biểu lộ ý chúa không muốn dùng Hữu Dật làm tham mưu như sáu lần giao tranh trước. Nỗi buồn lớn nhất của vị lão tướng, Hữu Dật biết chúa vẫn nghiêng về phía cận thần, những người vốn đố kỵ, ganh ghét tài năng với mình từ lâu. Ðêm ấy ông thao thức, nhìn lại cuộc đời qua nhanh như mây trôi gió thoảng khác chi giấc mộng lớn…
Tháng bảy nhiều ngày u ám, trời đất phiền muộn nước mắt ngắn dài thương xót cảnh vợ chồng Ngâu tan hợp. Ðại binh Nguyễn dàn xong trận thế, trấn giữ nơi hiểm yếu, đóng cọc gỗ nhọn vùng cửa biển Nhật Lệ. Phía Trịnh, Nguyên súy Trịnh Căn cho quân vượt sông Gianh, ban tờ hiểu dụ quân dân Thuận Quảng. Tờ dụ kể tội chúa Nguyễn phản nghịch phải bị trừng phạt. Ðêm rừng núi âm u, quân Nguyễn trong lũy nghe rõ tiếng loa vang:“… Hỡi quân dân hai xứ Thuận Quảng. Nếu các người bỏ tối về sáng, tránh bọn hà ngược hoặc trở giáo đầu hàng, đến cửa quân xuất thú sẽ được thưởng không. Nhân dân biệt xứ do bị dụ dỗ, hoặc phạm tội lỗi bỏ trốn theo nghịch. Nếu ra hàng cũng được tha thứ…”
Những trận đánh đầu tiên mở màn, quân Trịnh đạt nhiều thắng lợi, bao vây lũy Ðộng Hải, dàn quân từ núi ra tới biển trấn áp địch quân. Chúa Hiền thấy thế địch mạnh vội truyền lệnh tuyển thêm binh từ hai xứ Thuận Quảng. Ðể tiện theo dõi chiến trường, chúa tiến gần chiến địa, đóng quân tại xã Toàn Thắng (phía bắc Quảng Trị). Lúc ấy quân Nguyễn lại vừa thua trận lớn tại một ngọn núi gần lũy Ðộng Hải. Trịnh Căn hạ lệnh tấn công lũy Trấn Ninh. Trận chiến ác liệt ngay từ đầu. Quân Nguyễn kiên cường giữ lũy đẩy lùi nhiều đợt công thành. Trịnh Căn tức giận lệnh Lê Thì Hiến bằng mọi giá phá lũy. Thì Hiến ra lệnh tử chiến, hàng ngàn quân cảm tử reo hò tiến sát chân lũy, san hào lấp rãnh, đục lũy, bắn tên, thả diều lửa, nã súng thần công, dùng thang dây leo lên lũy. Lớp này ngã, lớp khác tràn lên. Quân Nguyễn do Chưởng Cơ Trương Phúc Cương chỉ huy dùng cung tên giáo mác, câu liêm, đạn nổ… chống quyết liệt. Quân hai bên đều thiệt hại nặng, xác người khắp nơi, ngổn ngang dưới chân lẫn trên lũy. Ðêm về thê lương, gió núi trăng ngàn lẫn tiếng khóc la rên siết của thương binh. Lê Thì Hiến say máu, ra lệnh toán trợ chiến tiếp tục công thành.
Tình hình Trấn Ninh nguy ngập, Phúc Cương cho người thoát ra xin Nguyên súy Hiệp Ðức cho lệnh bỏ lũy. Hiệp Ðức nghĩ rút khỏi lũy sẽ làm tình hình nguy ngập, mở đường cho địch tiến sâu uy hiếp các trọng điểm. Ðức truyền Phúc Cương tử thủ, cho người khẩn đến lũy Sa Phụ ra lệnh lão tướng Nguyễn Hữu Dật tiếp viện Trấn Ninh.
Nhận lệnh, Hữu Dật lo lắng, chần chờ không dám ra quân sợ Sa Phụ bị đánh úp. Cuối cùng, Hữu Dật tuân lệnh nhưng yêu cầu Hiệp Ðức thay mình trấn giữ Sa Phụ. Ðoàn quân di chuyển gấp đến lũy Trấn Ninh. Ðêm đen phủ sương mờ, Dật cho quân nổi trống reo hò, đốt đuốc rợp trời… Lê Thì Hiến thấy có viện binh, sợ tiếp tục giao tranh bất lợi hạ lệnh tạm lui binh. Ngay đêm ấy, quân Nguyễn ra sức củng cố phòng thủ, dựng ván, đắp đất vá những chỗ lũy bị vỡ.
Liên tiếp nhiều ngày, quân Trịnh tiếp tục tấn công nhưng chiến lũy vẫn đứng hiên ngang. Sự có mặt của Hữu Dật gây tin tưởng làm quân Nguyễn kiên cường chống cự. Bấy giờ là tháng cuối năm, trời mù hơi sương. Trịnh Căn rút quân về giữ tả ngạn sông Gianh. Thì Hiến trúng kế nghi binh của Hiệp Ðức, lo sợ tưởng sẽ có hàng vạn quân Nguyễn và voi trận đến tiếp viện. Hôm sau nhận hung tin Nguyên Súy Trịnh Căn ngã bệnh nặng. Thì Hiến không dám chần chờ vội rút quân ngay đêm ấy. Hữu Dật cho quân truy kích nhưng quân Trịnh đã vượt sông Gianh.
Hiệp Ðức đến lũy Trấn Ninh, lần đầu tiên chứng kiến hàng núi xác người, những xác chết ghê rợn thảm thương, thi thể dập nát bị ruồi nhặng phủ đen. Quân Trịnh rút nhanh bỏ lại tử thi đồng đội. Doanh trại phải dành chỗ chứa hàng ngàn thương binh, kẻ bị phỏng trở thành kinh tởm dị dạng, người bị thương rên siết đau đớn. Góc này góc nọ có kẻ hấp hối lắp bắp lời trăn trối chen lẫn tiếng khóc u uất nghẹn ngào của đồng đội. Không khí nặng nề trộn mùi hôi thối từ những vết thương. Hiệp Ðức ngậm ngùi, ra lệnh dùng tất cả các phương tiện chuyển thương binh về hậu cứ. Tử thi được bó chiếu đặt trên những tấm liếp đan bằng nứa… Một hố sâu đào sát mé rừng làm mồ chôn tập thể quân Trịnh. Những người lính sống chết vẫn bên nhau, chung một nấm mồ.
Vài ngày sau, lão tướng Nguyễn Hữu Dật báo tin đã nhận hàng ngàn tù binh được quân Trịnh thả về. Nguồn tin phấn khởi lòng người, phải chăng quân Trịnh thực sự rút lui chấm dứt trận chiến?
Nhận tin, Hiệp Ðức vội dẫn vài trăm kỵ binh thẳng đến bờ nam sông Gianh nhận định tình hình. Ðức hỏi Hữu Dật:
-Theo ngài quân Trịnh thực sự muốn bãi binh?
-Tôi đoan chắc. Tin do thám mới nhận, vua Lê chúa Trịnh đã trở lại Ðông Ðô sau khi tổ chức tiệc mừng thắng trận! Trịnh Căn bệnh nặng đang ở Nghệ An, quân Trịnh đóng đồn bên kia sông sẽ chỉ bắt buộc giao tranh nếu ta vượt sông.
-Ngài nghĩ ta có nên truy kích tiếp?
-Chẳng nên, bên này là đất ta, sang kia là đất người. Tinh thần chiến đấu của quân Trịnh sẽ lên cao vì ta xâm lấn, rút cuộc chỉ hao của hao người. Nghĩ cho cùng cũng chỉ người Việt tàn sát lẫn nhau…
Trên mặt vị lão tướng lộ nét đăm chiêu phiền muộn. Hiệp Ðức cũng nghe lòng nặng trĩu, lại hỏi:
-Ngài nghĩ cuộc chiến sẽ tái diễn?
-Cha con chúa Trịnh chắc chắn sau bao lần giao tranh, sẽ nhận ra khát vọng chiến thắng của họ chỉ là tuyệt vọng…
Chiều dần tàn, gió lạnh se sắt. Hiệp Ðức thơ thẩn ven sông, ngồi dựa gốc đa nhìn sang bờ bên kia. Thôn làng hoang vắng, dăm mái tranh lụp xụp. Sau đám ruộng hoang, đồn lũy quân Trịnh san sát… Hình ảnh chết chóc ghê rợn hằn sâu ám ảnh viên tướng trẻ. Cuộc chiến vô nghĩa do tham vọng quyền lực giữa hai giòng họ, vinh quang xây bằng hận thù, bằng máu xương người khác là tội ác. Hiệp Ðức đứng dậy, rút gươm khỏi vỏ… phóng mạnh lưỡi gươm xuống giòng nước biếc.
Sông Gianh vẫn lặng trôi, êm đềm thản nhiên trở thành giòng sông phân ly, chia đôi ân tình đôi bờ nam bắc, vết cắt ngang thịt xương dân tộc…
Hiệp Ðức trở về phủ Kim Long, chúa Hiền mở đại tiệc mừng chiến thắng. Trong khung cảnh tưng bừng đàn ca hát xướng, tiếng chúc tụng bằng những chung mỹ tửu như suối tràn, Nguyên Súy Hiệp Ðức dường như gượng vui đón nhận. Hình ảnh ghê rợn thảm thương của trận chiến vẫn hàng đêm ám ảnh. Hiệp Ðức thấy sức khỏe ngày càng hao mòn, xin với chúa Hiền được phép tĩnh dưỡng tại một cảnh chùa vắng bên sông Lô Dung (sông Hương sau này). Ba năm sau Ðức mất. Có người kể những ngày cuối đời, Hiệp Ðức viết cho chúa Hiền một bức thư lời lẽ thống thiết xin cha bãi bỏ cuộc đao binh. Ðức viết tại sao người Việt chỉ nói chuyện với nhau bằng đao kiếm, mà quên không bắc cho giòng sông một nhịp cầu…
Thời gian qua, một rồi mười, đến gần trăm năm… Hai họ Trịnh Nguyễn ngừng chém giết. Những thế hệ nối tiếp sinh ra và lớn lên thay dần thế hệ ông cha cằn cỗi tuổi đời. Dân đôi bờ sông Gianh được sống thái hòa, người ta đồn rằng: Sau cuộc thất bại vào năm Nhâm Tý 1672, ngay năm sau chúa Trịnh lại sai Quốc Công Trịnh Căn vào Bố Chính quan sát địch tình. Ðêm hôm ấy, Căn ngủ trong căn cứ sát sông Gianh. Bỗng nghe tiếng nổ như sấm, nước sông cạn khô, đáy sông hiện ra hàng hàng lớp lớp những bộ xương người. Gió hiu hiu tanh mùi máu, rồi phong ba bão táp ào tới như đất trời cuồng nộ. Nhữ ng bộ xương bỗng biến thành người vươn vai đứng dậy. Trịnh Căn nhìn kỹ mầu áo, nhận ra toàn là quân Trịnh Nguyễn, lại có đoàn quân không đầu thấp thoáng phía xa. Lát sau, đoàn quân tràn vào căn cứ như sóng vỡ, gào thét khóc than gọi đích danh chúa Trịnh và Trịnh Căn đòi đền mạng. Căn hoảng hốt vung bảo kiếm chống đỡ nhưng thanh kiếm bỗng gẫy ngang, máu tuôn như suối… Trịnh Căn giật mình thức giấc mới hay chiêm bao, toát hạn dầm dề. Trở lại kinh đô, Căn kể lại cho chúa Trịnh nghe chuyện giấc mơ. Chúa thất sắc kinh hoàng vì vài đêm trước, chúa cũng đã từng thấy giấc mơ giống hệt như thế…
ĐÊM CHIA LY PHÚ XUÂN
Kể từ năm Ất Dậu 1558, thiên mệnh như dành sẵn xứ Thuận Hóa cho Tiên Chúa Nguyễn Hoàng, thuộc giòng họ Nguyễn làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa. Thúc dục Tiên Chúa dùng Thuận Hóa làm bàn đạp, tiếp bước cha ông, dẫn người Việt đi tiếp đoạn đường trường chinh về phương nam mở rộng cõi bờ.
Thuận Hóa dưới thời nhà Trần vốn là hai châu Ô, Lý của Chiêm Thành. Những năm đầu thế kỷ mười bốn, thời vua Trần Anh Tôn. Vua Chiêm Chế Mân thích nét đẹp yêu kiều của thiếu nữ Việt. Lại nghe đồn Huyền Trân công chúa, con Thượng Hoàng Nhân Tôn là trang quốc sắc thiên hương, Chế Mân nhân chuyến Thượng Hoàng nam du bèn đến triều kiến, khẩn khoản xin được làm con rể Thượng Hoàng, hứa dâng hai châu Ô, Lý làm sính lễ. Thượng Hoàng trở về nói với Anh Tôn:“Ta nay tu dưỡng nên tránh việc thế. Con liệu giải quyết sự việc, sao cho hai nước Việt Chiêm giao hảo, tránh can qua mà khổ lê dân”. Anh Tôn thương em không muốn thấy cảnh chia lìa (Huyền Trân là em gái vua), nhưng trọng Thượng Hoàng nhân ái, bèn hỏi ý các đại thần. Ðám văn quan vốn xem Chiêm Thành là nước man di, ý không muốn đem hạt gạo trắng ngần mà vo nước đục, mà vần lửa rơm… Riêng Thượng Tướng Trần Khắc Chung, danh tướng thao lược khuyên vua nên bằng lòng. Chung nói:“Trải nhiều phen quan hệ giữa Chiêm và ta chẳng mấy khi tốt đẹp. Người Chiêm nhận ra khát vọng bành trướng lãnh thổ về phương nam của ta, nên lúc binh đội mạnh thường tìm cách vượt biên quấy phá không cho vùng biên giới phía nam yên ổn. Thần có dịp đi ngang hai châu Ô Lý, vùng này núi non trùng điệp, như thành vách ngăn đỡ phía tây với Ai Lao. Sâu vào hướng nam núi non hùng vĩ, trên cao đụng mây, dưới biển xanh mênh mông sóng vỗ là thành vách chống đỡ mặt nam (tức Hải Vân Sơn sau này). Sông ngòi đan nhau tiện dụng cho thủy binh, vùng đồng lầy hung hiểm sẽ là phên giậu vững chắc ngăn ngừa người Chiêm bắc tiến. Ấy là chưa kể vùng đồng bằng phì nhiêu chứa biết bao cây lành quả ngọt hứa hẹn ấm no. Ðưa công chúa đến Chiêm Thành khác nào đem má phấn đổi lấy trường thành, đó là vùng đất trời dành, là kế lâu dài dựng nghiệp, bệ hạ minh xét”. Vua nghĩ suy cặn kẽ, cuối cùng đám cưới vương giả giữa vua Chiêm và Huyền Trân công chúa được cử hành.
Ðám quan lại, binh sĩ nhận lệnh vua lên đường trấn nhậm đất mới kéo theo thành phần cư dân phức tạp, từ những nghèo khổ vùng Thanh Hóa Nghệ An đến những người phiêu lưu, đám du thử du thực từng vào tù ra khám ào ạt đi tìm vận may nơi quê hương mới. Số đông người Chiêm đau đớn nhìn cảnh đất nước bị cắt chia dâng hiến ngoại bang, ngậm ngùi xa lìa thôn xóm, cúi lạy ngọn tháp thần linh chơ vơ, lũ lượt vượt núi băng rừng, lênh đênh trên biển đi về phương nam. Ðám dân Chiêm ở lại, có kẻ nuôi hận thù dùng bạo lực chống người Việt. Số người hiền hòa sống cam chịu nhất quyết không rời thần linh, không bỏ quê cha sống quẩn quanh gần những ngọn tháp ngày ngày phụng thờ hương khói.
Bước nam tiến của người Việt bắt đầu trở lại vào năm Tân Hợi 1611. Lợi dụng Chiêm Thành suy yếu, Tiên Chúa Nguyễn Hoàng vượt đèo Cù Mông, đánh chiếm vùng đất phía nam lập phủ Phú Yên. Người Chiêm không ngừng chia rẽ, mộng tranh cướp ngôi vương bá dẫn đến nội chiến, quên hiểm họa xâm lăng của người Việt. Tám mươi hai năm sau, trải qua năm đời các chúa Nguyễn hùng cứ phương nam, vị chúa thứ sáu Minh Vương Nguyễn Phúc Chu chiếm Phan Rang, vùng đất cuối của Chiêm Thành. Người Chiêm như chim lìa đàn, mang nỗi hận vong quốc tha hương. Hàng vạn người qua tận Chân Lạp, hoặc đi vào chốn thâm sơn cùng cốc sống ẩn dật nhờ cây rừng chở che khỏa lấp nỗi đau. Nhiều người vẫn bám làng thôn, nhẫn nhục sống với người Việt để ngày ngày còn nhìn thấy những ngọn tháp rũ buồn muốn khóc. Những người dân mất nước kia, có người gửi tâm trạng trong khúc hát khắc khoải u sầu, tiếng hát não nề xé ruột gan luẩn quẩn trong làng thôn, quấn quít quanh ngọn tháp chơ vơ mưa nắng. Có những người Việt tấm lòng như biển, đồng cảm nỗi đau nhục nhằn trước cảnh nước mất nhà tan, thương khúc hát bi ai kia, tô điểm làn điệu Chiêm phổ vào lời ca Việt thành khúc Nam Ai thê thiết. Nam Ai cuối cùng chọn Phú Xuân làm chốn nương thân, bởi người Phú Xuân, sau này thường được gọi là người xứ Huế, với giọng nói bổng trầm đặc biệt mới có thể nói hết cái hồn của Nam Ai. Nam Ai yêu nét trang nghiêm u tịch xứ Huế, yêu giòng sông Hương hoàng hôn khói sương, đêm trăng lung linh mờ ảo nên lưu luyến chẳng rời. Nam Ai với thời gian, như cây cầu nối kết dẫn người Chiêm người Việt lại gần nhau, xoa mờ mặc cảm chiến bại, xoa dịu mối hờn vong quốc. Cuộc bể dâu dù tang thương rồi cũng mờ phai theo tháng năm, còn lại chăng, cái đáng trân quý chỉ là tấm lòng giữa những con người…
***
Mùa hạ năm Mậu Ngọ 1738, Ninh Vương Nguyễn Phúc Trú từ trần. Con trai cả của chúa, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát thay ngôi cha, trở thành vị chúa thứ tám của giòng họ Nguyễn. Nối tiếp truyền thống ông cha, chúa sùng đạo Phật, xưng là Từ Tế đạo nhân. Vị chúa trẻ trung mới hai mươi lăm tuổi mang ước vọng thay da đổi thịt phương nam, xứng ngôi bá chủ luôn các lân quốc như Chân Lạp Xiêm La, vượt hẳn quyền uy họ Trịnh ở phương bắc. Vừa lên ngôi, chúa họp ngay các cận thần bàn việc hệ trọng. Cận thần của chúa thường là đám văn võ quan trẻ trung, tuổi dưới ba mươi, cùng trang lứa với chúa. Chúa thông minh thực tế, cho người trẻ năng động dám nói dám làm. Những viên quan trọng tuổi nặng nợ áo cơm, kinh nghiệm sống biến họ thành những người dè dặt đến độ sợ trách nhiệm. Chúa nói:“Ta nhìn kỹ địa đồ, thấy đất Phú Xuân đứng ở thế trung tâm, như sao Bắc Thần đứng thế cao mà các sao khác chầu vào. Ðó là thế đất dựng nghiệp muôn đời không thể bỏ. Ta nên dời dinh về đấy, các khanh nghĩ thế nào?” Tham Mưu Nguyễn Cư Trinh tuổi mới ngoài hai mươi nhưng nổi tiếng hay chữ, cai trị giỏi và rất mực thanh liêm góp ý:
-Thần vốn người huyện Hương Trà nên nhận ra Phú Xuân là vùng đất tốt. Ðường thủy có nhiều cửa biển hung hiểm, đường bộ bắc nam có Hoành Sơn và Hải Vân làm thành lũy. Hình thế núi sông vững như bàn thạch, như hổ như tượng, như ngưu như long. Ðó là kỳ quan trời dành cho ta dựng nên kinh đô bề thế vững chãi.
Văn quan Nguyễn Ðăng Thịnh phụ họa:
-Thần nhận thấy sông Dinh (sau này gọi là sông Hương) như thanh long uốn lượn, mang hương thơm của các loài thảo mộc từ thượng nguồn, qua những thôn xóm an lành cây xanh rợp bóng, phong cảnh hữu tình tạo cho Phú Xuân vẻ đẹp mỹ miều. Phía đông bắc lại có Bằng Sơn dáng uy nghi cân đối. Hai bên lại có Tả Phù Hữu Bật. Giòng sông kia và ngọn núi này tạo cảnh sơn thủy hữu tình. Ðứng trên núi Bằng vào ngày đẹp trời sẽ thấy phong cảnh toàn vùng. Từ những rừng thông xanh vi vút hát ca, đến những vùng ruộng vườn xanh tốt, xa hơn nữa là mầu xanh thẳm của vùng biển đông bát ngát mênh mông. Phú Xuân xứng đáng trung tâm văn hiến của cả vùng đất phương nam trù phú.
Kế hoạch dời Chính Dinh vào Phú Xuân được xúc tiến ngay. Hàng vạn quân dân xứ Quảng được điều về Phú Xuân xây dựng cung điện, đường xá, làm cầu nối đôi bờ nam bắc sông Dinh. Chúa quy hoạch vùng dành riêng cho đám quan lại. Thương gia từ nhiều nơi, nhất là đám thương gia ở Phố Hội Quảng Nam kéo về Phú Xuân lập các thương điếm. Chợ Dinh ngày càng đông đúc, tấp nập kẻ bán người mua.
