Trang chủ » Việt Nam Cộng Hoà

Category Archives: Việt Nam Cộng Hoà

Chúc Mừng Giáng Sinh & Năm Mới 2026

Phân Ưu Ông Nguyễn Phước Bửu Khương K3

Phân Ưu Bào Tỷ Ông Phạm Quang Thành K22

Phân Ưu Ông Dương Tuấn Việt K23

(Bản Cáo Phó được chụp lại từ máy điện toán)

Made in Việt Nam—Tiểu Tử

 

Lẽ ra bữa nay bác sĩ Lê không nhận bịnh nhân vì là ngày nghỉ trong tuần của ông. Nhưng hôm qua, trong điện thoại, nghe giọng cầu khẩn của người bịnh ông không nỡ từ chối. Người đó – ông đoán là một cô gái còn trẻ – nói chuyện với ông bằng tiếng Mỹ. Cô ta hỏi ông nhiều lần:

– Có phải ông là bác sĩ Lee không?

Tên ông là Lê. Cái tên Việt Nam đó ở xứ Mỹ này người ta viết là “Lee”, nên ông được gọi là “ông Lee” ( Li ).

Ông ôn tồn trả lời nhiều lần:

– Thưa cô, phải. Tôi là bác sĩ Lee đây.

– Phải bác sĩ Lee chuyên về châm cứu và bắt mạch hốt thuốc theo kiểu á đông không?

– Thưa cô phải.

– Có phải phòng mạch của bác sĩ ở đường Green Garden không ?

Bác sĩ Lê, đã ngoài sáu mươi tuổi, tánh rất điềm đạm, vậy mà cũng bắt đầu nghe bực! Tuy nhiên, ông vẫn ôn tồn:

– Thưa cô phải. Xin cô cho biết cô cần gì?

Giọng cô gái như reo lên:

– Vậy là đúng rồi! Con Cathy bị bịnh suyễn nói bác sĩ chữa bịnh hay lắm. Cả nhà nó, kể luôn ba má ông bà nó đều đi bác sĩ hết.

Đến đây thì ông bác sĩ già đó không kềm được nữa, ông xẵng giọng:

– Cám ơn cô. Bây giờ xin dứt khoát cho tôi biết coi cô muốn cái gì?

Giọng bên kia đầu dây như lắng xuống:

– Tôi xin lỗi bác sĩ. Xin lỗi. Tôi muốn xin bác sĩ cái hẹn cho ngày mai. Tôi bịnh…

– Mai là ngày nghỉ trong tuần, phòng mạch không có mở cửa. Ngày khác vậy.

– Ngày mai cũng là ngày nghỉ của tôi nữa, bác sĩ à.

– Cô đã bịnh thì cứ xin nghỉ để đi bác sĩ, ngày nào lại không được!

Một chút im lặng ở đầu dây bên kia rồi giọng người con gái bỗng nghe thật buồn:

– Họ đâu có cho nghỉ, bác sĩ. Họ nạt vô mặt: “Mầy muốn nghỉ thì mầy nghỉ luôn đi. Thiếu gì đứa muốn vào làm chỗ của mày. Mày biết không?”

Giọng nói như nghẹn ngang ở đó, rồi tiếp:

– Không có việc làm là chết, bác sĩ à…

Ông bác sĩ già làm thinh, suy nghĩ. Đầu dây bên kia, cô gái van lơn:

– Xin bác sĩ thông cảm. Tôi sợ bịnh nặng hơn, không đi làm nổi nữa là mất việc. Xin bác sĩ thông cảm. Xin thông cảm.

– Ờ thôi, để tôi ráng giúp cô. Sáng mai, chín giờ. Phòng mạch của tôi ở số…

– Cám ơn bác sĩ. Cám ơn! Con Cathy có chỉ phòng mạch của bác sĩ rồi.

– Xin lỗi. Cô tên gì?

– Kim. K, I, M.

Bác sĩ Lê vừa ghi vào sổ hẹn vừa nghĩ: “Tội nghiệp! Chắc lại đi làm lậu nên mới bị người ta hâm he như vậy. Theo cách phát âm thì cô này có vẻ là người á đông. Tên Kim chắc là Đại Hàn. Để mình phải phone lại cô Cathy hỏi cho chắc ý kẻo gặp thứ lưu manh thừa dịp ngày nghỉ không có cô phụ tá, nó ‘su’ mình thì khổ!”