Mùa xuân năm sau mọi việc ổn định, chúa cùng triều thần chuyển về Chính Dinh Phú Xuân. Chúa ngày đêm chăm lo việc nước, cải tổ nhiều điều. Quyền lực chúa Nguyễn nay bao trùm hầu hết vùng Thủy Chân Lạp. Người Việt bất chấp hiểm nguy tiến dần vào phương nam, vùng lưu vực hai sông Cửu Long và Ðồng Nai. Vùng đất với những sông ngòi chằng chịt đan nhau, rừng cổ thụ lẫn rừng thưa nối tiếp dẫy đầy ác thú. Cho dù trăm vạn hiểm nghèo bất trắc “Chèo ghe sợ sấu cắn chưn. Xuống bưng sợ đỉa lên rừng sợ ma”vẫn không ngăn nổi khát vọng nam tiến của người Việt. Vùng đất mới phía nam dần dần biến thành nơi cư ngụ của bao sắc dân: Việt, Tàu, Chàm, Miên và những người thiểu số khác… Họ không cùng quá khứ nhưng cùng khát vọng chung xây dựng tương lai sáng tươi. Tất cả cùng hòa nhịp sống chung thân ái biến miền nam thành vùng đất trù phú phì nhiêu, vùng đất lành nuôi dưỡng mời gọi những cánh chim lưu lạc.
Mùa xuân năm Canh Tý 1744, trong dinh có cây sung nở hoa. Chúa vui mừng cho là điềm lành, triệu tập cận thần họp bàn ý muốn xưng vương. Chúa nói:“Mấy năm nay ta điều nghiên kỹ tình hình Ðàng ngoài. Kể từ khi Trịnh Giang lên nắm ngôi chúa, thực chất hắn chỉ là người ươn hèn, xa xỉ dâm dật nên trong nước biến loạn. Những người trực ngôn lên tiếng khuyên can đều bị biếm chức. Giang dùng công quỹ xây dựng chùa chiền hành cung phủ đệ tráng lệ nguy nga, dân è cổ gánh sưu cao thuế nặng. Nông dân uất ức nổi dậy nhiều nơi làm tình hình càng thêm hỗn loạn. Ðám hoàng tộc nhà Lê như Duy Mật, Duy Chúc âm mưu đốt kinh thành mong lật đổ họ Trịnh nhưng thất bại chạy vào chiếm vùng thượng du Thanh Hóa. Năm Canh Thân (1740), Trịnh Doanh phải truất quyền Giang lên ngôi chúa. Doanh khá hơn Giang nhưng vẫn chưa ổn định nổi tình hình. Xét như thế thì cái lực của Ðàng trong vượt hẳn Ðàng ngoài, dân ta giàu, nước ta mạnh, vùng đất ta làm chủ cũng hùng vĩ bề thế hơn. Ta nghĩ đã đến lúc nên cải đổi danh vị cho hợp với thời thế.”
Ðám cận thần bàn bạc, vài ngày sau dâng biểu xin chúa định vương vị. Biểu văn ca tụng công đức chúa cao dầy xứng lên ngôi cao để thuận ý trời, hợp lòng trăm họ khao khát.
Ðầu hạ, chúa lên ngôi vương. Ðể tỏ rằng đây là bước khởi đầu của vận hội mới, chúa ban hành hàng loạt cải tổ, lập các bộ, thay đổi triều phục quan lại cũng như y phục dân chúng. Chính Dinh Phú Xuân đổi thành Ðô Thành Phú Xuân. Ðể xứng danh đô thành, chúa truyền kiến trúc thêm cung điện đền đài. Nào điện Kim Hoa, gác Triêu Dương, đài Lương Xuân, đình Giáng Hương… Ðô thành dần trở thành chốn phồn hoa đô hội, phố chợ tiếp nối, đường phố đan nhau như bàn cờ. Trên sông Dinh thuyền bè qua lại như mắc cửi, trên bến dưới thuyền tấp nập. Giới quan lại được chúa ưu tiên cấp đất xây cất dinh thự ẩn giữa những vườn cây xanh tươi bao quanh bởi hàng rào dâm bụt tạo vẻ cổ kính trầm mặc, nét đặc sắc của Phú Xuân không nơi nào có. Các quan đua nhau làm đẹp nhà cửa, chạm khắc công phu mỹ thuật. Phú Xuân trở thành tâm điểm của giới quý tộc, tao nhân mặc khách khắp nơi tụ về đề thơ ngâm vịnh. Ðám thi nhân mơ mộng không bằng lòng với tên sông Dinh, đặt cho giòng sông tên mới. Hương Giang mỹ miều như thiếu nữ phới phới xuân tình ủ hương thơm hoa lá, mang chất thơ trầm lắng tô điểm đô thành. Khách đến núi Ngự vào buổi bình minh nắng vàng rực rỡ long lanh trên giòng sông lặng lờ uốn quanh, hoặc lúc hoàng hôn ảm đạm u tịch, cảm nhận thấm thía vẻ đẹp như thơ như họa của một góc trời Phú Xuân. Sông Hương Núi Ngự trở thành biểu tượng của chốn đế đô văn vật…
***
Ðầu mùa đông, những cơn mưa thác lũ biến giòng Hương hiền hòa thành biển sóng phù sa thịnh nộ. Những cơn mưa nhè nhẹ tiếp nối mờ đục đất trời, mưa lê thê gọi về những cơn gió lạnh tê tái. Mưa cầm chân chim muông trong tổ, cây cỏ ủ ê mà lòng người cũng héo úa. Dù thời tiết khắc nghiệt cách mấy, hàng ngàn người vẫn lầm lũi đội mưa, chuyển gạch đá xây dựng cho xong vườn Hậu Uyển trước mùa xuân năm sau. Các viên quan đốc công luôn miệng hò hét, quay tít ngọn roi da thúc dục mọi người gắng sức. Những tiếng dô hò dô ta át tiếng mưa rơi, xua cơn gió buốt. Bao nhiêu kỳ hoa dị thảo từ nhiều nơi xa xăm được mang vào khu vườn, kể cả những cây lớn được bứng nguyên gốc cẩn thận, chăm bón kỹ sợ cây héo khô. Ai nấy thừa hiểu ý chúa là ý trời, không làm xong nhiệm vụ tất đầu lìa khỏi cổ. Cho dù chúa mộ đạo, xưng là Từ Tế đạo nhân nhưng không có nghĩa độ lượng dung tha kẻ thừa hành sai sót. Ðạo đức của kẻ cai trị khác xa với đạo đức thường tình thế nhân… Rất may tháng cuối năm bớt mưa, công việc xúc tiến nhanh hoàn thành Hậu Uyển trước tết chỉ độ dăm ngày. Mọi người mừng vui vừa trút gánh nặng. Chúa hả hê vì khu vườn là món quà đầu xuân chúa tặng Trần phu nhân, người vợ được chúa sủng ái hơn tất cả mọi phu nhân khác trong hậu cung, kể cả Chính phu nhân.
Những ngày đầu xuân nắng ấm, cây cảnh được chăm bón, săn sóc bởi những bày tay khéo léo vươn mình đón xuân. Chúa dẫn Trần phu nhân dạo quanh Hậu Uyển ngắm nghía những hồ nước trong xanh, nào cầu vồng nào thủy tạ khắc hình chim muông, tứ linh, nét khắc tinh xảo của những tay điêu khắc lừng danh từ Ngũ Hành Sơn xứ Quảng được triệu về tô điểm. Phu nhân trầm trồ ngợi khen. Chúa vui, lòng như mở hội. Phu nhân dừng lại nhìn ngọn núi đứng giữa hồ nước xanh tượng trưng bể khơi, trên núi tạc hình thiếu nữ trông như tiên nga cầm cành đào, bên cạnh là văn nhân áo xanh nho nhã. Chúa nói:“Ðó là tượng hình núi Thần Phù ở xứ Thanh, trên núi có động Bích Ðào. Phong cảnh nên thơ hữu tình là nơi thần tiên thường ghé đến. Ðời nhà Trần có người Từ Thức gặp tiên Giáng Hương cũng ở nơi này. Những hình tạc kia là chỉ tích ấy.”
Chỉ hòn non bộ kỳ vĩ núi non trùng điệp gần bên, chúa nói:“Khanh biết hòn non bộ tượng hình gì không? Rặng núi dài như chuỗi ngọc gồm mười hai ngọn nối liền là núi Trinh Tường ở phía tây bắc đất tổ. Làng Gia Miêu huyện Tống Sơn trấn Thanh Hóa. Ðây là nơi an táng chúa tổ và phu nhân (Nguyễn Kim, thân phụ Tiên Chúa Nguyễn Hoàng). Ngôi mộ táng đúng hàm rồng, tương truyền cứ năm trăm năm mới mở một lần. Trời dành sẵn cho giòng họ Nguyễn báu huyệt. Khi vừa táng xong bỗng cửa huyệt khép kín. Rồi mưa to gió lớn, sấm giăng chớp giật xé trời. Mọi người kinh hãi chạy toán loạn. Lát sau trời quang mây tĩnh, mọi người tụ lại chỉ thấy núi đá liên tiếp, cây cối xanh um không còn nhận ra huyệt mộ nên về sau lễ vọng, con cháu chỉ hướng vào núi vái lạy mà thôi. Ta nay ở xứ này nhưng cũng có ngày quyết dành lại đất tổ”.
Trời ngả nắng, chúa và phu nhân ngồi trong thủy tạ. Bọn nội quan bày sẵn bàn tiệc gồm đủ sơn hào hải vị. Viên quan rót mỹ tửu rót trong chén ngọc dâng chúa thưởng thức. Phu nhân nể lòng chúa chỉ uống nửa chung mỹ tửu mà đôi má đã nhuộm hồng mười phần xinh tươi duyên dáng… Chúa say đắm nhìn phu nhân, bỗng nhớ chuyện mười năm trước khi chưa kế nghiệp tiên vương, công tử Nguyễn Phúc Khoát một lần ghé ngang huyện Phong Lộc thăm dân tình. Có người giỏi nghề tướng số, danh nổi khắp vùng, chuyên coi nhân hình mà đoán hậu vận chẳng sai đến gặp công tử. Nhân nói đến nữ tướng, người thầy tướng không ngớt khen quan Khám Lý họ Trần người Phong Lộc có con gái tuổi mới đôi mươi xứng trang quốc sắc, tướng quý đáng bậc mẫu nghi thiên hạ. Thầy tướng tả:“… nàng có nước da trắng long lanh ánh trăng, mái tóc như mây, mày cong lá liễu phủ đôi mắt nhung trong như trời xanh buổi sớm. Má hồng môi thắm, miệng xinh, tươi như hoa hé nụ…” Công tử mới nghe tả sơ mà tâm can mê mẩn. Trở về Chính Dinh, công tử xin phụ vương được phép cùng nàng trăm năm kết tóc. Ðược phụ vương ưng thuận, công tử khẩn báo tin cho họ Trần định ngày đến nộp sính lễ. Buổi đầu tiên đến xem mắt mỹ nhân, công tử choáng váng ngây dại trước nhan sắc quá ư diễm lệ, ngàn vàng khó đổi. Công tử mừng vui, thầm cám ơn trời tặng báu vật. Ngay tháng sau, đám cưới vương giả được cử hành.
Trần phu nhân về làm dâu nhà chúa vẫn sống giản dị đạm bạc, khéo xếp việc nhà lại giỏi chiều chồng nên được công tử hết mực thương yêu. Khi công tử Khoát lên ngôi chúa, cái tình của chúa với phu nhân vẫn nồng thắm như thuở ban đầu… Chúa âu yếm mời phu nhân cùng uống chung rượu quý. Ðêm khuya trăng tàn, chúa vui uống tràn quá chén. Ðích thân phu nhân dìu chúa vào hậu cung. Hôm sau khi chúa vừa thức giấc, phu nhân tự tay pha mời chúa thưởng trà. Thấy dáng phu nhân mỏi mệt, chúa truyền nội giám thỉnh ngay ngự y Phúc Lư vào nội cung chẩn bệnh cho vợ.
Ngự y Phúc Lư người Tây Dương (tên thật Koeffler), là giáo sĩ đạo Gia Tô nhưng được chúa trân trọng do tính nhân ái, lại giỏi về y học, thiên văn, nói rành tiếng Việt. Phu nhân hay ốm vặt, không hợp với thuốc của các quan ngự y trong triều mà chỉ chịu thuốc của giáo sĩ Phúc Lư. Chúa chiều ý vợ mời giáo sĩ làm ngự y, Phúc Lư vui vẻ nhận lời. Thâm tâm giáo sĩ muốn lấy lòng chúa hầu dễ dàng truyền đạo Gia Tô ở Phú Xuân và nhiều nơi khác. Chúa thường nói với quần thần, khen người Tây Dương giỏi kỹ thuật chế tàu chiến, súng đạn, đoán trước gió mưa bão tố… nên cần gần họ để học cái hay. Quần thần nhiều kẻ bất đồng nhưng lặng thinh. Họ chê người Tây Dương kiêu ngạo hợm hĩnh không hợp lễ giáo người Việt. Phu nhân quý mến giáo sĩ, chỉ có ông là người duy nhất được phép vào hậu cung do phép tắc nhà chúa đặt rất nghiêm khắc. Phu nhân thán phục sự hy sinh và tấm lòng cao cả của các giáo sĩ, chấp nhận đời sống tu hành không vợ con, lại bỏ nước tha hương bất chấp hiểm nguy, chuyên tâm rao giảng tin mừng, kêu gọi con người thờ phụng, sống theo lời chúa. Giáo sĩ khôn ngoan khéo chiều ý chúa lẫn phu nhân, những mong hồng ân Thiên Chúa soi sáng, mở lòng cho họ nhận biết nước chúa. Có lần giáo sĩ gợi ý xa vời, phu nhân tinh ý hiểu ra, nói:
-Ðạo của ngài dạy con người làm lành tránh dữ khác chi đạo Phật ta tôn thờ. Nhưng luật đạo quá nghiêm chỉ cho phép đàn ông một vợ, lại không chịu cho bổn đạo thờ cúng tổ tiên nên trái với nghi lễ tập tục nước ta. Chúa thượng quen có nhiều vợ nhưng vẫn bao dung cho phép các ngài tự do truyền đạo chẳng là ưu đãi lắm sao? Ngài hẳn nhớ các tiên chúa đã từng nghiêm khắc cấm đạo, ngay cả vua Tàu cũng chẳng dung đạo ngài.
Giáo sĩ ôn tồn:
-Ða tạ chúa thượng và phu nhân rộng lượng. Chúng tôi nào dám bội bạc, hằng ngày vẫn cầu ân trên che chở chúa thượng và phu nhân, cầu cho dân ngài sống thịnh vượng ấm no hạnh phúc. Với chúng tôi chỉ có nước chúa là vĩnh cửu, chúng tôi yêu thương mọi người như mình để mai sau được về hưởng phúc trên nước chúa. Ðược lãi cả thế gian mà mất thiên đàng nào có ích chi?
-Nước thiên đàng của ngài ở đâu. Có ai trên đời thấy được nước ấy?
-Những ai có đức tin sẽ tin lời chúa. Chúa chúng tôi dậy:Phúc cho những ai không thấy mà tin.
Giáo sĩ biết khó thuyết phục nhà chúa cũng như giới quý tộc quen hưởng thụ, thích có nhiều thê thiếp nên có câu “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”. Ông chỉ mong duy trì mãi tình trạng giao hảo tốt đẹp giữa người Việt và người da trắng. Nhưng mọi sự không tốt đẹp mãi như ông hằng cầu mong, công cuộc truyền giáo đang tốt đẹp bỗng đất bằng nổi sóng, nguyên do lại quá giản dị do sự vụng về tham lam, thiển cận và kiêu ngạo của viên chức đại diện triều đình Pháp tên là Lã Pha (Le Poivre).
Lã Pha từng du lịch qua nhiều xứ Viễn Ðông. Ðến Ðàng trong, Lã Pha nhận xét cảng Hội An là nơi buôn bán phồn thịnh, rất đông người Tàu, người Nhật lập thương điếm nhưng sự giao thương giữa người Việt và người da trắng còn nhiều hạn chế. Triều đình Pháp cử Lã Pha đến Ðàng trong, trình bày với chúa Nguyễn việc mở thương quán, ý muốn dành độc quyền mua nguồn hương liệu quý như quế, tiêu, trầm hương… đang do người Hòa Lan nắm giữ. Lã Pha đến cửa Hàn rồi ra Phú Xuân xin yết kiến chúa, tặng chúa nhiều phẩm vật, trình chúa nhiều mặt hàng khác như đồ gốm, giấy, các loại nỉ nhung quý… như một cách rao bán. Số hàng bán nhiều mà tiền thu ít. Lã Pha tức giận phải chờ đợi ròng mấy tháng, lúc chán nản muốn trở về Pháp lại không mua được các mặt hàng tốt theo ý muốn. Lã Pha than phiền với nhân viên trong đoàn, cho Ðàng trong là nước được cai trị bởi tập đoàn xấu xa, tham lam và ngu dốt. Vậy muốn dành độc quyền buôn bán với nước ấy phải có sức mạnh, phải cần bạo lực…
Những lời nói của Lã Pha cuối cùng đến tai chúa. Chúa tin là thật vì đã xẩy ra nhiều trường hợp người Tây Dương xích mích, nhục mạ người Việt. Ðám cận thần không ưa người Tây Dương làm biểu văn tâu chúa đòi tuyệt giao với người da trắng. Thỉnh cầu chúa triệt đạo Gia Tô, đạo này xét cho cùng là tà đạo nhằm lừa bịp những người dân ngu, nhẹ dạ cả tin. Cái mối nguy lớn nhất là các giáo sĩ lợi dụng truyền đạo nhưng mục đích chính là mở đường cho người Tây Dương xâm lược…. Sau vài ngày suy nghĩ, chúa truyền cấm đạo, trục xuất hết các giáo sĩ trừ Phúc Lư được xem như ngự y. Kế hoạch được thi hành triệt để bí mật.
Giáo sĩ Phúc Lư cư ngụ trong căn nhà nhỏ trong khuôn viên nhà thờ Phường Ðúc. Công việc thường lệ của ông là hành lễ mỗi sáng sớm vào khoảng đầu giờ dần. Cả ngày ông chuyên chú nghiên cứu y dược và học thêm tiếng Việt để dậy giáo lý cho tân tòng. Buổi sáng hôm ấy ông dậy sớm nhưng chờ mãi không thấy người bõ già kéo chuông lễ. Ông khoác áo định sang nhà thờ xem động tĩnh. Vừa vào khu nhà thờ, ông nhìn thấy con đường dẫn đến nhà thờ đầy quân sĩ gươm giáo tuốt trần đứng án ngữ. Vừa thấy ông, viên quan chỉ huy đến cúi chào, ra lệnh ông trở về nhà. Ông hỏi tại sao, viên quan lạnh lùng đáp y chỉ biết thi hành theo lệnh thượng cấp. Biết có biến, giáo sĩ đành trở về chờ xem sự thể. Luôn một tuần lễ, ông bị giam lỏng trong nhà. Ðôi lần gặp viên quan, ông xin được vào yết kiến chúa thượng nhưng luôn bị từ chối. Khu nhà thờ vắng lặng thiếu bóng giáo dân, lòng ông rối như tơ, chỉ biết cầu nguyện. Ông đoán nhà chúa đã đổi thái độ với đạo Gia Tô nhưng không rõ số phận các giáo sĩ cũng như giáo dân. Với ông, họ vẫn đối xử tốt, cứ vài ngày viên quan cho quân mang thực phẩm đến cho ông tự nấu nướng lấy. Hai tháng sau, buổi sáng cuối xuân năm Canh Ngọ 1750, giáo sĩ đang thơ thẩn ngoài vườn bỗng thấy viên quan mời ông vào gặp chúa thượng. Ông mừng rỡ thay vội quần áo lên ngựa theo viên quan vào cung. Thấy chúa đứng ngay cửa hậu cung, ông cung kính vái chào. Chúa nói:“Vì quyền lợi của đất nước, ta không thể để các giáo sĩ tiếp tục truyền đạo”. Chúa cho biết các giáo sĩ đều đã bị đưa ra khỏi nước, giáo dân không bị trừng phạt nhưng bị buộc bỏ đạo. Giáo sĩ nói:
-Thưa chúa thượng, đã mấy tháng tôi bị quản thúc tại nhà, chẳng được hành lễ do giáo dân bị cấm, lòng vẫn tự hỏi đạo chúng tôi nào có chi sai trái?
Chúa nói:
-Ðạo của ông ngược với phong tục tập quán nước ta. Lễ giáo dạy con người uống nước nhớ nguồn, phải thờ cúng tổ tiên thì đạo ông ngăn cấm. Các ông nói truyền đạo nhưng thực sự đến dọ thám mở lối xâm lược. Nước Xiêm La đã từng là nạn nhân của người Tây Dương, ông há chẳng thấy.
Giáo sĩ thừa hiểu với chúa không bao giờ nên tranh luận mà chỉ phục tùng, hỏi:
-Chúa đuổi hết giáo sĩ, sao lại dung tôi?
-Vì ta coi ông là ngự y của phu nhân, ta chỉ muốn ông làm việc ấy. Ông thuận chăng?
-Tôi lấy đức bác ái làm đầu, yêu thương con người như yêu chính mình. Tôi cảm tạ chúa thượng và phu nhân ưu ái. Thưa chúa thượng, sức khỏe phu nhân có khả quan?
-Bởi lẽ ấy nên ta triệu ông. Phu nhân không khỏe, thường ốm vặt, biếng ăn mất ngủ.
Chúa nói xong bỏ vào trong, viên nội quan bước ra mời giáo sĩ qua phòng bên. Giáo sĩ bước vào đã thấy phu nhân ngồi chờ sẵn. Bà ra dấu mời ông ngồi:
-Ngài vẫn mạnh?
Giáo sĩ từ tốn:
-Cảm tạ phu nhân, tôi vẫn khỏe nhưng lòng chẳng vui.
-Ta biết mọi chuyện nhưng không ai dám can chúa thượng. Mong rằng sự khó chóng qua.
-Tôi cũng nghĩ thế. Bấy nay phu nhân thấy trong người ra sao?
-Ta thấy người thường hâm hấp nóng vào mỗi chiều, biếng ăn khó ngủ. Nhiều đêm trằn trọc đến canh tư mới thiu thiu. Tháng trước chúa thượng cho ngự y đến chẩn bệnh, y nói do chân hỏa vượng cho uống giải nhiệt nhưng thuốc men hàng tháng chẳng bớt.
Giáo sĩ nhìn sắc diện phu nhân, nước da xanh tái, mắt sâu mỏi mệt, môi thâm khô chứng tỏ bệnh nhuốm đã lâu. Phu nhân nói:“Xưa chị ta cũng bệnh như ta, chỉ vài tháng là mất”. Giáo sĩ nhìn phu nhân, nét buồn vương vấn trong đôi mắt sâu thẳm. Ông bỗng dưng ái ngại, đoán phu nhân mang bệnh nội thương trầm trọng, căn bệnh do di truyền có thể đã vượt khả năng của ông. Ông bắt mạch, cho phu nhân uống liều thuốc hạ nhiệt, khuyên bà nên tĩnh dưỡng, tránh buồn phiền lo lắng… Từ đấy, hàng tuần giáo sĩ lại vào thăm bệnh phu nhân. Càng thăm bệnh càng thất vọng, phu nhân cứ yếu dần như cây khô nhựa sống. Giáo sĩ muốn tỏ thật cho chúa và phu nhân biết mình đã hết khả năng nhưng ngại ngần chưa biết thưa thốt thế nào… Phu nhân nhìn ánh mắt người thầy thuốc, lại thấy sức khỏe cứ tàn lụi dần, cử động mệt mỏi khó khăn, thuốc uống vào như nước lã. Bà linh cảm số phận mình đã an bài, kiếp người có sinh có tử, nên bình tĩnh chấp nhận là hơn.
Tháng bảy năm ấy mưa nhiều, mưa sụt sùi khóc vợ chồng Ngâu xum họp rồi lìa xa. Mưa lê thê ngày nọ ngày kia mù trời ảm đạm. Một chiều mưa, phu nhân đang nằm vùi bỗng trở dậy, truyền cung nữ đem phấn son trang điểm, lại thay quần áo mới bằng lụa hồng, mầu hồng chúa vẫn yêu. Ðám cung nữ phục dịch tưởng phu nhân đã khỏe. Lát sau chúa đến, thấy phu nhân trang điểm xinh đẹp, chúa tươi cười mừng vui, nghĩ phu nhân dần hồi phục. Mấy tháng phu nhân ốm đau, hàng ngày chúa vẫn đến ân cần trò chuyện săn sóc. Chúa ngồi bên vợ hồi lâu, phu nhân cảm động rưng lệ như muốn nói mà thốt chẳng nên lời. Trời chiều âm u, chúa rời phu nhân đến thư phòng bàn việc triều chính khẩn. Ánh mắt phu nhân như van nài chúa lưu lại… Trời tối sẫm, đám cận thần ra về chỉ còn mình chúa ngồi lại thư phòng. Bỗng viên thái giám tất tả chạy vào báo tin phu nhân mệnh vong. Chúa thấy trời đất quay cuồng,hét lên một tiếng ngã nhào bất tỉnh…
Tin phu nhân mất loan truyền nhanh, vương tộc Nguyễn tụ tập cả ở hậu cung. Ðám ngự y đã cứu chúa lai tỉnh, dâng chúa uống xong tách trà sâm. Chúa uống xong thẩn thờ bước sang phòng phu nhân, chẳng thèm nhìn đám gia tộc đang tụ tập trong hành lang bàn tán chuyện trò. Chúa vừa bước vào phòng, hai công tử đang đứng bên giường mẹ thấy cha bỗng khóc rống. Phu nhân nằm như yên ngủ, hai tay để trên ngực. Chúa nghẹn ngào… Phu nhân ra đi lặng lẽ không lời trăn trối. Ðám cung nữ kể tối ấy, sau khi chúa rời phòng, phu nhân buông màn nằm nghỉ. Lát sau cung nữ vào mời phu nhân dùng cơm mới hay bà đã ra đi.
Ðêm ấy chúa không ngủ, lặng ngồi bên xác vợ. Ðám thái giám cung nữ đứng chầu chực bên ngoài. Tất cả lặng yên, nghiêm trọng sợ làm chúa kinh động. Không ai ngu dám đùa với mạng sống. Chúa không ngủ nên không ai dám đi ngủ. Ðêm tĩnh lặng nặng nề, tiếng muỗi vo ve… Khoảng nửa đêm, chúa truyền viên thái giám mang đến bầu rượu…
Sáng hôm sau, trời mờ sáng. Quần thần tụ tập ở chính điện chờ chúa thiết triều. Cả đô thành Phú Xuân biết tin Trần phu nhân, người vợ được chúa sủng ái nhất vừa từ trần đêm trước. Ðám quan lại lác đác có kẻ đeo khăn tang, túm năm tụm ba bàn tán. Ðám võ tướng tỏ ra ngờ vực giáo sĩ Phúc Lư, cho người da trắng tráo trở khó tin không nên giao thiệp gần gũi, có khi mang họa vào thân. Trời hừng sáng, quần thần ổn định vị trí. Chúa từ nội điện bước ra, vẻ mệt mỏi ủ dột ngồi tựa trên ngai. Quan Lễ Bộ tâu chúa việc lo tang lễ. Chúa nói chưa vội, truyền khẩn cấp cử người vào Phố Hội triệu danh y người Tàu giỏi thuật ướp thi hài về đô thành. Chúa gọi quan Chưởng Dinh, đanh thép:“Ngươi đến bắt ngay Phúc Lư , đưa hắn đến Cửa Hàn, lệnh xuống tàu rời khỏi nước, việc khẩn chớ chần chờ”. Nói xong truyền bãi triều.
Trong nội cung, đám thái giám cung nữ luẩn quẩn quanh phòng phu nhân không dám rời bước. Giờ ăn cũng chia toán, thay phiên nhau ăn xong lại tụ về, lầm lũi lặng yên, giờ ngủ cũng vậy. Tất cả đều sợ vắng mặt lúc chúa cần sai việc có thể lĩnh đủ tai họa. Hôm sau, hàng trăm thợ khéo ở đô thành được gọi vào làm gấp căn phòng lớn ngay trong Hậu Uyển. Căn nhà mái ngói, kèo cột cửa chính phụ chạm khắc cầu kỳ. Bàn thờ hương án đầy đủ. Ðám thợ khác thực hiện quan tài nắp đậy bằng tấm kính lớn. Ai nấy đều hiểu chúa dành căn nhà làm chỗ đặt thi hài phu nhân. Việc giữ thi hài dài lâu do danh y người Tàu thực hiện hơn nửa tháng mới xong. Từ đấy, đám cung nữ, thái giám ngày ngày thay phiên lo hương khói cúng quả. Ngày vọng ngày sóc lại có các vị sư đến tụng kinh siêu độ. Ðôi ngày chúa lại đến ngồi bên quan tài, u buồn nhìn thi hài người vợ yêu qua tấm kính… Vua chúa yêu thương buồn vui cũng khác người thường.
Thu qua đông tàn… Một năm trôi qua. Người dân đô thành trước thường bàn tán chuyện vị chúa đa tình, chuyện đêm đêm bóng ma thiếu phụ áo trắng mờ mờ sương khói thơ thẩn trong Hậu Uyển… nay dường như cũng lãng quên dần. Riêng đám thái giám cung nữ vẫn khổ cực vì cái xác chết nhưng ngậm tăm, hàng ngày quẩn quanh lo hương khói với bộ mặt cố tình tạo vẻ rầu rĩ thảm sầu. Uy quyền tuyệt đối của vua chúa làm mất sức đề kháng của bề tôi đã quen nhẫn nhục cam chịu.
Cuối tháng bảy chúa gặp gỡ quần thần, truyền Chưởng Dinh tuyển hàng trăm thợ nề giỏi ở đô thành chuẩn bị xây lăng mộ. Ðịa điểm được chọn là vuông đất bằng trên ngọn đồi thấp thuộc xã Dương Xuân. Họa đồ ngôi mộ thiết kế khá lớn gồm hai vòng thành có cổng vào, giữa là nấm mộ. Cách vòng ngoài vài trượng có nhà bia. Lại truyền các quan trong viện Hàn Lâm họp nhausoạn thuật lại ngôn hạnh phu nhân lúc bình sinh để khắc vào bia đá. Bài văn bia gần chín trăm chữ, mở đầu bằng câu: Việt cố quý tần tặng Chiêu Nghi Từ Mẫn Trần liệt phu nhân chi mộ (Mộ bà Trần phu nhân là quý tần cũ nước Việt tặng Chiêu Nghi thụy Từ Mẫn). Văn bia nay vẫn còn, lời văn bi thiết, người đời đọc phải ngậm ngùi thương cảm…” Hỡi ơi, trăng thu sáng bị mây che phủ, chồi xuân lan vừa hé vội tàn. Trời thẳm xanh có thấu, mỹ nhân châu chìm ngọc nát, quế héo hoa rơi đi chẳng trở về!…”
Dân đô thành lại bắt đầu đồn đại, rằng thi thể phu nhân biến dạng buộc chúa phải chôn, rằng có thày địa lý tài giỏi chỉ cho chúa phúc địa… Vui mừng nhất vẫn là đám người phục dịch trong hậu cung. Ðúng ngày đầu tháng mười một năm ấy, năm Tân Mùi 1751, lễ an táng Trần phu nhân long trọng cử hành. Quan Chưởng Dinh muốn lấy lòng chúa, ngầm sai thủ hạ bảo dân buộc khăn tang ngoài ngõ, trên hàng cây hai bên đường dẫn đến mộ huyệt. Ðô thành Phú Xuân trắng màu tang…
Từ ngày an táng phu nhân, Phụ Chính đại thần Trương Phúc Loan như thấu hiểu nỗi đau luôn ra sức nghĩ suy làm đẹp lòng chúa. Loan cho thủ hạ đi khắp nơi tuyển những đào hát danh tiếng hàng đêm ca hát diễn tuồng tích cho chúa khuây nỗi buồn. Loan thường nói với quần thần:“Chúa thượng tin yêu giao ta trọng trách, phải cố làm sao để người vui tươi, bảo vệ mình vàng giữ yên xã tắc, cai quản trăm họ”. Có người biết câu nói của Loan chỉ cốt lấy lòng chúa, kín đáo cười mỉm lặng thinh. Ngay cả dân đô thành, ngoài các dinh ai cũng biết giây liên lạc mật thiết giòng tộc giữa quan Phụ Chính với nhà chúa. Phúc Loan là em ruột Trương nguyên phi, thân mẫu của chúa, nên quan hệ với chúa là cậu ruột. Giòng họ Trương nhiều đời có những bề tôi lương đống, rường cột bảo vệ cõi bờ Ðàng trong nên được các chúa phong thưởng hậu hĩ. Ðến đời Phúc Loan, dù chỉ là kẻ tầm thường văn võ chẳng hơn người vẫn được trọng dụng phong chức tước lớn chỉ vì có người chị ruột được tiến cung. Loan bản chất tham lam vô độ chỉ biết có tiền, bất cần liêm sỉ. Lợi dụng quyền phụ chính, Loan thường sai đám thủ hạ sách nhiễu đám thương nhân buộc phải hối lộ, biếu xén quà cáp… Ước muốn duy nhất của Loan là làm sao tóm thu các mối lợi kinh doanh nhưng còn e dè phép nước. Nhiều năm gần gũi, Phúc Loan biết tính chúa kỹ lưỡng bạc tiền, thường xuyên kiểm tra việc thu chi thuế má. Chúa sợ công quỹ thất thoát nên cương quyết bài trừ tham quan ô lại. Chúa thường dặn các quan:“Thuộc lại gian tham sách nhiễu gây cho dân thống khổ, phải xét trị thanh trừng nghiêm khắc”.
Một hôm Loan gặp Thái Giám Chữ Ðức, tay chân của Loan, cũng là người thân tín thường xuyên gần gũi hầu hạ chúa từ ngày chúa lên ngôi báu. Loan hỏi:
-Bấy lâu ta mang nhiều đào hát về, hàng đêm ca múa, bọn ca kỷ có làm chúa thượng vui?
Chữ Ðức cung kính:
-Bẩm tướng công, chúa thượng chỉ vui phần nào. Ngài chê đào hát nhiều đứa lớn tuổi, lại có chồng con nên dù hát hay múa dẻo nhưng kém bề hấp dẫn. Vẻ đẹp chỉ nhờ son phấn giả tạo. Nhiều đêm hạ quan tìm cách nói xa gần, ý chúa thượng vừa mắt ai, hạ quan sẵn sàng bảo nó hầu hạ nhưng chúa thượng vẫn lơ là. Có đêm ngài ngự ở cung nguyên phi, có đêm uống rượu say ngự ngay trong hậu cung.
Phúc Loan trầm ngâm suy tính:
-Ta biết chúa thượng đắm sắc vẫn nhớ Trần phu nhân. Dĩ độc trị độc, làm sao ta tìm được trang giai nhân tuyệt sắc tiến cung, nhất định chúa sẽ vui vẻ quên sầu. Lúc đó ngươi càng được chúa yêu vì, công danh ta có cơ thăng tiến. Ngươi nên nhớ chức phận càng cao, bổng lộc càng nhiều. Ngươi biết chốn đô thành có ai xứng danh ngọc nữ?
-Hạ quan suốt ngày du dú trong cung, thân thể khiếm khuyết chẳng vướng nợ đời nên màng chi nữ sắc. Nói vậy nhưng tướng công yên tâm, hạ quan sẽ nghĩ cách.
Ngay hôm sau, Chữ Ðức sai đám thủ hạ đi khắp hang cùng ngõ hẻm đô thành, la cà chốn trà đình tửu điếm dọ hỏi nhà nào có con gái đẹp. Phần Phúc Loan cũng sai thân tín đi các phủ tuyển đào hát mới. Loan nói:“Chúng bay chẳng cần chi hát hay múa dẻo, hát không hay luyện mãi cũng thành hay. Múa vụng luyện mãi cũng thành dẻo. Chỉ cần gái chưa chồng, nhan sắc, thân thể đẫy đà mông nở vú to”. Chỉ non nửa tuần trăng, Phụ Chính Trương Phúc Loan đã tuyển được vài chục cô gái nhan sắc lập đội nữ nhạc. Những cô gái trẻ xinh đẹp từ thành đến quê mang thân cá chậu chim lồng, ngơ ngác giữa chốn cung vàng điện ngọc. Hàng ngày các cô phải thức dậy từ sáng sớm, ra sức tập luyện lời ca tiếng nhạc cùng là múa may, mãi đến tàn nắng mới được nghỉ ngơi ăn uống, bồi dưỡng sức lực để hôm sau tiếp tục như thế… Phúc Loan vẫn lo lắng vì vẫn chưa tìm được trang giai nhân mơ ước, luôn thúc dục Chữ Ðức ra công kiếm tìm, kèm những lời hăm dọa nếu việc không thành. Chữ Ðức mặt như chàm đổ, sợ toát mồ hôi vì biết quan Phụ Chính chẳng bao giờ đùa dỡn. Chữ Ðức ăn chay nằm đất, ngày ngày dâng hương niệm phật độ trì cho việc chóng thành. Vài ngày sau, được thủ hạ báo tin tìm được giai nhân, Chữ Ðức mừng hơn bắt được vàng, tức tốc lên ngựa đến phủ Phụ Chính. Ðức bẩm:
-Bẩm tướng công, hạ quan đã tìm ra ngay chốn đô thành có giai nhân xứng trang quốc sắc, trầm ngư lạc nhạn, nguyệt thẹn hoa nhường… nhưng, nhưng có trở ngại.
Phúc Loan quắc mắt:
-Sao lại trở ngại, mà trở ngại chi? Ngươi không biết ý chúa thượng là ý trời, ngài thừa mệnh trời trị trăm họ.
-Bẩm tướng công, hạ quan nói có trở ngại bởi trang giai nhân, nàng là tiểu thư Nguyễn Phúc Ngọc Cầu, con gái út của Ðiền Quốc Công. Chúa thượng với nàng là anh em đồng đường.
Phúc Loan chợt nhớ Quốc Công Nguyễn Phúc Ðiền là chú ruột của chúa, Ðiền đã qua đời, để lại dinh cơ đồ sộ gần chợ Dinh. Biết vậy nhưng Loan vẫn ra uy quát mắng:“Ta chỉ muốn đưa nàng vào cung múa hát giải khuây cho chúa, cớ chi ngươi rắc rối nhắc chuyện đồng đường đồng sá?” Nói xong cho Chữ Ðức về cung, hẹn sáng sớm đến phủ nhận lệnh.
Ðêm ấy Phúc Loan trằn trọc nghĩ suy, chúa háo sắc nhưng với cô em chung họ máu? Phúc Loan biết tính chúa cương quyết, đã muốn là phải được. Còợn mình không bao giờ bỏ qua mộng triệu phú, đời phải lắm của nhiều tiền, có tiền mua được cả tiên, phải được chúa tín cẩn thì mộng lớn mới thành. Phúc Loan quyết định đưa Ngọc Cầu vào cung, nhưng trước hết phải gặp mặt xem nàng có thật sự tuyệt sắc.
Sáng sớm Chữ Ðức đến phủ, Phúc Loan hỏi:
-Ta tạm tin là Ngọc Cầu nhan sắc. Nàng hiện ở với ai?
-Bẩm tướng công, hiện nàng ở cùng hai người anh là Phúc Viên và Phúc Nghiễm. Cả hai làm việc ở các bộ, nghe đâu đều không khá giả bởi Viên mê bài bạc, còn Nghiễm mê gái và rượu.
-Ngay hôm nay ngươi đưa nàng đến gặp ta, nhớ mang kiệu son và binh hộ tống.
Chữ Ðức ngần ngừ:
-Hạ quan nghĩ nàng thuộc vương tộc, ta phải tỏ ra lễ nghĩa. Làm sao thuyết phục hai anh nàng thuận ý, nàng mới được phép rời nhà.
-Ngươi không biết làm cách nào được việc sao?
-Hạ quan nhận lệnh tướng công chẳng dám lơ là, lại nghĩ việc muốn thành phải có tướng công trợ giúp. Ý hạ quan muốn bẩm tướng công hứa hẹn sẽ thăng cấp chức, ban bổng lộc. Cụ thể ban thưởng ngay món tiền hậu, chắc chắn họ mừng vui vì hiện sống chẳng khá giả.
Phúc Loan bĩu môi:
-Tiền, tiền ư. Ðồng tiền liền khúc ruột, cứ động tí lại là tiền. Của giả ta bao lăm, cứ chi ra mà nguồn thu không có còn đâu vốn liếng?
Chữ Ðức phân bua:
-Tướng công muốn mưu đại sự sá chi chuyện nhỏ. Cho họ tí tiền khác nào chơi nước cờ thí tốt hãm xa.
Phúc Loan cả cười khen Chữ Ðức mưu trí, bước vào hiên sau bàn chuyện với phu nhân. Nói mãi phu nhân mới chịu mở rương trao Chữ Ðức hai trăm quan tiền và chục nén vàng…
Chữ Ðức hăm hở ra đi. Ngay buổi xế tiểu thư Ngọc Cầu đã có mặt tại phủ Phụ Chính. Phúc Loan mừng rỡ trước vẻ đẹp lộng lẫy khiêu gợi của cô gái, nghĩ gỗ đá thấy nàng cũng động tình. Trương phu nhân vừa gặp, đon đả nắm tay Ngọc Cầu dắt vào nhà trong. Phu nhân ngọt ngào:
-Ta nghe danh con sắc nước hương trời, nên xin các công tử cho phép con tạm ở với ta, học thêm ca múa có dịp vào cung giúp vui chúa thượng. Con đã đẹp, lại múa hay hát giỏi tất ngài rộng lượng ban bổng lộc, thiếu chi châu báu ngọc ngà.
Ngọc Cầu bấy lâu côi cút, nghe phu nhân ân cần nhỏ nhẹ, lại nhắc ngọc ngà châu báu nên vui mừng an tâm. Bao năm sống với ngươi anh mê cờ bạc túng thiếu, Ngọc Cầu tuy mang tiếng vương tộc nhưng sống thiếu thốn mọi bề, ăn mặc đơn sơ như thứ dân, chỉ mong vòng xuyến đeo tay cũng chẳng có, nhiều lúc tủi phận khóc thầm. Ðược rời khỏi người anh khác chi rời nơi tù hãm tối tăm. Ðối với chúa, tuy mang tiếng anh em nhưng thật sự xa cách. Ngọc Cầu chỉ gặp anh đôi lần trong dịp tết, hồi chúa còn là công tử nên tình nghĩa chẳng mấy đậm đà, thậm chí anh em gặp gỡ chẳng nhớ mặt nhau. Sống túng thiếu đành cam, đâu dám nghĩ tới chuyện nhờ vả người anh ở ngôi cao tuyệt đỉnh.
Ngọc Cầu thông minh, thích múa hát nên chuyên cần luyện tập. Chưa hết tuần trăng đã nằm lòng nhiều câu ca điệu vũ, tấn thối uyển chuyển nhịp nhàng thanh quý như tiên nữ múa khúc Nghê Thường. Phúc Loan cả mừng, phu nhân cũng vui không kém, chịu bỏ tiền mua tặng Ngọc Cầu thêm nữ trang, Cầu cảm động mến thương coi phu nhân như hiền mẫu. Phu nhân nói với chồng:“Ông để ý Ngọc Cầu nhiều nét hao hao giống bà Chiêu Nghi (tức Trần phu nhân) nhưng khiêu gợi sắc sảo hơn nhiều”. Phúc Loan gật gù khen vợ tinh mắt, nhắc câu thuận vợ chồng tát cạn biển đông. Phu nhân nhắn nhủ Ngọc Cầu:“Con vào cung nhớ hầu hạ chúa thượng chu đáo, được chúa đoái tưởng khác chi phận cá hóa rồng”. Ngọc Cầu vâng dạ, thật sự chẳng hiểu nổi ý phu nhân và quan Phụ Chính. Kế hoạch đưa Ngọc Cầu vào cung được tính toán kỹ càng từng bước, trách chi vị chúa phương nam háo sắc sa ngã lưới tình để Phúc Loan thao túng triều đình, đẩy cơ nghiệp họ Nguyễn từ đỉnh cao xuống vực thẳm suy vong…
***
Phúc Loan hỏi Chữ Ðức:
-Từ ngày viên ngự y người Tàu tự xứ Quảng vào hầu, chúa thượng an vui phiền não ra sao?