Đúng chín giờ, chuông cửa phòng mạch reo. Ông bác sĩ già bước ra mở cửa. Đứng trước mặt ông là một cô gái á đông còn trẻ, ăn mặc theo kiểu “punk”: quần áo có tua có tụi, tóc dựng đứng hỗn loạn như con gà xước, đeo nhiều vòng sên bằng bạc to như dây lòi tói, đầy cổ đầy hai cườm tay, mang cái xắc đỏ cũng có tua có tụi. Bác sĩ Lê, quá đỗi ngạc nhiên, chưa kịp hỏi gì, thì cô gái nói bằng tiếng Mỹ rất lưu loát:

– Chào bác sĩ. Tôi là Kim, bịnh nhân đã gọi điện thoại cho ông hôm qua. Tôi có làm cho bác sĩ chờ không?

Bác sĩ Lê chưa hết ngạc nhiên, trả lời một cách máy móc: “Không! Không!”. Rồi ông bước tránh qua một bên: “Mời cô!”

Vào phòng mạch, ông đưa cho cô cái áo blouse trắng ngắn tay:

– Cô đến phía sau bình phong bỏ hết quần áo chỉ mặc quần lót thôi, rồi khoác ngược áo blouse này, lưng áo nằm về phía trước.

Trong lúc cô gái loay hoay làm theo lời dặn, ông bác sĩ già gọi phone về nhà, nói bằng tiếng Việt:

– Bịnh nhân của anh tới rồi, đang thay đồ. Chắc một giờ nữa là xong. Em đợi anh về rồi mình đi chợ.

Cô gái bỗng ló đầu ra khỏi bình phong mỉm cười nhìn ông, gương mặt thật rạng rỡ, định nói gì nhưng rồi không nói, thụt đầu vào tiếp tục cởi quần áo.

Một lúc sau cô ta bước ra, mắt ngời lên sung sướng, nói bằng tiếng Việt, giọng như reo lên:

– Bác sĩ là người Việt Nam mà con cứ tưởng là người Tàu! Tên “Lee” nghe Tàu trân!

– Ủa! Vậy mà tôi cứ nghĩ cô là người Đại Hàn chớ!

Rồi cả hai cùng cười, cái cười rất sảng khoái. Tình đồng hương trên đất khách bỗng thấy thật ấm, thật đầy… Ông bác sĩ già nhìn cô bịnh nhân trẻ mặc áo blouse trắng đứng trước mặt ông mà không còn thấy cô gái “punk” hồi nãy nữa!

Ông đưa cho cô cái dĩa, rồi vừa chỉ cái giường cao vừa nói:

– Cô cởi hết đồ nữ trang để vào đây, rồi lên nằm trên này để tôi chẩn mạch.

Cô gái làm theo như cái máy.

Phòng mạch được trang trí rất đơn sơ, nhưng thật yên tịnh. Trong không khí có mùi thơm dìu dịu của moxa ( ngải cứu, đốt lên để hơ huyệt ). Cái giường khám bịnh cao ngang tầm tay của bác sĩ. Ở một đầu giường có gắn thêm một vòng bằng da để chịu cái đầu của bịnh nhân, và khi bịnh nhân nằm sấp để châm cứu trên lưng thì mặt người bịnh nằm trọn trong vòng da. Như vậy, người bịnh không cảm thấy khó chịu nhờ khoảng trống ở giữa vòng da giúp người bịnh vẫn thở đều đặn và mắt được nhìn thoải mái xuống sàn nhà.

Bác sĩ đặt hai bàn tay lên cánh tay trần của cô gái, ôn tồn hỏi:

– Cô bịnh làm sao? Nói tôi nghe.

– Con ngủ không được, đêm nào cũng trằn trọc tới khuya. Hay bị chóng mặt. Đang đứng làm việc, tự nhiên muốn sụm xuống làm sợ toát mồ hôi. Con lo quá, bác sĩ. Mất việc làm chắc con chết quá, bác sĩ!

Ông Lê bóp nhẹ cánh tay bịnh nhân:

– Cô yên tâm. Có tôi đây. Mà…cô có uống rượu không?

– Không. Dạ thưa không.

– Cô có hút thuốc không ?

– Dạ thưa có. Hút cũng nhiều…

– Cô có xì ke ma túy gì không? Nói thiệt tôi nghe.

– Mấy thứ đó con không dám rớ. Hồi ở bên nhà thằng anh con chết vì ba cái thứ ôn dịch đó, bác sĩ à. Vì vậy, con sợ lắm!

– Cô le lưỡi tôi coi.

Bác sĩ khom xuống nhìn rồi nói:

– Ùm. Được rồi. Bây giờ cô nằm yên, để hai tay xuôi theo thân mình, nhắm mắt, thở đều đặn.