-Bẩm tướng công, lúc mới vào cung ngự y khoe hạ quan, rằng phương thuốc của y danh gia bí truyền, từng được các vua Tàu khen ngợi, chỉ cần đôi liều là cây gậy ngọc cứ như thiết côn, dũng mãnh xông pha trận mạc bất kể đêm ngày. Hạ quan tưởng y đại ngôn, sau mới thấy xuân dược của y hiệu nghiệm lạ lùng. Chúa thượng trước ủ rũ nay như cò diệc gặp mưa, nay hàng đêm gần gũi dăm bà, tung hoành “hoa dinh cẩm trận” chẳng hề mỏi mệt. Ngài vui vẻ gần như thuở còn phu nhân kề cận.
-Ngươi về chuẩn bị chu đáo đêm hát tối mai, nói với nhạc quan dành vai đào chính cho tiểu thư Ngọc Cầu, trong khúc “Chiêm nữ du xuân”. Ta cũng sẽ vào cung hầu chúa. Trước khi dự yến nhớ nhắc ngự y dâng ngài mấy liều xuân dược.
Chữ Ðức ra về, thừa biết đêm hát tối nay vô cùng hệ trọng khác với lệ thường. Chữ Ðức lệnh đám cung nữ thái giám lau chùi quét dọn, treo đèn kết hoa. Ðêm hát chỉ dành cho chúa và quan Phụ Chính. Vài cung nữ nhanh nhẹn sắc sảo được chọn hầu hạ điếu đóm dưới quyền Chữ Ðức. Kẻ khác tuyệt nhiên cấm bén mãng.
Xế chiều, Phúc Loan vào cung. Chúa ưu ái cho Loan cùng ra hoa viên dự yến, thưởng công Phụ Chính bấy lâu khó nhọc quốc sự. Loan tâu:“Tâu chúa, nước chỉ có một mặt trời, thần với chúa thượng vẫn nghĩa vua tôi chẳng dám phạm thượng”. Loan để chúa ngồi giữa, còn mình kê ghế thấp ngồi chếch sang mé trái. Chúa rất đẹp ý, khen Loan tôi trung. Rượu ngon càng uống càng nồng, chúa vui uống tràn, càng vui hơn khi nghe Loan nói đêm hát tối nay sẽ có người ngọc trong vai Chiêm nữ xinh như tiên nga giáng thế. Tiệc tàn khi bóng đêm dần lan, phủ lấp mầu đỏ rực rỡ của hàng phượng vĩ cuối vườn, khóm mẫu đơn đầu hè cũng chìm trong bóng tối. Phúc Loan ra dấu Chữ Ðức mời chúa vào hậu cung thưởng nhạc vũ.
Căn phòng ấm cúng thoảng hương trầm, ánh nến lung linh huyền ảo, tiếng nhạc mơ hồ xa vắng. Các Chiêm nữ lả lướt uốn lượn thân mình theo sóng nhạc, tuyệt vời đôi bồng đảo nhấp nhô. Chữ Ðức đứng hầu chúa, dán mắt vào đám Chiêm nữ, tự xót phận mình bất hạnh bởi cái quý giá nhất của y nay chỉ dùng vào việc thải chất nước dư trong người. Chúa ngồi chăm chú ngất ngây, mải mê trước đám ca nhi đêm nay xinh đẹp lạ thường, lòng náo nức chờ xem đào chính, ắt hẳn xinh đẹp hơn các ả kia bội phần… Tiếng nhạc bỗng chuyển như sóng dậy hòa tiếng trống tiếng phách dồn nhịp thôi thúc. Trên sân khấu, hàng trăm ánh nến bừng sáng sau lớp giấy bóng đỏ vàng. Giữa khung cảnh hoành tráng kỳ ảo lạ thường như chốn bồng lai, cô Chiêm nữ xuất hiện rực rỡ với nụ cười nghiêng thành đổ nước, chúa đổ người về phía trước bàng hoàng, phút chốc mơ hồ hình bóng người vợ yêu quá cố… Chiêm nữ yêu kiều lả lướt phơi phới xuân tình uốn lượn nhịp nhàng trước mặt chúa. Chúa cầm lòng chẳng nổi, men rượu cộng với xuân dược kích thích lửa dục bừng bừng. Chúa đứng phắt dậy truyền Chữ Ðức đưa nàng vào hậu cung. Chúa nói xong rảo bước. Ðêm nhạc vũ dừng, mọi người ngơ ngác… Ðêm ấy chúa như gà chọi gặp mái tơ, cơn mưa gió bão giông vùi dập ngọc nữ. Ngọc Cầu ứa nước mắt chịu đựng không dám khóc thành tiếng. Lúc chúa chìm sâu giấc ngủ, nàng phủ tấm chăn mỏng lên người chúa, bó gối ngồi lặng yên trong góc giường. Ray rứt. Oan nghiệp xui khiến người đàn ông đầu đời của nàng lại là vị chúa phương nam, là người anh em chú bác… Ðành thôi ván đã đóng thuyền.
Sáng sớm chúa tỉnh giấc thấy Ngọc Cầu nằm co ở góc giường. Chúa vỗ nhẹ, Ngọc Cầu khóc:
-Chúa thượng, em không dám phật ý người. Nhưng em là Ngọc Cầu, con gái Ðiền Quốc Công..
Chúa trấn tĩnh ngay sau một thoáng thảng thốt. Nghĩ chuyện đã lỡ có hối càng bận tâm. Chúa an ủi:
-Ta chẳng cần biết ái khanh là ai, ta là chúa tể Ðàng trong, ta yêu ái khanh, muốn ái khanh là vợ, trọn đời bảo bọc. Ái khanh hiểu thế là đủ…
Chuyện thâm cung lan tràn, vương tộc xôn xao, riêng Nguyễn nguyên phi, người vợ cả của chúa vẫn bình thản lạnh lùng làm chúa chột dạ. Chúa hỏi Phúc Loan. Loan đáp:
– Chuyện tình duyên éo le ngang trái xẩy ra nơi chốn thâm cung xét cũng bình thường. Thuở trước, Công Thượng Vương (tức Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan, con thứ Chúa Sãi) chẳng ngăn được lòng. Sau khi người anh cả Nguyễn Phúc Kỳ mất, chúa say mê Tống phu nhân, vợ của người anh, sống với bà như vợ chồng. Người người đều ngăn nhưng ý chúa đã quyết cũng đành chịu. Chúa thượng nay chỉ cần đưa phu nhân ra sống biệt lập ở điện Trường Lạc. Với thời gian, mọi chuyện rồi sẽ rơi vào quên lãng.
Chúa gật gù:
-Quan Phụ Chính chí lý. Ta còn nhớ chuyện thời Trần, vua Thái Tôn bị Thái Sư Trần Thủ Ðộ buộc phải bỏ vợ là Chiêu Thánh hoàng hậu, lấy chị ruột của bà là Thuận Thiên công chúa. Thuận Thiên có mang ba tháng, lại đang là vợ của Trần Liễu. Éo le ngang trái ở chỗ Trần Liễu là anh ruột nhà vua. Ngay Thái Sư Thủ Ðộ, ngài là con nuôi họ Trần nhưng sau lại lấy Thiên Cực công chúa làm vợ, bà này trước là hoàng hậu, vợ vua Lý Huệ Tôn. Trong gia tộc họ Trần, bà kể như vai em của Thái Sư.
Ngay hôm sau, Phúc Loan sai thợ sửa sang lại điện Trường Lạc. Chúa kín đáo đưa Ngọc Cầu ra đấy, anh em ngày đêm vui vầy hoan lạc. Ngọc Cầu khéo léo chiều chuộng hết mực nên càng được chúa yêu thương. Thỉnh thoảng chúa mới hồi triều, kỳ dư mọi việc trong ngoài một tay Phúc Loan giải quyết. Phúc Loan hể hà, tự hào vừa thắng nước cờ thí tốt hãm xa. Thái Giám Chữ Ðức bỗng trở thành người thế lực… Hai người anh Ngọc Cầu, Phúc Viên Phúc Nghiễm được bổ vào đội thủy cơ ở cửa Eo (Thuận An) và Phố Hội Quảng Nam, trở thành tay chân đắc lực kinh tài của quan Phụ Chính. Tài sản Phúc Loan tăng lên mà cơ nghiệp nhà chúa lún dần. Triều thần hoang mang chia rẽ. Kẻ như cờ bay theo gió tôn phù kẻ mạnh cốt yên sống, hưởng chút bổng lộc cơm thừa canh cặn. Kẻ bất mãn ngậm tăm chẳng dám một lời can gián vị chúa đa tình tăm tối. Năm sau, Ngọc Cầu hạ sinh công tử Nguyễn Phúc Thuần nên càng được chúa sủng ái. Phúc Loan nhen nhúm mưu đồ dành ngôi báu cho Phúc Thuần một khi chúa mệnh vong. Có lần Phúc Loan hỏi chúa việc chọn người kế vị. Chúa nói đã có chủ trương. Loan hỏi tới, chúa trả lời dứt khoát công tử nào tài đức sẽ được chọn mặt gửi vàng. Loan tinh ý biết công tử thứ chín Nguyễn Phúc Hiệu sẽ là người kế vị. Phúc Hiệu cương nghị thông minh, phong lưu mã thượng, tư chất hơn người thường cùng chúa bàn luận quốc sự. Mùa xuân năm Canh Thìn 1760. Một buổi chiều chúa đang ở điện Trường Lạc nhận hung tin Phúc Hiệu đột ngột từ trần. Chúa thất sắc hãi kinh, đau đớn cảnh chia lìa phụ tử, thương con đầu xanh mệnh bạc mới hai mươi mốt tuổi đầu. Chúa đem con của Hiệu là Phúc Dương (Hoàng Tôn Dương) vào cung cho nguyên phi dưỡng dục.
Sau cái chết của Phúc Hiệu, chúa ưu tư lặng lẽ thích sống một mình, chiều chiều ngồi nơi hậu hiên uống rượu hết chung này đến chung khác. Chẳng bao lâu hình dung tiều tụy, mới ngoài bốn mươi mà tóc đã pha sương. Chúa vẩn vơ nghĩ Phúc Hiệu mất có thể do mình đã trái mệnh trời, bỏ trưởng lập thứ. Chúa quyết định chọn con trưởng Nguyễn Phúc Chương kế vị dù Chương hiền lành chậm chạp, không hợp ý chúa. Ba năm sau, năm Quý Mùi 1763. Những ngày đầu xuân, đô thành Phú Xuân vang tiếng pháo mừng xuân mới, trai thanh gái lịch nhởn nhơ du xuân ngoạn cảnh. Trong nội cung, đám thái giám cung nữ được tự do vui xuân, tụ tập bày cuộc đỏ đen, say sưa chè chén. Chúa cởi mở nhìn mọi người vui chơi cũng thấy vui lây. Niềm vui của chúa chẳng được bao lâu bởi ngay chiều ấy, công tử Nguyễn Phúc Chương đang khỏe mạnh bỗng chết bất ngờ mới ba mươi tuổi ngoài… Triều thần nhiều người ngờ vực, nghi ngại. Các trò vui xuân ở đô thành khựng lại, chẳng ai dám đùa với nỗi đau của nhà chúa. Nội cung tang tóc thảm sầu, nguyên phi ngày đêm vật vã khóc than thương con mệnh bạc. Chúa lòng như xát muối, thẫn thờ ngơ ngác. Chúa tin lời đồng bóng, ăn chay nằm đất, lập đàn giải oan nghiệp, đặt lệ gọi các công tử là mụ hay mệ tránh họa hữu sinh vô dưỡng. Phần mộ Phúc Chương được trấn yểm trừ tà. Chúa tạm yên tâm.
Trước bảy ngày cử hành tuần Chung Thất (49 ngày sau khi từ trần), đưa hương hồn Phúc Chương vào chùa quy y, nương náu cửa Phật. Chúa truyền lập đạo tràng, thỉnh Ðại Lão Hòa Thượng chùa Báo Quốc và chư tăng luân phiên tụng niệm. Chúa chọn chùa Báo Quốc bởi cảnh chùa do chính chúa truyền trùng tu bề thế, ban biển sơn son thiếp vàng khắc năm chữ “Sắc Tứ Báo Quốc Tự” lại ghi thêm hàng chữ “Quốc Vương Từ Tế Ðạo Nhân Ngự Ðề”. Từ Tế đạo nhân là pháp danh của chúa.
Từ đấy chúa thường ăn chay niệm phật, sáng sớm thức giấc tĩnh tọa nhập thiền, cảm thấy thân tâm an lạc thư thái. Nhiều hôm chúa lên chùa thăm lão sư. Chùa tọa lạc trên đồi Hàm Thiên phong cảnh hữu tình, trời mây bát ngát. Chúa đắm chìm trong chốn tĩnh lặng ngắm hoa nở ban mai, ngàn chim ríu rít, nghe hơi gió thoảng, mảnh trăng lung linh trên đỉnh trời lồng lộng. Có lần mời lão sư thưởng trà trong trai phòng, chúa nói:
-Ta trót sinh trong chốn lầu son gác tía, vương nghiệp trần nên chuốc phiền não. Nay muốn tìm chốn chân như, thoát cõi u minh oan nghiệp ngập đầy, những mong lão sư đôi lời chỉ giáo.
-Bần tăng xuất gia từ tấm bé. Ðến nay ngoại bảy chục tuổi đời đã có sáu mươi tuổi hạ (tuổi tu hành). Trải bao năm sống nơi u tịch, đã quen khổ hạnh, sống giản dị ngày ngày kinh kệ như xa hẳn cõi trần đầy rẫy sân si, thoát chước cám dỗ. Bước đường tu đạo ít trắc trở hơn những người nơi chốn phồn hoa đô hội. Chúa thượng nhận mệnh trời trị trăm họ, sự thế phức tạp đa đoan, dùng cái thông tuệ mang lại trăm họ an lạc vui sướng, vui với cái vui của người. Ấy là tâm phật. Bến giác ngay ở cái tâm nào phải cất công tìm kiếm. Tu tại gia là cái tu cao nhất, sá chi ở chùa mới là cõi tu? Sách có câu”Nhất thiết thế gian pháp, vô phi Phật pháp”. Các pháp trong cõi thế đều là Phật pháp, tại ta không liễu ngộ, nên cho là không phải.
Chúa nghe sảng khoái trong lòng, trở về triều làm cuộc đổi đời, sống giản dị, tránh xa hoa sắc dục. Tính chuyện mai sau, chúa chọn công tử thứ hai Nguyễn Phúc Luân là người kế vị (Phúc Luân là thân phụ Phúc Ánh, tức vua Gia Long sau này). Chúa đắn đo chọn người phụ trách dạy dỗ Phúc Luân xứng giữ ngôi báu. Nội Hữu Trương Văn Hạnh và Thị Giảng Lê Cao Kỷ, hai viên quan đức độ tài năng xuất thân từ viện Hàn Lâm được giao trọng trách. Phúc Loan lo lắng bởi muốn dành ngôi vương cho Phúc Thuần, con của Ngọc Cầu. Loan bàn với Chưởng Cơ Nguyễn Cửu Thống, người rất thân tín, cũng là con rể của chúa. Thống nói:“Tướng công chớ lo, trước tiên phải bành trướng thế lực. Khi đã nắm toàn quyền trong tay, ta tha hồ đặt để người kế vị. Kẻ chống đối sẽ bị tiêu diệt”. Phúc Loan cho là phải, ra sức củng cố thế lực, dùng tiền bạc chức tước kết nạp tay chân thủ hạ. Chúa thường xuyên đau yếu, lại thấy việc nước yên ổn nên an tâm, không hề biết mình đang nuôi ong tay áo…
Ðầu hạ năm Ất Dậu 1765, dân đô thành xôn xao bàn tán điềm bất tường. Ngày ngày, hàng đàn ve không biết từ đâu về. Ve bu đen trên hàng phượng vĩ ven đường, trên các tàng cây trong vườn. Tiếng ve kêu bi ai rền rĩ, từ xế trưa đến lúc mặt trời khuất bóng. Trong Hậu Uyển, ve nhiều đến độ lính cấm vệ phải dùng sào dài xua đuổi. Người ta bảo ve khóc, nhưng cớ gì ve lại khóc than? Thời gian ấy chúa ngã bệnh. Bốn ngự y thay phiên hầu hạ bên giường. Bệnh tiến triển chậm, thuốc thang chẳng bớt. Phúc Loan thường xuyên đến vấn an. Chúa ân cần phủ dụ, nói mai sau chúa về chầu liệt thánh, quan Phụ Chính vì nước gắng sức khuông phù tân chúa. Phúc Loan khóc lạy thề tận trung.
Chúa trở bệnh ngày càng trầm trọng, lúc tỉnh lúc mê, không nói được. Ngày ngày chỉ uống nước sâm pha cháo lỏng. Phúc Loan hỏi các ngự y. Ngự y buồn bã nói tính mệnh chúa mười phần nguy kịch, khó qua nổi mùa trăng. Ðã có chủ trương, Phúc Loan lệnh các ngự y rời hậu cung chỉ đến khi được phép Phụ Chính. Lấy cớ chúa cần tĩnh dưỡng, Loan cấm chỉ mọi người thăm viếng kể cả nguyên phi và vương tộc. Chỉ Phúc Loan và Chữ Ðức được quyền tự tiện ra vào hậu cung. Chưởng Cơ Nguyễn Cửu Thống chỉ huy hàng ngàn cấm vệ canh gác hậu cung nghiêm nhặt. Có lần nguyên phi dẫn Phúc Luân xin vào thăm chúa, Thống quyết cản ngăn đành gạt lệ ra về.
Những ngày đầu tháng năm, Phúc Loan biết chúa sắp thở hơi cuối cùng, mật bàn với Cửu Thống và Chữ Ðức bắt đầu thực hiện mưu đồ. Một người học trò giỏi bắt chước nét chữ ở gần chợ An Cựu được Chữ Ðức thuê thực hiện việc giả nét chữ chúa để viết lại di chiếu. Toàn văn bản giữ nguyên, chỉ thay tên người kế vị, từ Phúc Luân thành Phúc Thuần. Viết xong, người học trò được Chữ Ðức thưởng hậu mừng rỡ lạy tạ ra về. Y không về được đến nhà bởi khi qua đò sông Hương bị chết đuối…
Sáng sớm ngày mồng bảy, chúa từ trần không trăn trối, ra đi đơn độc không vợ con thân tộc bên giường trừ Phúc Loan và Chữ Ðức. Phúc Loan gặp Cửu Thống xúc tiến tiếp kế hoạch. Thống sai bộ hạ đến nhà Nội Hữu Trương Văn Hạnh mời vào Dĩ Nhiên đường bàn chuyện cơ mật. Văn Hạnh đã biết chúa lâm trọng bệnh, nay được gọi đoán có chuyện chẳng lành tất tả vào cung. Gặp Cửu Thống đón ngay cửa, Thống dẫn Hạnh đi qua hành lang nhỏ hẹp tăm tối. Ðang đi cùng, Thống bỗng lùi ra sau, ánh thép lóe lên, Nội Hữu Trương Văn Hạnh bị lưỡi gươm đâm từ sau lưng ra trước ngực chết tức khắc. Thống vào gặp Loan nói đã tính xong Văn Hạnh, hẹn đến tối sẽ thanh toán nốt Thị Giảng Lê Cao Kỷ. Loan hỏi sao phải chờ đến tối, Thống đáp Cao Kỷ hiện đang tĩnh dưỡng trong căn nhà vắng vẻ ở ngoại thành, chỉ cần dăm người đủ hạ thủ, hành động ban đêm thuận tiện kín đáo, khỏi gây kinh động. Cùng lúc ấy, Chữ Ðức nhận lệnh Phúc Loan dẫn hơn trăm quân đến làng Dương Xuân mời công tử Phúc Luân vào cung gặp chúa thượng. Loan nói:“Ngươi cứ làm như rất bình thường đến mời hắn. Khi tống giam vào ngục thất, nhớ để ở khu biệt lập, tuyệt đối cấm tiếp xúc. Kẻ nào vi phạm chém ngay”. Nội ngày ấy mọi việc hoàn thành. Sáng sớm hôm sau, Phúc Loan báo tin vương tộc và triều đình chúa đã băng hồi sáng sớm, ở ngôi 27 năm, thọ 51 tuổi.
Tin chúa băng xảy ra cùng lúc với vụ mưu toan phản nghịch. Triều thần hoang mang kinh ngạc bởi kẻ chủ mưu lại là công tử Nguyễn Phúc Luân, người con thứ hai của chúa, người mà triều thần nghĩ sẽ kế vị ngôi báu. Vài ngày sau, công tử thứ mười sáu Nguyễn Phúc Thuần nhận di mệnh làm chúa Ðàng trong. Chúa mới mười hai tuổi, kết quả mối tình loạn luân giữa phụ vương và phu nhân Ngọc Cầu. Lễ đăng quang cử hành trọng thể đúng lễ nghi trong không khí u ám nặng nề. Tân chúa giảm thuế, đại xá thiên hạ. Ngay hôm sau, Bộ Hình đăng bố cáo:“… Lợi dụng lúc chúa thượng hấp hối, nghịch tử Nguyễn Phúc Luân cùng bọn nghịch thần Trương Văn Hạnh, Lê Cao Kỷ âm mưu làm chuyện thoán nghịch quyết đoạt ngôi báu. Thiên bất dung gian, chúng chưa kịp thi hành thủ đoạn đã bị quan Phụ Chính phát giác đập tan. Bọn nghịch tặc đứa bị kiên giam, đứa đã đền tội…”. Triều thần ngờ vực nhưng giữ thái độ yên lặng bởi phe cánh Phúc Loan đã nắm binh quyền.
Phúc Thuần xưng là Ðịnh Vương, giữ truyền thống liệt thánh sùng đạo Phật nên lấy pháp danh Khánh Phủ đạo nhân. Chức tước Phúc Loan bây giờ rất dài, có nghĩa quyền lực bao trùm trong triều ngoài cõi: Quốc Phó, Quản Tượng Cơ kiêm Tào Vụ. Hai người anh của phu nhân Ngọc Cầu, Phúc Viên được phong chức Chưởng Thủy Cơ, Phúc Nghiễm trở thành Nội Hữu, Chưởng Dinh, quản Bộ Lại và Bộ Binh, lãnh Tả phủ chưởng phủ sự dinh Quảng Nam. Vận mệnh xứ Ðàng trong một tay Phúc Loan định đoạt, tha hồ làm mưa làm gió vơ vét tiền của… Tham lam nhưng khôn ngoan, Loan tìm cách lấy lòng cả những người chống đối bằng cách cho thủ hạ đến biếu xén quà cáp trám miệng. Việc triều chính vì thế tạm yên. Vị chúa trẻ chỉ thích nghe đàn ca hát xướng, lại được Chữ Ðức dạy đủ món ăn chơi kiểu người lớn nên suy yếu bạc nhược…
***
Chúa Võ Vương mất ngày mồng bảy. Khoảng mười ngày sau tại trấn Hà Tiên, Tham Mưu Nguyễn Cư Trinh mới nhận hung tin. Sáng hôm ấy Trinh đang ngồi bên án thư chọn lựa câu chữ họa bài thơ “Giang Thành dạ cô” (tiếng trống ban đêm ở Giang Thành) của Tổng Trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ vừa gửi tặng hôm trước. Trinh bồi hồi xúc cảm buông bút, bỏ dở câu kết bài thơ đang lạc vận, thẫn thờ bước ra hiên sau ngồi uống trà một mình… Ngẫm cuộc đời ngắn ngủi như bóng câu thoáng qua cửa sổ. Cư Trinh nhẩm tính từ ngày xa Phú Xuân thoắt gần mười lăm năm, cũng là thời gian Trinh xa cách chúa. Nghĩ tình chúa hậu đãi, Trinh ngậm ngùi cảm cái thâm tình. Bên ngoài là nghĩa chúa tôi nhưng bên trong thân như bằng hữu. Khi chúa còn là thế tử, người anh con chú bác với Trinh là Nguyễn Ðăng Thịnh làm Thị Giảng (thày dạy học thế tử). Thịnh đĩnh đạc, chữ tốt văn hay nổi danh khắp cõi. Cư Trinh đỗ Hương Cống được bổ tri phủ, văn tài chẳng nhường người anh. Chúa quý trọng Trinh vừa giỏi văn chương, cũng là người khẳng khái mưu lược giỏi cai trị, thường mời đàm đạo cả ngày không chán. Chúa ví mình với Trinh chẳng khác chúa Sãi với quân sư Ðào Duy Từ thuở xưa. Khi chúa lên ngôi, Trinh được sung vào viện Hàn Lâm, một tay soạn thảo điển chương từ lệnh. Chuyện loạn luân giữa chúa và Ngọc Cầu làm nhiều người chán nản bất mãn. Trinh bàn với Ðăng Thịnh:“Thày Quản Tử thường dạy học trò. Nước có bốn giềng là lễ nghĩa liêm sỉ. Ðứt một tất nghiêng, đứt hai tất nguy, đứt ba tất đổ, đứt bốn tất diệt. Anh từng là thày dạy chúa, nay xảy ra cớ sự chẳng lẽ ngồi yên?” Ðăng Thịnh thủng thỉnh:“Chú tưởng tôi vô tình chăng? Bao đêm trăn trở, cuối cùng nghĩ nên lặng thinh do biết tính chúa cương quyết, đã muốn là phải được. Vả lại nay ván đóng thuyền, can gián ích chi. Chuyện nhà người khó nói, ngay cả vương tộc còn lặng thinh nữa là mình. Miễn làm sao quốc sự trôi chảy, bốn cõi ấm no là đủ”. Cư Trinh lặng chẳng nói nhưng lòng không vui. Vua chẳng hiền tất gần xu nịnh mà xa người tài, kiếm đâu ra hào kiệt giúp nước… Nhân ở Quảng Ngãi người Mọi Ðá Vách nổi loạn, Trinh xin chúa đem quân bình định, cũng là cách xa chốn đô thành tránh nhìn sự thế.
Nguyễn Cư Trinh cùng đám gia tướng đi thuyền từ Phú Xuân vào cửa Hàn, theo đường bộ vào Quảng Ngãi. Vùng đất từ cửa Hàn vào Hội An dân tương đối sống sung túc, nhưng càng về phía nam dân sống thưa thớt nghèo khổ, khác hẳn với Phú Xuân giàu có xa hoa. Giới quan lại nhà cao cửa rộng, chạm trổ điêu khắc cầu kỳ khoe sang giàu. Ngay thứ dân cũng ăn mặc chải chuốt dùng toàn tơ lụa mua từ các thuyền buôn của người Tàu, người Nhật. Trong khi đa phần dân Quảng thiếu cơm ăn áo mặc. Sự cách biệt giàu nghèo quá đáng, xã hội nhiều bất công tất dân không thể có cuộc sống thái hòa. Trinh nghĩ nếu cứ tin vào báo cáo của các dinh về tình trạng xã hội sẽ rất nhiều sai lạc, làm láo báo cáo hay. Ðến Quảng Ngãi, bước vào công đường, Trinh thấy hàng ngàn thanh niên tuổi khoảng 16 trở lên ngồi từng hàng mười người, cổ bị xiềng trong gông tre dài tựa cái thang. Trinh hỏi viên đội trưởng. Ðội trưởng trả lời đó là đám thanh niên mới bị bắt đem về sung quân. Lại hỏi sung quân sao gọi bị bắt, bị xiềng từng xâu như thế. Ðội trưởng bảo không làm vậy dân sẽ trốn, rất ít người tình nguyện sung quân, sợ bị điều đi đánh Mọi Ðá Vách. Trinh ngán ngẩm truyền tháo cùm, chỉ định nơi ăn chốn ở cho tân binh, giải thích nhiệm vụ của binh lính là bảo vệ cho dân yên sống chăm lo sản xuất giúp nước an ninh giàu mạnh. Ngay hôm sau Trinh lệnh các võ quan bắt đầu cho luyện binh, Trinh nhận ra số đông quan lại tắc trách, ngại khổ ngại khó, tinh thần bạc nhược…. Sau hàng tháng tổ chức chấn chỉnh đội ngũ, Trinh dành thời gian thăm dân, Trinh nhận ra do tổ chức hành chính thiếu lương hảo tạo ra tình trạng tồi tệ, nếu thế giặc mạnh làm sao đánh dẹp? Trinh quyết định dâng biểu văn lên chúa yêu cầu chấn chỉnh việc cai trị bởi dân là gốc nước, gốc không vững tất nước không yên. Xã hội bất công lòng người ly tán, dân không có việc nghèo khổ khó khăn. Hằng sản không có thì hằng tâm cũng không giữ được. Cách tổ chức cai trị không hợp lý, quan lại viên chức ưa việc áp bức hơn giúp dân, giỏi quấy nhiễu hơn phục vụ nên dân oán thán giao động trở thành bất trị mà gây loạn… Biểu văn gửi đi nhưng chẳng thấy chúa có ý kiến gì. Trinh đoán có lẽ Phụ Chính Trương Phúc Loan ém đi chăng? Cuối cùng Trinh dẹp yên loạn lạc. Năm Quí Dậu 1753 nước Chân Lạp lại biến loạn, chúa lại cử Trinh làm Tham Mưu cầm binh sang đánh dẹp.
Nước Chân Lạp gồm Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp. Người Miên (tên người Việt gọi người Chân Lạp) hiền lành, sùng đạo Phật làm chủ một vùng đất rộng lớn phì nhiêu. Lẽ ra Chân Lạp phải giàu mạnh nhưng hoàng tộc chia rẽ. Những cuộc tranh dành ngôi vương bá liên tục làm xã hội rối loạn nên suy yếu dần. Các thế lực tranh cướp khi cầu người Xiêm, khi lụy người Việt. Lãnh thổ Chân Lạp cứ thế co dần. Nguyễn Cư Trinh vào nam, chỉ sau vài năm bình định, toàn vùng Thủy Chân Lạp đã lọt vào tay người Việt. Lãnh thổ xứ Ðàng trong rộng lớn kéo dài từ Nam Bố Chính đến mũi Cà Mau. Cư Trinh chọn trấn Hà Tiên đóng quân, giao du thân tình với Tổng Trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ, con người hào hiệp lại giỏi thi phú. Tứ là con Tổng Binh Mạc Cửu.
Mạc Cửu người phủ Lôi Châu tỉnh Quảng Ðông là thương gia giàu có, làm chủ đội thương thuyền buôn bán với nước ngoài. Cửu mưu đồ phản Thanh phục Minh nhưng mộng lớn không thành, đành đem gia quyến trốn sang Chân Lạp, được vua Chân Lạp phong quan tước. Nhận thấy tình hình Chân Lạp thường xuyên rối loạn, Cửu đem quân trấn tỉnh Màng Khảm. Nơi đây thương mại phát triển, nhiều tàu buôn nước ngoài thường đến giao thương. Cửu mở sòng bài lấy xâu, khuếch trương thương mại trở nên giàu có thế lực. Ðám lưu dân nhiều nơi đến cư ngụ, kẻ buôn bán, người canh tác đất đai… Thấy Màng Khảm phong cảnh hữu tình, lại nghe dân đồn vùng sông biển thường có người tiên xuống tắm, Mạc Cửu đặt tên vùng này là Hà Tiên. Năm Mậu Tý 1708, Mạc Cửu ra Chính Dinh yết kiến chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu xin nộp cống xưng thần. Thấy Cửu tướng mạo khôi vĩ, cung kính lễ độ. Chúa hài lòng phong chức Tổng Binh. Năm Bính Thìn 1736 Cửu mất. Chúa Ninh Vương cho Mạc Thiên Tứ nối nghiệp cha trấn giữ Hà Tiên.
Thiên Tứ thông minh mẫn tiệp, làu thông kinh sử. Nối nghiệp phụ thân, Tứ tiếp tục phát triển Hà Tiên. Nhận thấy thành phần cư dân phức tạp gồm cả người Việt, người Tàu, người Chiêm, người Miên… Ða phần tính khí nhẹ nhõm, hào phóng lại chuộng xa hoa, hủ tục mê tín còn nhiều. Thiên Tứ chăm lo mở mang dân trí, mở trường mời thày về dạy chữ nho. Tứ họp các tay văn nhân tài tử lập Chiêu Anh Các, thường gặp gỡ xướng họa hoàn thành nhiều thi tập giá trị lưu truyền hậu thế. Khi gặp Nguyễn Cư Trinh, Tứ tâm đầu ý hợp kết bạn tâm giao. Khi chén rượu, khi cuộc cờ… Cả hai thường dạo khắp vùng tìm nơi danh lam thắng cảnh đề thơ xướng họa. Nào là “Bình Sơn điệp thúy” ca tụng vẻ đẹp vùng núi Bình với những con suối xanh trong chảy ra Ðông Hồ, rồi “Lộc Trĩ thôn cư” tả cảnh làng quê êm đềm trên gò Lộc Trĩ. Có hôm từ sáng tinh mơ, hai người bạn tâm giao đến ngọn Ðại Tượng đắm hồn trong tiếng chuông chùa buổi sớm, hoặc đến bãi Nam Hải nhìn những ngọn sóng bạc đầu lũ lượt nhấp nhô… Ðang miên man suy nghĩ chợt Thiên Tứ bước vào. Tứ hỏi:
-Ông hay tin chúa thượng từ trần?
Cư Trinh không đáp khẽ gật đầu. Tứ tiếp:
-Tôi vừa thiết lập hương án, chờ ông đến lễ luôn thể.
Trinh uể oải:
-Chờ đến mai chẳng muộn. Trước khi cử lễ ta nên loan báo tin buồn đến tướng sĩ ba quân, cũng là dịp tôi tạ cái ân tình với người khuất núi.
Trinh đứng dậy pha ấm trà mới. Tứ lặng yên giây lâu, hỏi:
-Chúa thượng mất, mệnh trời sẽ chọn ai trao ngôi minh chúa phương nam?
-Sao ông nói thế, triều thần ai chẳng biết chúa thượng có ý truyền ngôi báu cho công tử Phúc Luân, từng cử Cao Kỷ và Văn Hạnh làm Thị Giảng…
Tứ lắc đầu:
-Tôi cũng nghĩ như ông, nhưng mệnh trời chẳng muốn thế. Người lên ngôi báu lại là công tử thứ mười sáu Nguyễn Phúc Thuần. Ngài lên ngôi xưng là Ðịnh Vương. Quan Phụ Chính được phong Quốc Phó. Tôi vừa nhận tin vội báo ông hay.
Trinh thất sắc, cầm tách trà run tay vội đặt xuống bàn:
-Ôi sao lại có thể như thế? Việc xảy ra chắc chắn do bàn tay Phụ Chính Trương Phúc Loan tác động, bởi tôi nghe chúa thượng đau ốm liệt giường vài tháng mới mất. Ông hẳn biết tân chúa là con phu nhân Ngọc Cầu, lại non nớt mới mười hai tuổi đầu… Xưa nay xứ Ðàng trong làm gì có chức Quốc Phó, Phúc Loan chuyên quyền làm bậy… Loạn đến nơi rồi!
-Ông dám cả quyết?
-Phúc Loan tham lam vô độ, lưng mềm lưỡi dẻo, lại là cậu ruột nên chúa tin dùng. Hắn ra tay tụ bè kết đảng, ngay hai tên vô lại Phúc Nghiễm và Phúc Viên, anh ruột phu nhân Ngọc Cầu được chúa thượng phong chức lớn, tôi biết ngay mối loạn ở Phú Xuân đều do Phúc Loan gây ra.
Trinh ngừng, những giọt nắng đầu ngày lung linh trên mấy đóa hồng nhung tàn úa xác xơ. Trinh tiếp:
-Tôi nghĩ nay mai ta sẽ nhận thêm nhiều tin xấu. Bọn Chân Lạp thân Xiêm La không biết chừng lại nhân cơ hội dấy loạn…
Thiên Tứ thở dài, ưu tư nhìn ra khoảng không. Nắng lên cao dần…
Cư Trinh tiên đoán đúng, vài ngày sau có tin Phúc Luân âm mưu nổi loạn bị hạ ngục. Lê Cao Kỷ và Trương Văn Hạnh bị giết. Cả Trinh lẫn Tứ hoang mang ngồi đứng chẳng yên. Gần năm sau, Trinh nhận được lệnh hồi triều, bồn chồn lo lắng hỏi Tứ. Tứ đáp:
-Tôi đã nghĩ chuyện này từ lâu, Phúc Loan muốn tóm thâu quyền bính, dùng người thân tín cầm binh nơi xa. Hắn biết ông cương trực khó thuyết phục nên e ngại lệnh cho ông hồi triều, cũng là cách đoạt binh quyền, chặt chân tay vây cánh của ông. Tôi tin hắn chẳng dám hại ông vì ông có uy tín. Ông về Phú Xuân tùy cơ ứng biến bảo vệ lấy thân mình.
Buổi chia tay ngậm ngùi lưu luyến, Tứ tiễn chân bạn mấy dặm đường mới trở về…
Cư Trinh về đến Phú Xuân triều yết chúa Ðịnh Vương, chúa hỏi dăm ba câu sơ sài rồi bước vào hậu cung. Quốc Phó Phúc Loan nói:
-Bấy lâu ông vất vả cực nhọc chốn biên trấn xa xôi, triều đình chẳng bao giờ quên công lao bậc huân thần nên triệu ông về đô thành gia phong thêm chức tước mục đích tưởng thưởng, cũng là cách tạo điều kiện cho ông hưởng chút an nhàn lúc tuổi xế chiều.
Trinh hờ hững vái tạ, nói kẻ trung thần suốt đời tận tụy bởi hưởng ân chúa lộc nước nào quản chi thân. Ngay hôm sau, Trinh nhận việc ở bộ lại, suốt ngày bận bịu giấy tờ sổ sách, mãi khi trời sẫm tối mới trở về tư thất ở ngoại thành. Ðang định dùng bữa chiều, gia nhân vào báo có quan Hàn Lâm Nguyễn Quang Tiền đến viếng. Tiền là tay văn chương cự phách ở Phú Xuân rất được chúa Võ Vương trọng dụng. Chúa thường sai Quang Tiền làm những bài thơ đề vịnh tại cung điện, danh lam thắng cảnh, văn thư thù ứng với các nước lân bang… Ðến khi chúa sai soạn thảo thư gửi quan tỉnh Phúc Kiến xưng là An Nam Quốc Vương, Tiền quyết không soạn, cho xưng hô như vậy là trái lẽ bị chúa cách chức. Tiền không hề trách móc than vãn, trở về đời sống thứ dân an bần lạc đạo, làm thơ ngâm vịnh, dạy dăm ba học trò sống qua ngày. Khi chúa Võờ Vương mất, chúa Ðịnh Vương lại phục chức cho làm ở Viện Hàn Lâm.
Nghe Quang Tiền đến, Cư Trinh không kịp xỏ dép vội chạy ra cổng đón cố nhân. Ðôi bạn già tóc hoa râm òa vở niềm vui, tay bắt mặt mừng bước vào nhà. Trinh sai gia nhân làm gà đãi khách. Cả hai ngồi trên chiếc phản gụ chuyện vãn. Trinh nói:
-Xa ông thấm thoát đã mười lăm năm. Tuy xa mà lòng vẫn nhớ vẫn gần, vẫn thường hỏi thăm tin tức mỗi khi gặp khách Phú Xuân. Biết ông hoạn lộ gian truân, lòng già ái ngại. Tôi mới về công việc đa đoan chưa gặp ông, nào ngờ ông nhanh chân đến trước.
-Cái tình bằng hữu là thế, còn hơn phu thê đầu gối tay ấp, kề cận đêm ngày. Mừng ông an khang sau bao năm tháng trấn giữ biên trấn. Tuổi ta gần đất xa trời, lại nhìn thấy nhau là quý, còn mong chi hơn.
Hai chung rượu vừa vơi lại đầy, gia nhân mang đồ nhắm, khoanh tay đứng hầu. Trinh khoát tay ra hiệu cho lui. Quang Tiền hỏi:
-Xa Phú Xuân lâu, ông về thấy có chi lạ?
-Cái lạ thì nhiều, lạ đường lạ phố, lạ cảnh lạ người. Chính tôi cũng là người lạ giữa Phú Xuân đô hội phồn hoa. Nhớ ngày chia tay ở cửa Eo (Thuận An), hai ta tóc vẫn xanh, nay tôi pha sương mà ông bạc trắng…
Một thoáng yên lặng ngậm ngùi, khuôn mặt Trinh đăm chiêu xa vắng. Cuộc đời như giòng sông chảy mãi chẳng ngừng. Tiền nâng chung rượu uống cạn, bỗng cảm hứng ngâm mấy câu thơ Ðặng Dung:… Thế sự du du nại lão hà. Vô cùng thiên địa nhập hàm ca… Trăng lấp ló sau rặng tre, gió nhẹ lung lay khóm trúc đầu hè. Trinh lên tiếng:
-Sao ông bỏ không ngâm hai câu tiếp. Ha ha! Thời lai đồ điếu thành công dị. Vận khứ anh hùng ẩm hận đa… Xứ Ðàng trong bấy lâu đâu có chức Quốc Phó. Nay chúa thượng bỗng phong Phúc Loan chức ấy. Chúa non trẻ, ông ở Viện Hàn Lâm hẳn rõ việc này ai chủ trương?
-Chẳng ai chủ trương, chính Phúc Loan tự phong.
Trinh hằn học:
-Vậy các đại thần và vương tộc đâu cả rồi?
-Các đại thần bị hắn dùng bổng lộc chức tước mua chuộc trám họng. Còn vương tộc cũng ươn hèn, giá áo túi cơm. Ngay khi Phúc Luân bị tống ngục vu cho làm phản nào ai dám lên tiếng? Sau này hắn lại cho hai con trai mình là Phúc Thặng và Phúc Nhạc cưới các công nữ Ngọc Nguyện và Ngọc Ðảo (con chúa Vũ Vương). Tay chân thủ hạ hắn nắm hết quyền hành trong triều ngoài cõi. Thế lực như vậy ai dám hó hé.
-Tôi nghe tư dinh của hắn ở Phấn Dương, vàng bạc châu báu chứa đầy hầm. Cách nào hắn giàu đến thế?
-Tất cả nguồn lợi trên rừng dưới biển vùng Thuận Quảng do hắn và thủ hạ tóm thu. Công quỹ chỉ còn được đôi phần. Thôi mới tái ngộ, ta nên bỏ qua chuyện đó, thế sự du du nại lão hà… Mười mấy năm qua, cái kho thi văn của ông chắc chẳng nghèo?
-May tôi còn được thú vui ấy. Cũng là chút gì để lại con cháu mai sau. Ở Hà Tiên tôi với Mạc Thiên Tứ thường nhàn du đề thi ngâm vịnh, lại có thêm Ðạm Am văn tập. Ðạm Am là biệt hiệu của tôi từ thuở bước vào quan trường.
Ðôi bạn ngâm nga xướng họa, như muốn mượn rượu lãng quên đời. Ðêm khuya, trăng cao trên đỉnh trời, ánh trăng mờ ảo sương khói. Quang Tiền giã bạn ra về bởi sáng mai chúa thiết triều sớm…
Sáng hôm sau, khoảng cuối giờ dần bá quan đã tề tựu đông đủ chờ chúa thiết triều. Ðến đầu giờ mão, văn võ hai hàng nghiêm chỉnh nhưng chờ mãi chẳng thấy chúa. Quốc Phó Phúc Loan cũng chẳng thấy đâu. Có người hỏi quan Lễ Bộ tại sao. Quan khẽ lắc đầu. Chờ lâu chán nản, bá quan tự động tản hàng tụ tập chuyện vãn. Trong lúc nhốn nháo, thái giám Chữ Ðức từ hậu cung bước ra chính điện dõng dạc như ra lệnh:“Chúa thượng se mình không thiết triều, ngài Quốc Phó đang đợi bá quan đến tư dinh Phấn Dương bàn chuyện triều chính”. Chữ Ðức nói xong bước vào hậu cung. Cư Trinh ngao ngán nhìn Quang Tiền:“Quốc sự phải bàn ở triều đường, cớ chi phải đến dinh Quốc Phó. Tôi quyết không đến”. Quang Tiền gật đầu tán thành. Thấy trời còn sớm, Cư Trinh ngỏ ý rủ bạn dạo chơi phố chợ. Quang Tiền bằng lòng, cả hai rời triều đường lên ngựa đi về phía chợ Dinh.