Ông bác sĩ già đứng cạnh giường đặt mấy đầu ngón tay lên cườm tay cô gái, chăm chú bắt mạch. Một lúc sau, ông bước vòng qua phía đối diện bắt mạch tay bên kia. Bộ mạch nói lên một sự rối loạn tâm thần. Cô gái này chất chứa quá nhiều ẩn ức nên sanh bịnh. Ông nhìn cô gái đang nhắm mắt thở đều: gương mặt Việt Nam đó, bỏ đi món tóc “punk”, vẫn toát ra nét nhu mì dễ thương. Ông cảm thấy tội nghiệp cô bịnh nhân trẻ này và thắc mắc không biết hoàn cảnh nào đã đưa đẩy cô ta trôi qua xứ Mỹ để có một cuộc sống mà ông đoán là thật bấp bênh, qua cuộc nói chuyện trong điện thoại. Ông nói:

– Bây giờ, cô nằm sấp xuống để tôi châm trên lưng.

Cô gái mở choàng mắt nhìn ông, mỉm cười, một nụ cười đầy tin tưởng. Ông bác sĩ nói tiếp:

– Cô đừng sợ. Châm không có đau. Còn nhẹ hơn kiến cắn nữa.

Cô gái trở mình nằm sấp, hai vạt áo blouse rớt xuống hai bên, bày ra cái lưng thon thon với nước da ngà ngà. Theo thói quen, trước khi châm, bác sĩ vuốt lưng bịnh nhân vài lần để bịnh nhân đỡ bị stress. Lần này, khi vuốt xuống thắt lưng, ông để ý thấy dưới làn vải mỏng của quần lót có một vết bầm nằm vắt ngang phía trên của mông. Ngạc nhiên, ông hỏi:

– Cô bị ai đánh hay sao mà bầm vậy?

Cô gái cười khúc khích:

– Bác sĩ coi đi!

Ông già kéo quần lót xuống một chút, thì ra không phải vết bầm mà là hàng chữ xâm màu chàm: Made In VietNam! Ông bật cười, vừa kéo lưng quần lót lên vừa nói:

– Cha… Bạo quá há!

Cô gái hơi rút cổ cười khúc khích vài tiếng nữa rồi im. Chắc cô đang sống lại với một vài kỷ niệm nào đó. Ông bác sĩ già áp hai lòng bàn tay lên lưng bịnh nhân, nhưng bây giờ sao ông không còn thấy cười được nữa. Hàng chữ “Made In VietNam” nhắc cho ông rằng con người nằm đây là sản phẩm của quê hương ông, cái quê hương đã mấy chục năm xa cách, cái quê hương mà ở đó ông không còn ai để nhớ, nhưng ông còn quá nhiều thứ để nhớ. Những thứ cũng mang dấu ấn “Made In VietNam”, từ con trâu cái cày, từ mảnh ruộng vườn rau, từ hàng cau rặng dừa, từ con đường đất đỏ đến con rạch nhỏ uốn khúc quanh quanh… Chao ơi! Bỗng nhiên sao mà nhớ thắc thẻo đến muốn trào nước mắt…

Ông bác sĩ vuốt lưng cô bịnh nhân thật chậm để cho niềm xúc động lắng xuống tan đi. Ông có cảm tưởng như ông đang sờ lại được quê hương, có chỗ cao chỗ thấp, có phù sa đất mịn… Tự nhiên, ông muốn nói lên một tiếng “cám ơn”. Ông muốn cám ơn cô bịnh nhân đã mang quê hương đến với ông bằng hàng chữ nhỏ xâm trên bờ mông, chỉ vỏn vẹn có một hàng chữ nhỏ. Và ông cũng muốn nói với cô, nói một cách thật tình, không văn chương bóng bẩy, nói như ông nói cho chính ông, vỏn vẹn chỉ có một câu thôi: “Tôi cũng made in VietNam đây!”. Nhưng rồi ông làm thinh tiếp tục vuốt lưng người bịnh. Ông biết rằng cô gái không thể nào hiểu được ông, một bác sĩ già vừa quá sáu mươi, đã gần nửa tuổi đời lưu vong trên xứ Mỹ, có đầy đủ tiền tài danh vọng mà cũng xâm hàng chữ “Made In VietNam”, xâm ở trong lòng…

Bác sĩ im lặng dò huyệt châm kim. Bỗng cô bịnh nhân nói, giọng buồn buồn, làm như cô vừa xem lại hết một đoạn phim đời nào đó:

– Thằng bồ của con xâm cho con để làm kỷ niệm hồi tụi này còn ở Louisiana. Ảnh là thợ xâm…

– Ủa ! Rồi sao bây giờ cô ở đây?