Sáng sớm phố thị đã đông đảo người qua lại. Ðường cái lớn ở giữa, hai bên nhà ngói san sát, bóng cả cây cao, phố nọ tiếp phố kia, trên bến dưới thuyền ngang dọc như mắc cửi. Ðến gần chợ Dinh, hai người ngạc nhiên khi thấy bộ hành bỗng dưng dạt hết vào ven đường. Một toán lính cấp trăm người do hai viên đội trưởng cỡi ngựa đi đầu. Hai bên có vài tên lính cầm roi hò hét dẹp đường dáng điệu hung dữ. Hai người kìm ngựa đứng giữa đường xem sự thể. Hai viên đội trưởng tới gần thấy Cư Trinh vội xuống ngựa vái chào. Cư Trinh nhìn đám lính thấy tên nào cũng còn trẻ, to lớn vạm vỡ, hất hàm hỏi:
-Tụi bay là lính ở đâu?
Viên đội trưởng lễ phép:
-Bẩm quan, chúng tôi là lính dinh Phấn Dương, thuộc toán hỏa đầu quân.
Trinh cười:
-Hóa ra tụi bay là lính nấu bếp hèn chi đứa nào cũng to béo. Lính trẻ khỏe nên cho đi giữ biên trấn, nhà bếp lẽ ra nên dành cho đám lính già.
Trông thấy đám lính tên nào cũng gánh gồng, Trinh biết tụi này đi chợ sớm:
-Tụi bay đi chợ, nào phải đi ăn cướp, cớ chi gây náo loạn phố xá, phiền nhiễu đến dân. Nhớ chấn chỉnh, lần sau bắt gặp ta chẳng dung đâu.
Nói xong Trinh dục ngựa tiến bước, không kịp nhìn thấy nụ cười khinh mạn thách thức của viên đội trưởng. Trinh nói với Tiền:
-Phúc Loan lộng hành coi khinh phép nước, chẳng lẽ ai cũng ngậm tăm. Yên lặng là nuôi dưỡng gian hùng, tôi sẽ có thái độ, quyết không chịu nhục mất phẩm giá kẻ sĩ.
Nghe bạn nói, Quang Tiền lặng yên, khẽ thở dài, thâm tâm rất lo ngại vì biết Trinh cương trực, đã nói là làm. Ngược lại Phúc Loan độc ác nham hiểm tất không chịu nhịn. Kẻ cầm quyền trong tay nào sợ chi ai?
Ðêm ấy về nhà, Trinh trằn trọc. Nếu không ngăn chận, sẽ có ngày cơ nghiệp chúa Nguyễn tan tành, xứ Ðàng trong đổi chủ. Giòng họ mình bao đời phù chúa lẽ nào khoanh tay nhìn vận nước suy vong. Hàng tháng trôi qua, Trinh còn biết thêm chúa bị bất lực, không gần được đàn bà. Bọn thái giám nghĩ ra cách bắt những tên lính khỏe mạnh giao hợp với cung nữ cho chúa xem. Chúa mê mẩn thích chí đòi nạp thê (cưới vợ). Chúa lại mê xem tuồng tích hát xướng chẳng hề để ý việc nước, giao toàn quyền định đoạt việc trong ngoài cho Quốc Phó. Cư Trinh quyết định dâng biểu văn trao tận tay chúa. Biểu viết:“… Dân là gốc nước. Dân không yên tất sinh biến. Bấy lâu thần thấy ngoài dân thóc cao gạo kém, phần do nhà giàu thu thóc không chịu bán ra vì đồng tiền mất giá, phần năm qua mất mùa, nếu không cứu nguy, cảnh chết đói tất sẽ diễn ra. Ngay đô thành là chốn phồn hoa nay xuất hiện nhiều hành khất. Ðã thế, đám quan lại ở các nơi xa nhiều người quen thói ức hiếp dân lành, chưa kể sưu cao thuế nặng. Chỉ hơn năm xảy biết bao điềm kinh dị. Quảng Nam động đất, núi lở rồi mưa lũ gây chết người. Qui Nhơn sâu rọm bò đen đường phố phải dùng lửa đốt, sâu vàng phá hoại mùa màng. Tháng trước ngay tại Hải Vân Sơn sao sa phát nổ đỏ rực trời ai nấy kinh hãi… Thuở tiên vương (chỉ Võ Vương) sinh tiền, mỗi khi thấy điềm lạ lại ăn chay niệm phật cầu quốc thái dân an, vỗ về trăm họ, xét lại chính sách có chi khiếm khuyết. Thần nhớ ngài thường dùng gương xưa răn dạy các công tử, ngài nói:“Nước mất là do đế vương bất xứng, gần gũi nịnh thần, xa lánh tôi trung, ăn chơi phóng đãng chẳng biết lo cho dân khiến dân lầm than đói khổ mà sinh loạn…”
Chúa đọc xong trao cho Quốc Phó. Phúc Loan xem xong rất giận nhưng làm vẻ điềm tĩnh, cười nói:“Quan Lại Bộ khéo vẽ chuyện, làm chi có cảnh như ông ấy tả. Nay thiên hạ thái bình, chúa thượng có thú vui riêng cứ hưởng, đời người mấy chốc, tội chi làm khổ thân mình.” Chúa nghe hài lòng.
Ðợi mãi chẳng thấy chúa nói gì, Cư Trinh chán nản, từ đấy quyết định cáo ốm không dự bàn việc triều chính. Phúc Loan nói với thủ hạ:“Ta thừa biết Cư Trinh bấy lâu chống ta, ta muốn cô lập hắn nào ngờ hắn tự cô lập mình. Rồi hắn sẽ chết trong cô đơn và uất hận”. Phúc Loan tiên đoán đúng. Thời gian sau, Cư Trinh ốm liệt giường hàng tháng rồi từ trần…
***
Năm Canh Dần 1770, đám quan lại tay chân Quốc Phó Trương Phúc Loan tại Phú Xuân sống xa hoa nhàn hạ trong khi ngoài dân thóc cao gạo kém, giặc cướp nổi lên khắp nơi. Tại Quảng Ngãi, Mọi Ðá Vách thấy thời thế bất ổn lại nổi loạn, lắm khi tràn xuống đồng bằng cướp phá thường xuyên đe dọa cuộc sống dân lành. Phúc Loan lo sợ, một mặt tăng cường quân bảo vệ Phú Xuân, lại điều quân từ hai phủ Phú Yên Qui Nhơn ra Quảng dẹp loạn. Ðầu năm sau, tình thế vừa tạm ổn lại nhận tin quân Xiêm La đã tấn công chiếm Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ rút về Trấn Giang (Cần Thơ) dâng biểu về triều tạ tội mất đất. Tại Chân Lạp. Quân Xiêm chiếm Nam Vang lập vua mới. Trong lúc Phúc Loan rối rắm tìm cách giải quyết tình hình phía nam lại nhận biểu văn của Tuần Phủ Qui Nhơn báo tin khẩn:“… tên Biện Lại Nguyễn Nhạc người ấp Tây Sơn thua cờ bạc trốn vào vùng sơn cước cùng với hai em là Lữ và Huệ xúi giục dân chúng nổi lên làm loạn, thanh thế rất lớn, khẩn xin triều đình cho viện binh đánh dẹp…” Loan cả giận vỗ án hét:“Xá chi lũ cờ bạc trộm cướp mà phải xin viện binh. Vậy đặt hắn làm tuần phủ làm chi cho tốn gạo”. Loan định bãi chức Khắc Tuyên, đám thủ hạ khuyên can mãi mới nguôi giận. Loan tuyệt nhiên coi thường đám giặc cướp Tây Sơn, phó mặc cho Khắc Tuyên giải quyết tình hình, lại nghiêm lệnh nếu lơ là sẽ bị bãi chức. Tuyên lo sợ, từ đó chẳng dám báo cáo gì thêm về triều. Thủ lĩnh Tây Sơn Nguyễn Nhạc khôn ngoan bản lãnh nắm được tình hình không bị đe dọa, ra sức phát triển lực lượng.
Bấy giờ xứ Quảng nhiều vùng bị đói, người đói ăn thất thểu như những bóng ma vật vờ chẳng biết nương tựa vào đâu. Dân căm phẫn hận chúa Nguyễn nhu nhược để Quốc Phó Loan tham ô lũng đoạn triều chính gây cảnh lầm than cơ cực. Nguyễn Nhạc cho thủ hạ ra Quảng chiêu dụ người vào Thượng đạo khẩn hoang phá rẫy, canh tác vùng đất mênh mông chập chùng rừng núi. Ðám dân lưu vong nghèo khổ sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu để kiếm miếng ăn, sau này hầu hết trở thành nghĩa quân Tây Sơn. Ngoài người Kinh, Nguyễn Nhạc còn vận động được sự ủng hộ và thần phục của các sắc dân thiểu số vùng Tây Sơn Thượng. Các tù trưởng tôn Nhạc là “vua Trời”. Lực lượng Tây Sơn ngày càng lớn mạnh, vừa luyện binh, vừa sản xuất dự trữ lương thảo…
Phủ Qui Nhơn những ngày tàn đông, chỉ còn non tháng đến tết Quí Tỵ 1773. Trời đã về chiều, những giọt nắng vàng vọt cuối ngày chỉ còn le lói trên vùng đồi núi xa mờ. Tuần Phủ Nguyễn Khắc Tuyên vẫn ngồi ở công đường suy tư lo lắng. Báo cáo của các hương chức cho biết số đông dân đinh nghèo khổ trong phủ không nộp sưu thuế, rủ nhau trốn vào vùng sơn cước theo bọn giặc cướp. Trên đường phố, trong quán chợ đầy rẫy đám cùng dân từ Quảng tràn vào xin ăn. Người ta kể nhiều nơi ở Quảng, ngay đến vợ con đám quan chức cũng phải đến các nhà giàu có vay thóc gạo, thậm chí xin ăn bởi tiền thì có nhưng không đào đâu ra gạo để mua. Qui Nhơn cũng chẳng khá gì, khẩu phần binh lính phải giảm bớt. Tuyên nghĩ nếu triều đình không cứu nguy kịp thời, chỉ non tháng nữa tình trạng Qui Nhơn cũng sẽ tồi tệ như những vùng khác. Không những thế, bọn giặc Tây Sơn của Nguyễn Nhạc tuy chưa ra tay hành động vẫn là mối ám ảnh không ngừng. Hôm sau, đích thân Tuyên cùng vài vệ sĩ mặc như dân thường cỡi ngựa ra ngoại thành xem dân tình. Cảnh phố buồn thiu, ăn mày lũ lượt. Nhiều nhà cửa đóng then cài, sợ đám dân vong mạng dở thói du côn trộm cướp. Thiên hạ hờ hững chẳng mấy ai tha thiết nghĩ đến việc chuẩn bị đón xuân mới. Cuộc sống bất an đói khổ làm sao có thể vui xuân. Qua khỏi phố chợ, Tuyên bỗng thúc ngựa nhanh bước khi chợt thấy người đàn ông khăn đóng áo dài, bước thấp bước cao đang đi ở góc phố. Ðó là Giáo Hân, tay danh sĩ nổi tiếng ở phủ. Nguyên phủ Qui Nhơn có ba ông giáo nổi tiếng chữ tốt văn hay là Giáo Hoài (Võ Xuân Hoài), Giáo Hân và Giáo Hiến (Trương Văn Hiến). Riêng Giáo Hiến giỏi cả võ nghệ, là thày dạy học của hai người em Nguyễn Nhạc là Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Sau này cả Giáo Hiến lẫn Giáo Hoài đều bỏ trường vào Thượng đạo làm quân sư cho Nguyễn Nhạc. Phủ nay chỉ còn Giáo Hân.
Giáo Hân đỗ Hương Cống nhưng không ra làm quan, lấy cớ tàn tật, chân bước thấp cao thiếu vẻ uy nghi đường bệ của bậc phụ mẫu chi dân. Nói vậy mà không phải vậy. Những người gần gũi Giáo Hân đều công nhận Hân là người ưu thời mẫn thế. Sở dĩ Hân không chịu ra làm quan vì đoán biết thời thế sắp đại loạn nên sống ẩn dật an phận, tránh cảnh trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết. Tuần Phủ Tuyên vốn quý trọng Giáo Hân, thỉnh thoảng vẫn mời Hân vào phủ đàm đạo quốc sự. Ðã mấy tháng, Tuyên bận bịu việc quan, khắc khoải lo toan không có dịp gặp gỡ người bạn tâm đầu. Tuyên xuống ngựa vồn vã:“Ông giáo”. Giáo Hân kịp nhận ra quan Tuần Phủ, trố mắt ngạc nhiên. Hân chưa kịp nói, Tuyên tiếp:“Ông chớ ngạc nhiên, tôi đi xem dân tình bất ngờ lại gặp ông, mời ông ghé phủ ta có nhiều việc đàm đạo”. Tuyên ra dấu cận vệ nhường ngựa cho ông giáo, cả hai phi nhanh về phủ… Tuyên bảo gia nhân bày tiệc, Giáo Hân nói:“Có rượu chè tất tôi phải ở lâu, phiền ông cho người báo tin kẻo người nhà nóng ruột đợi chờ”. Ðôi bạn nâng chén, Tuyên nói:
-Bấy lâu đa đoan chẳng có dịp gặp, tôi định tết đến thế nào cũng ghé ông, có đôi điều muốn thỉnh ý.
-Tôi an phận thủ thường, vui với vài đứa học trò, thế sự chẳng màng đầu óc tối tăm. Ông quan quyền hẳn rành sự thế, thỉnh tôi chi thêm bận lòng.
-Ông khiêm nhượng nói thế, tôi làm quan nhưng tai mắt ở dân, ông là người học rộng trải đời hẳn rõ. Thú thật với ông hoàn cảnh tôi hiện nay rối rắm, ăn không ngon ngủ không yên. Gặp buổi thóc cao gạo kém dân chúng ta thán, chúa thượng chẳng lo việc nước mà Quốc Phó cũng lơ là chẳng có chính sách cụ thể giúp dân. Ở phủ ta, tôi từng biết đám cùng dân nhiều người trốn vào vùng sơn cước theo bọn giặc cướp. Tôi chưa mấy lo nhưng tháng trước được tin Giáo Hiến và Giáo Hoài cũng bỏ trốn vào Thượng đạo theo Nguyễn Nhạc, mối lo tăng dần bởi hai tay đều là những người có học, nay bỏ đi tất có lý do, ảnh hưởng tâm lý không nhỏ. Tôi không dám coi thường Nguyễn Nhạc như những bọn giặc cướp khác, linh cảm bọn này sẽ gây biến loạn. Ông ở trong dân, gần gũi tất biết nhiều chuyện. Chỗ thân tình xin ông bộc bạch chớ ngại.
Giáo Hân yên lặng giây lâu, hỏi:
-Về Nguyễn Nhạc ông chỉ biết chừng đó thôi ư?
-Tôi biết Nhạc giàu có nhờ làm đầu nậu nghề buôn trầu nguồn, ba anh em hắn võ nghệ cao cường. Sau này Nhạc xin được chân Biện Lại chuyên việc thu thuế. Hắn mê cờ bạc, thâm lạm công quỹ bỏ trốn vào rừng tụ tập đám dân vong mạng, dụ dỗ người Mọi vùng Thượng đạo, tự xưng thủ lĩnh… Mấy phen tôi cử Tri Huyện Tuy Viễn đem quân tiễu trừ, lần nào cũng thiệt hại hàng chục mạng. Tôi khiển trách, viên Tri Huyện bảo bọn cướp có hàng ngàn, lại ở lẫn với dân. Quân tiến vào lùng sục chẳng thấy giặc, lại bị chúng dùng tên độc bắn tỉa, quân sĩ hoang mang sợ hãi bỏ trốn. Hắn ước lượng phải có lực lượng lớn bao vây tiêu diệt. Tôi dâng biểu về triều, Quốc Phó chê tôi bất lực giận dữ đòi cách chức, từ đấy tôi lặng thinh.
Giáo Hân trầm ngâm ngồi nhâm nhi, nghĩ tội cho quan Tuần Phủ không nắm rõ tình hình do xa cách dân. Triều đình Phú Xuân đang đứng bên bờ vực thẳm do thiển cận tham lam, chỉ biết vơ vét tham nhũng gây cảnh lầm than làm mất lòng dân. Ngay tại triều đình, nhóm vương tộc đều có ý muốn loại trừ Phúc Loan, truất phế Ðịnh Vương, đưa hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương lên ngôi chúa.
Giáo Hân nghĩ phận dân đen chỉ cần cơm no áo ấm, cuộc sống yên lành. Còn chuyện triều chính, ai muốn làm vương tướng gì cũng mặc. Giáo Hân nghĩ Tây Sơn nổi dậy chỉ làm đất nước thêm ly loạn, dân tình đói khổ. Anh em Tây Sơn vũ dũng có thừa nhưng Giáo Hân ngờ vực, không tin con người Thủ Lĩnh Nguyễn Nhạc có tài kinh bang tế thế giúp dân thoát cảnh lầm than. Bởi vậy vài tháng trước, Giáo Hiến gặp Giáo Hân, cố thuyết phục Hân theo Nguyễn Nhạc nhưng Hân từ chối. Giáo Hân nghĩ nên nói hết tình hình bên ngoài cho Tuần Phủ rõ để y dâng biểu văn về triều may ra có cách ngăn chận kịp thời hiểm họa. Hân nói:
-Trong dân gian loan truyền nhiều chuyện thần bí về Nguyễn Nhạc, rằng ngôi mộ thân sinh họ Nguyễn táng đúng quý huyệt. Nhạc là chân mạng đế vương được Ngọc Hoàng trao báu kiếm “thế thiên hành đạo”. Giáo Hiến là quân sư của Nhạc, nắm rõ tình hình Phú Xuân nên đưa ra chiêu bài”diệt quyền thần, tôn phù Hoàng Tôn Dương”. Tôi còn nghe Nhạc thu phục được nhiều tay hào kiệt như Võ Văn Dũng, vợ chồng Trần Quang Diệu Bùi Thị Xuân… Ngay cả những tay lục lâm thảo khấu, võ nghệ cao cường vùng Tây Sơn cũng tôn Nhạc làm thủ lĩnh. Tôi quen Nhạc từ lâu, hắn hào hiệp nghĩa khí nhưng tham vọng làm vua một cõi bởi tuyệt đối tin tưởng thần quyền. Tôi đoán chẳng còn bao lâu nữa Nhạc sẽ khởi binh, ông nên phòng trước, chờ nước đến chân e không kịp.
Nghe Hân nói Tuyên lo lắng. Ngay hôm sau truyền phủ huyện tăng cường luyện quân, canh phòng cẩn mật các nơi hiểm yếu ngăn chận dân trốn theo giặc.
Tết Quí Tỵ buồn tẻ trôi qua. Ra giêng, Tuần Phủ Tuyên càng nhận thêm nhiều báo cáo. Quân Tây Sơn chia từng toán nhỏ vào các làng mạc thu thóc gạo của người giàu chia cho dân nghèo, tìm cách thu phục lòng dân. Dân nghèo hàm ân kẻ cứu giúp, coi Tây Sơn là đội quân nhân nghĩa. Quân Tây Sơn ngày càng lộng hành, công khai đi từng đoàn hàng trăm người trang bị cả súng tay, coi quan quân chẳng ra gì. Ðầu mùa thu, Thủ Lĩnh Nguyễn Nhạc thấy thanh thế đã lớn có thể khởi binh. Nhạc xưng là Tây Sơn Vương, tổ chức quân đội, phong quan chức văn võ cho đám thân tín. Cuối thu năm ấy, Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc bất ngờ khởi binh, dùng kế nội công ngoại kích dễ dàng chiếm thành Qui Nhơn. Tuần Phủ Tuyên thoát chạy một mình bỏ cả vợ con gia đình ở lại. Hai kho lương thực lớn nhất phủ cũng bị chiếm. Nguyễn Nhạc hạ lệnh thả tù tha thuế, tuyển thêm quân thẳng tiến ra Quảng Ngãi. Phía nam, Tây Sơn khống chế luôn Phú Yên. Tình thế quân triều lâm cảnh nguy khốn.
Tin Quy Nhơn thất thủ làm Phú Xuân kinh hoàng. Ngoài dân nhốn nháo, có kẻ lo xa vội trữ gạo thóc mắm muối phòng khi loạn lạc. Ðám võ quan binh lính bấy lâu nhàn rỗi trở nêạn biếng nhác, gươm kiếm mỏi mệt nay nghe có loạn tinh thần sa sút kinh sợ. Phố xá vắng người. Ðêm đêm nhà nhà then gài cửa đóng. Trong triều quan lại chia rẽ, nhóm vương tộc với một số quan lại muốn phế chúa Ðịnh Vương nhu nhược tôn phù Hoàng Tôn Nguyễn Phúc Dương. Họ nghĩ Nguyễn Nhạc sẽ quy phục triều đình khi Hoàng Tôn Dương lên ngôi chúa, đất nước trở lại thanh bình thoát cảnh gươm đao. Tại dinh Quốc Phó tấp nập đám võ quan đến chầu chực, lo lót cầu cạnh. Quan chưởng cơ nọ nại cớ đau yếu, quan tán lý kia than gia đình khó khăn… để khỏi phải ra chiến địa.
Chúa lúc ấy đã ngoài hai mươi, đủ khả năng đảm đang việc nước khẩn cấp họp quần thần. Giải pháp cuối cùng phải đem đại binh vào ngay Quảng Nam bởi mất xứ này, Phú Xuân sẽ bị đe dọa. Hai phò mã của chúa Võ Vương, Chưởng Cơ Nguyễn Cửu Thống và Chưởng Cơ Nguyễn Cửu Sách chỉ huy hai đạo quân tiến vào Quảng Nam. Hai bên giao tranh trận đầu ở Bến Ván. Quân Tây Sơn theo kế hoạch của Nguyễn Nhạc lùi sâu vào phía nam. Ðến Bến Ðá thuộc Quảng Ngãi, Nhạc tổ chức phục binh đánh tan quân triều. Cửu Thống, Cửu Sách cởi cả giáp mão bỏ quân thoát chạy.Mấy võ tướng chậm chân đều tử trận.
Tin thất trận nhanh chóng về Phú Xuân. Phe vương tộc và một số đại thần họp bí mật tìm cách trừ khử Quốc Phó Loan. Chưởng Cơ Nguyễn Phúc Văn, con trai thứ ba của chúa Võ Vương tố cáo Phúc Loan tư thông với Tây Sơn. Văn cho người giả nét chữ Phúc Loan, viết thư riêng gửi Nguyễn Nhạc. Thư có dấu ấn tín dinh Quốc Phó. Trong khi chúa do dự, Phúc Loan xuống tay trước, bắt giết một số người chủ mưu hại mình. Phúc Văn bỏ trốn bị bộ hạ Phúc Loan đuổi theo bắt được, dìm chết ở phá Tam Giang.
Tình hình vô cùng rối ren, chúa khẩn cấp cho đem cả Nội Quân, đám quân chủ lực chuyên canh gác bảo vệ phủ chúa do Cai Ðội Nguyễn Phúc Hương làm Tiết Chế lên đường cứu viện Quảng Nam. Lực lượng phòng thủ Phú Xuân còn rất mỏng. Tình thế càng trở nên bi đát. Quân Tây Sơn lại đại thắng, Chưởng Cơ Cửu Thống và Tiết Chế Phúc Hương lần lượt chết tại trận tiền. Thi hài hai phò mã được mang về Phú Xuân, đám tang cử hành giản dị lặng lẽ nhưng tướng sĩ Phú Xuân càng thêm kinh hãi bởi thấy thế Tây Sơn rất mạnh. Rất may danh tướng triều đình, Cai Cơ Nguyễn Cửu Dật (con Chưởng Cơ Cửu Sách) mưu trí dụng nghi binh kìm chân Tây Sơn. Dù không tiến thêm được ra phía bắc nhưng lực lượng Tây Sơn lại bành trướng về phía nam chiếm luôn Diên Khánh Bình Thuận. Cửu Dật khẩn gửi biểu văn về triều xin tiếp viện, báo cáo địch tình:“… Tây Sơn Nguyễn Nhạc mưu trí xảo quyệt thu phục được khá nhiều bọn lục lâm thảo khấu võ nghệ cao cường như Võ Văn Dũng, vợ chồng Trần Quang Diệu Bùi Thị Xuân, Võ Văn Tuyết, Lê văn Hưng… Ngay cả bọn nho gia chữ nghĩa cũng cam tâm theo giặc như Võ Xuân Hoài, Nguyễn Thung, Trương Mỹ Ngọc, La Xuân Kiều, Cao Ðắc Tựu, Triệu Ðình Tiệp. Sáu tên văn nhân này thường được người Quy Nhơn ca tụng là Lục kỳ sĩ. Bọn cướp biển người Tàu là Tập Ðình và Lý Tài cũng đem hết lực lượng phù Nguyễn Nhạc. Bọn lính Tàu cao lớn, cạo tóc giắt bím. Trước khi xuất trận thường uống rượu say, cởi trần, cổ đeo giấy vàng bạc bùa phép rất đỗi quái dị khiến quân ta kinh sợ phải lùi. Thần nghĩ quân Tây Sơn tuy đông nhưng vẫn không quá mạnh khiến ta phải thua. Xin chúa thượng cấp ngay viện binh tinh nhuệ, đồng thời cử binh Gia Ðịnh đánh ở mặt nam chiếm lại những vùng đã mất. Tây Sơn tất khốn bởi lâm thế lưỡng đầu thọ địch…” Chúa y kế của Cửu Dật. Phúc Loan đành phải lấy nửa số quân canh dinh Quốc Phó sung vào viện binh do Chưởng Dinh Nguyễn Phúc Nghiễm làm Tiết Chế. Chúa truyền làm lễ xuất quân trọng thể, cờ bay rợp trời, chiêng trống khua vang cho quân tăng nhuệ khí. Ðoàn quân thẳng tiến vào mặt trận Quảng Nam. Chỉ vài ngày sau, chúa nhận hung tin từ Bố Chính dinh: Ba vạn quân Trịnh do Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc đang trên đường tiến vào nam. Chúa thất kinh hồn vía, Phúc Loan kinh sợ không kém khuyên chúa khẩn gọi đoàn quân tiếp viện Quảng Nam trở lại giữ đô thành.
***
Thăng Long thành mùa hạ năm Giáp Ngọ 1774 dưới thời chúa Tĩnh Ðô Vương Trịnh Sâm. Chúa nối nghiệp Minh Vương vừa tròn bảy năm. Ðược học cả văn lẫn võ từ thuở ấu thơ, chúa thuộc nhiều kinh sử, thích làm thơ, thông minh quyết đoán cải tổ triều chính không nệ phép cũ, bên ngoài ra sức dẹp nội loạn. Kể từ năm Canh Dần 1770, đám phản nghịch cuối cùng do hoàng thân Lê Duy Mật cầm đầu, sau ba mươi năm hùng cứ vùng thượng du Thanh Hóa đã bị dẹp tan. Từ đấy bốn cõi yên ổn, chúa không vì thế lơ là việc luyện binh, dự trữ lương thực phòng khi chinh chiến. Triều thần nhiều người tài giỏi. Văn quan gồm đám danh sĩ Bắc Hà như Nguyễn Nghiễm (thân phụ thi hào Nguyễn Du), Nguyễn Hoàn, Lê Quý Ðôn, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Khản… Võ tướng có Hoàng Ngũ Phúc, Hoàng Ðình Thể, Hoàng Phùng Cơ, Bùi Thế Ðạt… đều là những danh tướng dầy công trận mạc. Tháng năm oi ả. Mặt trời khuất từ lâu mà trời vẫn nồng nực. Chúa ra hoa viên dạo mát, thẩn thơ quanh hòn non bộ ngắm nghía công trình tuyệt vời của Hồng Lĩnh Hầu Nguyễn Khản (anh ruột thi hào Nguyễn Du), tay nghệ sĩ tài hoa, phong lưu công tử lừng danh đất bắc. Chúa quý Khản coi như bè bạn, dành Khản đặc ân được vào nội cung bất cứ lúc nào. Bỗng viên nội quan xuất hiện, tâu chúa có biểu văn thượng khẩn của Trấn Thủ Nghệ An Bùi Thế Ðạt. Chúa bước vội vào thư phòng. Thế Ðạt tường trình tình hình rối loạn đang xảy ra ở Ðàng trong, trong triều Phúc Loan chuyên quyền tham ô nhũng lạm dân chúng oán ghét. Ngoài cõi giặc Tây Sơn do Nguyễn Nhạc cầm đầu đã chiếm gần hết dinh Quảng Nam. Ðạt tâu chúa nên thừa cơ động binh chinh phạt Nam Hà.
Chúa suy nghĩ hồi lâu, mỉm cười đắc ý, truyền nội quan đến dinh Tham Tụng Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm mời quan khẩn cấp vào nội cung. Nguyễn Nghiễm biết có việc cơ mật vội thay mũ áo, thay vì dùng kiệu chậm chạp. Nghiễm lệnh gia nhân thắng ngựa lên đường.
Chúa ngồi chờ sẵn tại thư phòng, đưa biểu văn cho Nghiễm đọc. Chúa nói:
-Ðã hơn trăm năm, các đời tiên vương cũng như ta ngưng chinh phạt họ Nguyễn bởi quốc sự đa đoan, chỉ muốn nuôi dân nên ngưng chinh chiến. Thực tâm ta vẫn mong có ngày cất quân hỏi tội lũ phản nghịch, dựng đại kỳ Tĩnh Vương trên đỉnh Hải Vân, lấp kín sông Gianh, thả thuyền nhàn du trên sông Hương, cho ngựa uống nước ngay giòng Lệ Thủy. Nay Ðàng trong tình thế rối ren, giòng ngụy Phúc Thuần ươn hèn ngu xuẩn để ngụy phó Phúc Loan chuyên quyền thao túng, ra sức bóc lột, lương dân đói khát khổ cực hận ngút trời cao. Ấy là lúc ta nên động binh trừng phạt, chiếm nước suy loạn. Khanh nghĩ thế nào?
Vị lão thần mái tóc điểm sương, khuôn mặt uyên bác đăm chiêu từ tốn:
-Thần cũng một ý như chúa thượng. Ðôi phen đến Bố Chính, nhìn giòng sông Gianh chia cắt mà lòng quặn thắt. Những mong có ngày nối nhịp cầu xum họp, người nam kẻ bắc thông thương qua lại. Chẳng còn phân biệt trong ngoài, tất cả cùng dưới mái nhà nước Việt rợp mũ áo triều đình.
-Ta vẫn còn e địa thế Ðàng trong hung hiểm, các chiến lũy xưa vẫn là chướng ngại khó qua.
-Ðàng trong nhân tâm ly tán, lâu không chinh chiến tướng mỏi quân lười, cho dù thành cao hào sâu chẳng ngăn được bước tiến quân ta. Cho dù Ðào Duy Từ có tái sinh cũng cuốn vó chạy dài.
Chúa nghe hoan hỉ:
-Khanh điềm đạm uyên thâm hẳn có kế sách?
-Thần nghĩ khởi binh phải chính nghĩa. Chúa thượng trước tiên tâu vua tế cáo Giao Miếu. Xuống dụ thiên hạ kể tội họ Nguyễn, vì đại nghĩa động binh chinh phạt nghịch cường thỏa lòng cùng dân trăm năm ngóng trông. Người họ Nguyễn lòng ngay quy thuận sẽ được toàn sinh, vỗ về tha thứ, cho phục chức bởi thương giòng dõi thế huân. Vả lại Ðàng trong đói kém, ta nên chuẩn bị đủ lương thực. Quân đi đến đâu lương theo tới đó, thật tâm cứu dân thoát cảnh cơ hàn. Ðạt hai chữ nhân hòa là yếu tố tất thắng.
Chúa vui mừng, lại hỏi:
-Theo khanh, ai đáng mặt thống suất đại binh?
-Thần thiết nghĩ, lĩnh ấn nguyên nhung chẳng ai xứng hơn Ðại Tư Ðồ Quốc Lão Việp Quận Công (Hoàng Ngũ Phúc).
-Quốc lão một đời lao nhọc chiến chinh, nay tuổi đã thất thập, ta nên để người ngơi nghỉ, lánh chốn đao binh.
-Thần mới đến vấn an người vài hôm, thấy người vẫn tráng kiện minh mẫn, chắc chi trai trẻ đã hơn. Thống suất phải là bậc anh hùng cái thế, bốn cõi vang danh, bọn nghịch vừa nghe táng đảm kinh hồn.
Chúa gật gù. Ðêm đã khuya, chúa nói quan Tham Tụng về nghỉ sáng mai bàn tiếp công việc. Ðêm ấy chúa trằn trọc, vừa chợp mắt đã mơ thấy trên kỳ đài Phú Xuân, đại kỳ thêu hai chữ Tĩnh Vương tung bay phất phới. Phần Nguyễn Nghiễm, quan Tham Tụng trắng đêm thao thức suy nghĩ kế sách bình nam. Trời chưa sáng rõ, Nghiễm giục gia nhân chuẩn bị lên kiệu vào thẳng nội cung. Chúa đã thức dậy ngồi thưởng trà, truyền nội quan ra ngoại thành triệu ngay Quốc Lão…
Quốc Lão Hoàng Ngũ Phúc hăng hái nhận trong trách. Phúc nói:
-Thần vinh hạnh được chúa giao trọng trách lúc đã ở cái tuổi “ thất thập cổ lai hy”. Cho dù thịt nát xương tan vẫn kết cỏ ngậm vành. Xưa Tử Nha tuổi bát tuần vẫn lĩnh ấn nguyên nhung, Phục Ba Mã Viện tuổi thất thập vẫn thanh gươm yên ngựa dãi dầu chiến địa. Thần nay vẫn tráng kiện quyết theo gót người xưa không phụ lòng chúa thượng chiếu cố.
Chúa mừng rỡ truyền xúc tiến ngay kế sách bình nam. Sắc phong Ngũ Phúc làm Thống Suất Bình Nam Ðại Tướng Quân, được toàn quyền xử dụng đám danh tướng Bắc Hà dưới trướng. Danh tướng lúc ấy nhiều người họ Hoàng như Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Ðình Thể, Hoàng Ðình Bảo hăng hái luyện binh. Tay gia nhân thân tín của Ngũ Phúc là Cống Chỉnh (Nguyễn Hữu Chỉnh) được điều vào trung quân bàn việc tham mưu. Trấn Thủ Nghệ An Bùi Thế Ðạt làm Ðốc Suất, phụ tá Thống Suất chuẩn bị dự trữ lương thực.
Cuối thu mọi việc chuẩn bị hoàn tất. Ba vạn quân Trịnh theo hai đường thủy bộ rầm rộ xuất chinh tiến thẳng vào Bắc Bố Chính. Nhờ nội tuyến, một đêm thượng tuần tháng mười, Ngũ Phúc hạ lệnh vượt sông Gianh. Quân Trịnh vượt sông ào ạt như vào chỗ không người. Trấn Thủ quân Nguyễn dinh Nam Bố Chính Quận Công Nguyễn Phúc Tiệp kinh hoảng, một mặt khẩn báo Phú Xuân, mặt khác dụng kế hoãn binh ngăn Trịnh. Phúc Tiệp sai hai thủ hạ thân tín mang rượu thịt sang doanh trại Thống Suất khao quân, gọi là đón mừng đại binh vua Lê chúa Trịnh không quản đường xa khó nhọc vào giúp quân Nguyễn dẹp loạn Tây Sơn. Trong thư riêng gửi Ngũ Phúc, Tiệp viết:“… nhờ hồng ân hoàng thượng, bọn ngụy Tây Sơn đã bị chận đứng, ở vào thế lưỡng đầu thọ địch tất sẽ bị diệt nên không dám nhọc công Thống Suất và đại binh…” Ngũ Phúc xem thư biết ý Phúc Tiệp gian trá nhưng ra vẻ bình thản, sai bày tiệc khoản đãi, ân cần phủ dụ sứ giả, hỏi han tình hình Ðàng trong. Sứ giả Kiêm Long cảm kích tỏ thật mọi chuyện, lại nói bóng gió:“Bẩm Thượng Công, cổ nhân từng dạy: Ðường không đi không đến, chuông không đánh không kêu. Tùy ý Thượng Công định đoạt”. Ngũ Phúc hiểu ý, ngay hôm sau ra lệnh tiến quân. Thế quân Trịnh rất mạnh, Phúc Tiệp lùi về giữ lũy Ðồng Hới. Lũy Trấn Ninh thất thủ, quân Trịnh thừa thắng chiếm dinh Quảng Bình tiến sâu vào Quảng Trị. Tại Thăng Long nhận tin chiến thắng, vua Lê chúa Trịnh thân chinh dẫn đại binh vào Nghệ An động viên tinh thần tướng sĩ. Ngũ Phúc viết hịch kể tội Phúc Loan:“… Quốc Phó Trương Phúc Loan là đứa tiểu khí tà tâm, chuyên dùng kẻ gian nịnh hãm hại người trung lương, ly cựu gián thân, giết kẻ này lập kẻ khác. Hắn chẳng khác giống sài lang, thích điều cay việc độc, lấy thuế dân nặng như hút máu mủ, bớt lương lính như nhổ răng nhổ móng, cách cai trị nguy cấp như lửa cháy lông mày, dụng hình phạt thâm độc như chọc thủng con ngươi. Lòng dân căm hận ngút trời khiến Tây Sơn kết tụ bọn gian manh làm đồ đảng, đông như ong như kiến, dữ tợn như sói như beo gây loạn chiếm cứ Quảng Nam. Vậy muốn cho dân sống lại, ta vâng mệnh Tĩnh Vương cất quân dẹp loạn tặc, khử cường thần. Vì nghĩa cứu nguy, tuyệt không có ý thừa lúc gian nan mà lợi dụng…” Bài hịch chẳng mấy chốc loan tới Phú Xuân.
***
Ðô thành Phú Xuân vốn là chốn phồn hoa đô hội. Khi Tây Sơn đánh Quảng Nam, Phú Xuân đã chấn động. Tin quân Trịnh tiến vào Quảng Trị càng làm dân đô thành kinh hoảng, nhất là giới giàu có quan lại. Nhiều người tản cư về vùng quê xa, kẻ lo đào hầm hố bí mật chôn châu báu. Nỗi lo âu sợ hãi biến chốn phồn hoa xưa trở nên vắng lặng như cảnh đìu hiu chợ chiều. Chúa Ðịnh Vương lo âu bứt rứt, nghĩ kế cùng sẽ trao quyền cho Hoàng Tôn Dương, còn mình và vương tộc tạm lánh vào Gia Ðịnh. Khu vực phủ chúa và dinh Quốc Phó, hàng ngàn lính canh gác cẩn mật, gươm giáo tuốt trần. Phúc Loan đọc tờ hịch của Hoàng Ngũ Phúc sợ toát mồ hôi, tính tình trở nên khó chịu thường cau có gắt gỏng, đâm ra ngờ vực mọi người. Ðám thủ hạ được lệnh chủ theo dõi gắt thành phần quan lại mưu chống Quốc Phó. Phúc Loan hỏi ý người con trưởng Phúc Thặng. Thặng đáp:“Con thấy thế quân Trịnh rất mạnh, họ nhất định sẽ chiếm Phú Xuân. Ta tẩu vi thượng sách, cha kíp chuẩn bị thuyền bè chở gia quyến và của cải vào Gia Ðịnh tạm lánh, ấy là kế vẹn toàn”. Phúc Loan nghe con bàn cho là phải. Loan nói:“Cha tính gọi đám quân của Chưởng Dinh Nguyễn và Thành Quận Công về bố trí phòng thủ rồi sẽ theo kế của con. Dẫu sao ta cũng phải bàn qua với chúa thượng cho phải lẽ trước khi lên đường ”. Thặng cho là phải.
Chưởng Dinh Nguyễn Cửu Pháp và Quận Công Nguyễn Phúc Thành (con thứ tư của chúa Võ Vương) đang luyện binh ở Qui Sơn nhận lệnh Quốc Phó, dẫn trên ba ngàn quân trở về Phú Xuân. Theo kế hoạch của Cửu Pháp, đoàn quân di chuyển đêm tránh làm dân kinh động. Hai vị chỉ huy cưỡi ngựa sánh đôi đi tập hậu. Cửu Pháp nói với Phúc Thành:“Mấy bữa trước Cửu Dật thư cho tôi nói mặt trận Quảng Nam khó giữ lâu bởi Nguyễn Nhạc quyết chiếm (Cửu Dật là con Cửu Pháp). Nay quân Trịnh lại vào, tôi e Phú Xuân khó giữ. Ông đã đọc tờ hịch của Hoàng Ngũ Phúc đòi bắt Quốc Phó giao nộp?” Phúc Thành yên lặng giây lâu, nói:
-Ông với tôi tình thân như huynh đệ nên chẳng có chi dấu diếm. Bấy lâu tôi khuất thân là bởi Phúc Loan thế mạnh, không làm gì được hắn nên đành ngộ biến tùng quyền. Hắn đã giết bao người trong vương tộc, hận ấy dễ gì tôi quên. Nay ta cũng nhân cơ hội này rửa mối thù, cùng là diệt cái họa cho Ðàng trong.
-Tôi cũng có ý ấy, nhưng kế sách ra sao, phải vẹn toàn bí mật. Lại phải ra tay ngay kẻo chẳng còn dịp khác.
-Ông nói đúng, ta phải làm ngay bởi tôi đoán Phúc Loan sẽ nhanh chân mang tài sản cùng gia đình chạy vào Gia Ðịnh. Ta đang ở lợi thế là được hắn tín cẩn. Tôi nghĩ thượng kế là tìm cách lấy bớt quân hiện đang bảo vệ dinh Quốc Phó của hắn, dụng kế điệu hổ ly sơn dụ hắn vào hậu cung, bắt giữ rồi giao ngay cho tướng Trịnh. Số quân ông và tôi chỉ huy khá đông đủ sức khống chế nếu đám con cái thủ hạ của hắn chống cự.
Chưởng Dinh Cửu Pháp yên lặng, gò cương cho ngựa bước chậm, hỏi tiếp:
-Việc hệ trọng, ta có nên bàn với chúa thượng?
Quận Công Phúc Thành không suy nghĩ trả lời ngay:
-Chúa thượng nhu nhược, nếu bàn với người chắc chi người dám quyết định. Như thế càng bất lợi cho ta, tôi nghĩ chỉ cần bàn sơ với Hoàng Tôn Dương, tôi vai chú tương đối dễ nói. Hoàng Tôn Dương vốn căm ghét Phúc Loan từ lâu chắc chắn sẽ thuận kế hoạch của ta.Thế quốc biến buộc ta phải làm không còn cách chi khác. Việc đã rồi chúa thượng cũng bó tay. Ðêm nay ta về Phú Xuân, mai chúa thượng họp khẩn. Tôi có sẵn chủ trương, ông cứ lặng yên hoặc nói xuôi theo ý tôi là việc sẽ thành.
Cửu Pháp thở dài:
-Mong việc sẽ thành, ông liệu bắt Phúc Loan giao nộp có ngăn được bước quân Trịnh?
-Không bao giờ, quân Trịnh dứt khoát sẽ chiếm Phú Xuân. Bắt xong Phúc Loan ta sẽ rút quân vào Quảng Nam trợ chiến cho Cửu Dật chống Tây Sơn, lập phòng tuyến ngay Hải Vân Sơn, dựa vào thế hiểm để ngăn quân Trịnh, lo bảo vệ chúa thượng và vương tộc chạy thẳng vào Gia Ðịnh củng cố lực lượng. Ðó là kế vẹn toàn.
Hai vị tướng về đến Phú Xuân theo đúng kế hoạch đến Quốc Phó gặp Phúc Loan. Cả hai vẻ như chưa biết gì về tờ hịch của tướng Trịnh Hoàng Ngũ Phúc. Thấy Loan bồn chồn lo lắng, Phúc Thành nói:
-Thượng công chớ quá lo lắng bởi tình thế không phải tuyệt vọng, ta nay yếu thế phải nhượng địch một bước, cũng như cho nó vào trọ một đêm rồi tìm cách đuổi đi. Kế của tôi, trước tiên ta tỏ ra hòa hoãn dụng kế hoãn binh, chúa thượng và thượng công tạm lánh vào Gia Ðịnh củng cố lực lượng. Tôi và quan Chưởng Dinh sẽ lùi về Quảng Nam yểm trợ Cửu Dật. Nếu Trịnh có ý diệt Tây Sơn, ta rút toàn bộ lực lượng về trấn giữ Phú Yên, nhường mặt trận cho Trịnh diệt Tây Sơn. Ta ở vào thế tọa sơn quan hổ đấu. Lực lượng ta ở Gia Ðịnh còn rất mạnh, lương thảo đầy đủ thừa sức ngăn cản hoặc đánh bại kẻ địch.
Cửu Pháp phụ họa:
-Tôi vừa nhận thư Cửu Dật cho biết Lưu Thủ Gia Ðịnh Tống Phúc Hợp đã chiếm lại toàn bộ Phú Yên, bắt đầu mở những trận đánh thăm dò chuẩn bị tái chiếm Qui Nhơn. Quân Tây Sơn đã núng thế, khí thế giảm sút không được như lúc mới khởi loạn.
Phúc Loan nghe lộ vẻ an tâm, Loan nói:
-Ngay chiều nay tôi và hai ông sẽ họp quân cơ với chúa thượng, việc đã liệu nên làm gấp, chớ để nước đến chân mới nhảy.
Trên đường trở lại dinh chúa, hai tướng Phúc Thành và Cửu Pháp tiếp tục bàn mưu. Thành nói:“Hôm nay tôi sẽ dụng kế lấy bớt quân của Phúc Loan, giả lập kế hoạch rút vào Gia Ðịnh, sớm lắm hai ngày nữa mới bắt Loan được. Tham Mưu Lê (Lê Công Bình) chỉ huy cấm quân bảo vệ vương phủ là người thân tín của tôi. Gia đình y hàm ân tôi nên tôi bảo nhảy vào lửa y cũng chẳng từ. Tôi sẽ phác họa sơ kế họach với Hoàng Tôn Dương. Phần ông cứ làm như tôi đã liệu. Nếu trời còn phù Nguyễn thì việc tất thành. Ta nên bình tĩnh chớ quá lo lắng”.
Quá ngọ, chúa Ðịnh Vương cùng Quốc Phó Phúc Loan, Quận Công Phúc Thành và Chưởng Dinh Cửu Pháp họp quân cơ ở hậu cung. Bọn nội quan không được phép lai vãng. Phúc Thành tường trình tình hình quân sự cặn kẽ. Thành nói cốt để chúa và Phúc Loan yên tâm:“Tâu chúa thượng, cái đáng ngại nhất là quân Trịnh ở mặt bắc. Thần đoán Trịnh sẽ khẩn cấp đánh Phú Xuân dù ta có nhượng bộ cách nào. Tuy nhiên bước đầu ta cứ nhượng để hoãn binh, bảo vệ việc chúa thượng và thượng công rút an toàn vào Gia Ðịnh. Tôi tính số quân của ta còn bảo vệ Phú Xuân chỉ non bốn ngàn, trong đó hai ngàn ở dinh Quốc Phó, năm trăm giữ dinh chúa. Số còn lại giữ an ninh các điểm trọng yếu trong đô thành. Trong tay quan Chưởng Dinh (Cửu Pháp) còn non ba ngàn, vậy cần tăng cường cho Chưởng Dinh khoảng ngàn quân gấp kéo ra lập phòng tuyến ngăn Trịnh. Ta giữ nguyên năm trăm quân giữ dinh chúa, năm trăm giữ dinh thượng công, số quân còn lại tôi sẽ điều động khi cần trong phạm vi đô thành. Việc di chuyển vào Gia Ðịnh sẽ dụng thủy binh. Tôi dành cho vương tộc và thượng công mỗi dinh năm mươi chiến thuyền vận chuyển đồ đạc và người, ngay ngày mai xúc tiến việc chuyển những gì cần thiết nhất xuống thuyền đậu trên sông Hương sẵn sàng di chuyển. Quân cơ khẩn cấp, chớ khá chần chờ”.
Chúa và Phúc Loan bàn tính hồi lâu, thuận kế hoạch Phúc Thành đề nghị. Mờ sáng hôm sau, đám quân gác phủ chúa cũng như dinh Quốc Phó như đàn kiến tha mồi chuyển đồ xuống thuyền đến tối mịt với xong. Người ta đồn một nửa số thuyền chở toàn vàng bạc châu báu của nhà chúa và Quốc Phó. Ngày kế tiếp, Chưởng Dinh Cửu Pháp nhận thêm quân kéo ra phía bắc. Phúc Thành dặn Cửu Pháp:“Ông cho quân di chuyển chậm, ém quân trong rừng gần Phấn Dương chờ ngày mai tôi bắt Phúc Loan xong sẽ đem hắn giao nộp ngay tướng Trịnh, ông đem quân trở lại bao vây dinh Phúc Loan đề phòng đám con cháu gia nhân hắn có thể phản ứng”. Cửu Pháp y kế ra lệnh xuất quân.
Sáng hôm sau Phúc Loan thức giấc khi trời còn mờ sương, hai cha con ngồi dùng trà ở nhà sau. Phúc Thặng báo cha biết mọi việc đã ổn, lại cắt cử ba trăm quân bảo vệ đoàn thuyền cẩn mật. Số vàng bạc châu báo, vật quý liệt kê cẩn thận hàng trăm trang giấy. Loan chăm chú đọc tỏ vẻ hài lòng. Thặng đề nghị cha nên đi ngay sợ sau này tình hình bất ổn. Loan suy nghĩ giây lâu trả lời:
-Con nghĩ phải. Chiều nay cha sẽ bàn với chúa thượng việc này, chắc chắn người cũng đồng ý. Cha yên tâm bởi dù quân Trịnh chiếm được Phú Xuân thì tài sản và người nhà ta vẫn an toàn mọi mặt. Phần con khi cha đã đi, nếu thấy tình thế nguy ngập nên bỏ Phú Xuân ngay, chớ chần chờ nguy hiểm. Cha nghĩ Quảng Nam trước sau gì cũng lọt vào tay Trịnh hoặc Tây Sơn. Tốt hơn ta nên rút vào nam nhường chiến địa họ. Khi tình hình ngã ngũ, bại thắng đã phân, ta sẽ nghĩ kế chiếm lại Phú Xuân.
Xế trưa, Phúc Loan lên kiệu vào cung, hai mươi vệ sĩ dàn hàng sau trước bảo vệ chủ lên đường. Thấy Phúc Loan rời dinh, tên gia nhân dọ thám phi ngựa như bay về báo tin Quận Công Phúc Thành. Thành đang ở nội cung, lệnh Tham Mưu Lê Công Bình chẩn bị thi hành độc kế. Khi Phúc Loan một mình đi vào dãy hành lang nhỏ trong nội cung, Công Bình bất ngờ bước tới cản đường, vòng tay thi lễ:“Thượng công, chúng tôi vô lễ”. Phúc Loan đang ú ớ kinh ngạc đã bị hai võ sĩ quật ngã, trói chặt, nhét giẻ vào miệng, trùm kín người bỏ vào tù xa. Phúc Thành và Hoàng Tôn Dương bước tới xoa tay mừng rỡ nói với Công Bình:“Ngươi chuyển hắn thẳng ra hành dinh Quảng Trị giao nộp Hoàng Ngũ Phúc”. Công Bình chỉ huy đoàn quân thẳng xuống bến sông theo đường thủy ra Quảng Trị. Cùng lúc tại Phấn Dương, Chưởng Dinh Cửu Pháp kéo quân vây dinh Quốc Phó, loan tin Quốc Phó đã bị bắt, gọi đích danh Trương Phúc Thặng buộc phải đầu hàng để tránh đổ máu…
Trở lại nội cung, chúa Ðịnh Vương đang ngồi bên án thư, nôn nóng chờ Quốc Phó và Quận Công Phúc Thành tiếp tục mật nghị quân cơ, tuyệt không hay biết chuyện xảy ra bên ngoài. Nghe tiếng chân người, chúa nhìn ra cửa kinh ngạc thấy Hoàng Tôn Dương đang từ hành lang bước tới thư phòng. Chúa không hề triệu sao Dương đường đột xuất hiện, lại thấy Phúc Thành đeo kiếm theo sau. Chúa không hiểu sao Thành lại mang vũ khí vào nội cung, linh cảm có việc bất tường.
Cả hai vừa bước vào phòng, Phúc Thành lên tiếng:“Tâu chúa thượng, chúng tôi vừa lập mưu bắt Phúc Loan giao nộp tướng Trịnh. Thế quốc biến, muốn cứu nguy ta không thể làm khác”. Chúa ú ớ kinh hãi mặt như chàm đổ, muốn đứng dậy mà chân cứ khụy xuống, miệng lắp bắp hỏi “tại sao tại sao”. Hoàng Tôn Dương dõng dạc:“Chúa thượng bình tâm, Phúc Loan lòng lang dạ thú, bấy lâu thao túng triều chính, mưu toan xô ngã cơ nghiệp liệt thánh bao đời dầy công xây dựng, nay là lúc hắn phải đền tội ác. Ta mượn tay Trịnh diệt hắn là lẽ phải, có chi phải tiếc nuối?” Chúa lặng yên cúi đầu, không khí nặng nề u uất. Hai người đang đứng trước mặt mình, Quận Công Phúc Thành và Hoàng Tôn Dương, một người vai anh, một người vai cháu nhưng chẳng thân cận gần gũi chúa bằng Phúc Loan. Thậm chí chúa còn ngờ vực người cháu là Dương đang mưu đồ giành ngôi vị của mình. Nếu không có Phúc Loan, chúa chẳng bao giờ có ngôi vị hôm nay. Do vậy tuy biết Phúc Loan chuyên quyền tham lam nhưng chúa nể trọng không dám có lời phiền trách. Lát sau chúa nói:“Ta chỉ xin các ông chớ làm hại đến gia quyến người…” Phúc Thành nói:“Chúa thượng yên tâm, nay lúc dầu sôi lửa bỏng, ta nên bình tâm nghĩ cách đối phó. Tôi nghĩ chúa thượng tức tốc dâng biểu văn lên vua Lê, tờ khải chúa Trịnh và thư riêng cho Hoàng Ngũ Phúc. Ðại lược nói Tây Sơn nay suy yếu, ta dư sức tự lo liệu không nhọc công vua chúa can thiệp xem ý họ thế nào. Nếu họ tiếp tục tiến quân, ta thi hành kế sách định sẵn là rút vào Gia Ðịnh”. Chúa thở dài nói:“Tùy các ông định liệu”. Phúc Thành gọi nội giám lệnh quan Hàn Lâm vào gấp nội cung. Bên ngoài trời thẫm, bóng đêm dần lan, những ngọn nến trong phòng tỏa sáng. Quan Hàn Lâm chăm chú ngồi soạn các bản văn, đắn đo từng câu chữ. Sau nhiều lần chỉnh đi chỉnh lại, mãi đến gần giờ tý mới buông bút. Quan bắt đầu đọc rành mạch từng bản, đầu tiên biểu văn dâng vua Lê, chúa chăm chú lắng nghe”… Thuận Quảng biên thần Nguyễn Phúc Thuần cẩn tấu Hoàng Thượng vạn vạn tuế”. Biểu văn lời lẽ cung kính ngắn gọn”… Thần kính cẩn dâng lễ mọn bái tạ lòng nhân của Hoàng Thượng như trời che đất chở, cẩn tấu dâng lễ mọn vàng 30 nén”. Chúa cúi đầu thở dài. Ðến tờ khải chúa Tĩnh Ðô Vương Trịnh Sâm:“… Kẻ Biên Thần cúi đầu dâng lễ, tỏ chút lòng thành, cầu mong Vương Thượng thu nạp để đền đáp ơn cứu vớt che chở bao dung. Kính dâng vàng 20 nén”. Sau cùng là thư gửi Hoàng Ngũ Phúc:“Thuận Quảng đẳng xứ thiểm quốc thích Nguyễn Phúc Thuần kính trình Thượng Tướng Quốc Lão đài soi xét”. Chúa vừa nghe đọc hết câu, uất ức chẳng ngăn được giọt lệ long lanh khóe mắt:“Hỡi ơi, ta đường đường vị chúa phương nam, sao phải lụy người đến thế!” Hoàng Tôn Dương không nén được cảm xúc lên tiếng:“Chúa thượng chớ khá u sầu. Xưa Câu Tiễn nếm phân vua Ngô mà dựng lại nước. Chúa thượng so với cổ nhân lẽ nào chịu sút. Xin bình tâm giải quyết thế nguy cho quần thần phấn chấn tin tưởng”.
Mờ sáng hôm sau, năm mươi kỵ binh hộ tống sứ giả lên đường thẳng ra hướng bắc. Chúa lại tăng cường hàng ngàn quân tinh nhuệ cho Thống Binh Phúc Tiệp hòng ngăn quân Trịnh nếu Trịnh tiếp tục tiến binh. Khi sứ giả gặp Hoàng Ngũ Phúc dâng thư và hai trăm lạng vàng làm lễ khao quân. Phúc vui vẻ nhận, nói với sứ giả:“Giặc Tây Sơn chưa dẹp xong nên chưa thể lui quân, sẽ hội quân ở Phú Xuân mưu kế đánh dẹp”. Hai ngày sau, Phúc ra lệnh tiến binh. Tướng tiên phong Hoàng Phùng Cơ dễ dàng đánh tan quân Thống Binh Phúc Tiệp, thẳng đường tiến vào Phú Xuân…
Tại Phú Xuân, chúa Ðịnh Vương liên tiếp nhận tin thua trận. Ðám võ tướng người tử trận, kẻ đầu hàng. Dân quân nhốn nháo, mọi sinh hoạt ngừng trệ. Ðã có một số quan lại đem gia đình bỏ trốn về vùng quê, hoặc dùng thuyền đi về phía nam lánh nạn. Dân chúng lo trữ thóc gạo, đám du thử du thực tụ tập cướp phá. Ngay dinh Quốc Phó cũng bị hàng trăm tên dùng gậy gộc cuốc xẻng xông vào đánh lính canh hôi của. Phú Xuân hỗn loạn, chẳng còn ai nghĩ đến chuyện cúng tiễn Táo Quân về chầu trời.
Hai hôm sau, Hoàng Tôn Dương theo lệnh chúa bảo vệ số đông vương tộc theo đường bộ rút vào Quảng Nam. Ngày hai mươi bảy, chúa nghĩ đã đến lúc phải bỏ Phú Xuân, đích thân chúa cùng trăm cấm binh hộ tống đến chùa Phúc Thành bên bờ sông An Cựu, nơi mẫu thân (tức phu nhân Ngọc Cầu) đang tu trì khẩn khoản mời mẹ vào cung chuẩn bị lên đường. Từ ngày chúa Võ Vương mất, phu nhân buồn sự thế,cho trùng tu cảnh chùa hôm sớm vui cùng lời kệ câu kinh. Phu nhân nói:“Mẹ đã già, tâm nguyện xa lánh phàm trần nương náu cửa Phật, con cứ yên tâm ra đi lo việc nước. Ðưa mẹ theo ích chi, chỉ làm quẩn bước chân”. Biết không thể lay chuyển lòng mẹ, chúa khóc lạy từ biệt…
Cũng ngày ấy tại nhà Nguyễn phu nhân, quả phụ Quận Công Nguyễn Phúc Luân. Căn nhà nằm ven ông Hương, cách dinh chúa non hai dặm đường. Căn nhà vắng lặng được bao bởi hàng rào dâm bụt. Bên trong là vườn nhãn xum xuê bốn mùa xanh lá. Cụm mai trước nhà năm ấy nở vội như sợ mất mùa xuân. Những cánh hoa thản nhiên nhởn nhơ trước gió… Trong nhà, phu nhân vừa khóc, vừa soạn quần áo cho vào chiếc tay nải, hành trang của cậu con trai mười bốn tuổi Nguyễn Phúc Ánh. Ánh sẽ theo chúa vào Gia Ðịnh nay mai. Phu nhân biết chuyến đi hệ trọng, có thể là lần vĩnh biệt đứa con yêu quý. Phúc Ánh cặm cụi lau chùi xong thanh báu kiếm gia truyền từ hiên sau bước vào nhà. Thấy mẹ khóc, Ánh nói:“Hoàn cảnh buộc như thế, mẹ than khóc càng thêm não lòng con trẻ ra đi. Xin mẹ nén lòng, con đi rồi con sẽ về. Phú Xuân là đất liệt thánh dựng nghiệp quyết không thể bỏợ…” Ánh dơ cao thanh kiếm, ánh mắt cương nghị tự tin nhìn lưỡi thép xanh loang loáng chém sắt như bùn. Ánh nhìn lên bàn thờ có bài vị phụ thân nói tiếp:“Ðã ba đêm, đêm nào con cũng mơ thấy cha về. Cha không nói, trìu mến nhìn con, trao báu kiếm rồi quay gót. Con tin cha hiển linh hằng phù hộ mẹ con mình”. Phu nhân nhìn con, thiếu niên mới mười bốn nhưng thân hình vững chắc, tác phong đĩnh đạc như đã mười chín đôi mươi. Phu nhân đến ngồi trên sập gụ ra dấu Ánh ngồi cạnh:“Con sắp rời mẹ, lòng già đứt ruột. Nay đến lúc mẹ tỏ thật cùng con chuyện nhà bấy lâu dấu kín. Mười năm trước, khi ông nội từ trần ( chúa Võ Vương), người để di chiếu chọn cha con làm người kế vị. Phúc Loan gian ác cấu kết với bọn quyền thần sửa di chiếu, vu cha con tội phản nghịch tống giam ngục tối, đặt Phúc Thuần lên ngôi cao. Mấy tháng sau hắn thả cha con, người về được ít lâu lo buồn vong mệnh…” Phu nhân nói đến đấy nghẹn lời. Có tiếng vó ngựa dồn dập ngoài ngõ. Phúc Ánh biết đám cấm quân vâng mệnh chúa đến đón mình vào dinh chuẩn bị lên đường.
Viên đội trưởng bước vào nhà cung kính chào phu nhân, nói vâng mệnh chúa đến đón công tử vào dinh. Phu nhân khẽ gật đầu, bước tới bàn thờ chồng thắp hương đèn. Giữa ánh nến lung linh, hương trầm dần lan. Phúc Ánh thắp hương quỳ lạy trước bàn thờ thân phụ. Khấn vái xong Ánh đứng dậy, phu nhân khóc lớn. Ánh nghẹn ngào lạy mẹ, đeo kiếm khoác tay nải bước thẳng ra ngõ…
Ngày cuối năm Giáp Ngọ 1774, khi màn đêm buông bao phủ đô thành Phú Xuân thê lương vắng lặng. Chúa Ðịnh Vương cùng đoàn tùy tùng hơn trăm người lặng lẽ xuống thuyền. Ðầu canh ba, giờ giao thừa linh thiêng, đoàn thuyền đã xa bờ lênh đênh trong đêm đen gió lộng sóng gầm. Chúa bắt đầu thắp hương cúng liệt thánh. Ánh nến khi leo lét, khi bập bùng theo triều sóng nhấp nhô. Chúa bỗng nhớ những xuân xưa, giờ là lúc quần thần tụ họp chúc thọ chúa. Khắp đô thành Phú Xuân, tiếng pháo nổ vang đón chào xuân mới. Lòng người rộn rã reo vui trong cảnh thái hòa. Nay còn đâu!! Nghĩ đến đấy chúa cầm lòng chẳng nổi, nước mắt ngắn dài… Phúc Ánh tới gần bàn thờ quỳ lạy niệm hương, lễ xong lạnh lùng đeo kiếm bước ra mũi thuyền. Ánh nắm chặt chuôi kiếm, tia mắt long lanh nhìn xé màn đêm. Nào ai biết đó là lúc tận đáy lòng sâu thẳm, Nguyễn Phúc Ánh đang nói lời nguyền:“Phú Xuân, nay tạm chia ly mai ngày ta trở lại. Than khóc chi thêm nhục nhã. Chỉ có máu, máu kẻ thù mới rửa sạch mối hận này!”
***
Phú Xuân thất thủ. Con đường sắp tới chúa tôi họ Nguyễn phải trải qua đầy bất trắc gian nguy. Tây Sơn hòa Trịnh, dồn nỗ lực diệt Nguyễn. Ðám danh tướng Tây Sơn như Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng… mặc sức tung hoành trên khắp chiến trường Gia Ðịnh, đánh quân Nguyễn nhiều phen tơi tả. Lần lượt chúa Ðịnh Vương và Hoàng Tôn Nguyễn Phúc Dương Dương bị thảm sát. Nguyễn Phúc Ánh mới mười bảy tuổi được tôn làm Ðại Nguyên Súy nhiếp quốc chính. Quân Nguyễn vẫn không đương cự nổi sức mạnh Tây Sơn. Ðại Nguyên Súy Ánh gian lao khổ cực, bị lùng diệt phải trốn chạy khắp vùng châu thổ Cửu Long, trôi giạt qua nhiều hải đảo vùng vịnh Xiêm La, bao phen thoát chết trong đường tơ kẽ tóc như phép lạ. Vị chỉ huy trẻ tuổi Nguyễn Phúc Ánh trưởng thành trong gian truân máu lửa, trong thù hận ngút trời… Chất liệu biến Ánh thành con người quyền biến bản lĩnh, quyết định tàn nhẫn lạnh lùng miễn đạt được mục đích. Ánh phiêu dạt sang Xiêm La, cầu cứu vua Xiêm đem trên hai vạn quân về nước lại bị Nguyễn Huệ đánh tan tác mảnh giáp không còn. Ánh lại nương nhờ Giám Mục người Pháp Bá Ða Lộc đem con trai của mình Nguyễn Phúc Cảnh mới bốn tuổi sang cầu viện chính phủ Pháp, hứa dành cho Pháp nhiều quyền lợi sau này…
Hữu chí cánh thành, vận may mỉm cười với Ánh. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ băng, vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc cũng từ trần. Người nối nghiệp Tây Sơn, vua Cảnh Thịnh nhu nhược, triều đình Tây Sơn bè phái chia rẽ mở đường thênh thang cho Phúc Ánh khôi phục cơ đồ.
Kể từ đêm giao thừa năm Giáp Ngọ 1774, đã hai mươi sáu năm Phúc Ánh rời Phú Xuân. Mùa hạ năm Tân Dậu 1801, thiếu niên năm xưa thực hiện đúng lời nguyền trở lại chốn cũ, không là kẻ chạy trốn, mà với tư cách kẻ chiến thắng cuối cùng…