– Con theo ba má con dọn về Cali, ổng bả nói ở Cali bạn bè nhiều làm ăn dễ.

– Ờ… người Việt mình thích ở miền nam Cali lắm.

Ngừng một chút bác sĩ lại nói, trong lúc hai tay vẫn tiếp tục châm kim:

– Ở Cali khí hậu tốt hơn nhiều tiểu bang khác. Mà… ba má cô làm gì?

Cô gái làm thinh một lúc mới trả lời, giọng ngang ngang:

– Qua đây rồi ổng bả đá đít nhau. Bả lấy thằng Mễ chủ pressing, còn ổng thì chó dắt ổng ôm được một bà Mỹ goá chồng có tài sản.

– Vậy rồi cô ở với ai?

– Với ba con. Bà Mỹ cho con đi học college, ba con lái xe đưa rước.

– Vậy mà sao hôm qua, trong phone, cô nói cô đi làm?

Giọng cô gái như nghẹn lại:

– Khổ lắm bác sĩ.

Cô ngừng một chút để nén xúc động rồi nói tiếp:

– Ba con ỷ có bà Mỹ nuôi, không chịu đi làm. Tối ngày cứ đi nhậu với bạn bè, rồi nay đổi xe, mai đổi xe… Con nói ổng, chẳng những ổng không nghe mà còn chửi con: “Tiên Tổ mày! Tao đem mày qua đây đặng mày dạy đời tao hả!”

Lại ngừng một chút mới nói được, nói như trút hết ẩn ức còn lại:

– Có lần ổng xáng cho con mấy bạt tay đau điếng…

Rồi nghẹn ngào:

– Lần đó, con bỏ nhà đi hoang…

Nói xong, hít một hơi thật sâu rồi thở hắt ra một cái như vừa làm xong một việc gì thật khó!

Ông bác sĩ im lặng, tiếp tục châm, mà nghe thương hại cô bịnh nhân vô cùng. Cô ta cỡ tuổi con gái út của ông. Con gái út của ông đang học đại học, còn cô này thì đang sống trong hoàn cảnh quá bấp bênh. Cả hai đều Made In VietNam hết!

Châm xong, ông đặt tay lên cánh tay trần của bịnh nhân, vuốt vuốt như vuốt tay một đứa con đang cần được vỗ về an ủi:

– Cô cứ nằm yên như vầy độ mười lăm phút, nghen.

Tiếng “dạ” bỗng nghe như đầy nước mắt.

Sau khi gỡ kim, ông bác sĩ bóp tay bóp chân bịnh nhân một lúc rồi nói:

– Bây giờ thì cô mặc quần áo vào được rồi.

Cô gái ngồi lên nói “cám ơn” mà đôi mắt vẫn còn mọng nước. Cô bước vào sau bình phong, chậm rãi mặc quần áo, làm như cô muốn những xúc cảm hồi nãy có thời gian để thấm sâu vào lòng…

Khi cô bước ra, gương mặt cô đã trở lại rạng rỡ. Cô mỉm cười nhìn ông bác sĩ, rồi, vừa mở cái xắc đỏ vừa hỏi:

– Bao nhiêu vậy, bác sĩ?

– Không có bao nhiêu. Chừng chữa xong rồi cô hãy trả.

– Bác sĩ cho con trả mỗi lần, chớ đợi hết bịnh, tiền đâu con trả. Cái thứ đi làm lậu như con…

– Cô yên tâm. Rồi mình tính.

Ông bác sĩ đưa dĩa nữ trang:

– Cô đừng quên mấy thứ này.

Cô gái phì cười, không đeo vào người mà trút hết vào xắc, rồi hỏi:

– Chừng nào con trở lại nữa, bác sĩ?

– Tuần tới, cũng ngày này giờ này.

Bác sĩ mở tủ thuốc, chọn lấy ra hai chai có dán nhãn sẵn, trao cho bịnh nhân:

– Trên nhãn có ghi liều lượng: mỗi ngày, cô uống sáng trưa chiều, mỗi thứ hai capsule.

Ra đến cửa phòng mạch, ông bác sĩ già cầm bàn tay cô bịnh nhân trong hai bàn tay của ông, lắc nhẹ:

– Bớt hút thuốc đi, nghen! Từ từ rồi tôi sẽ chữa cho cô vụ ghiền thuốc nữa.

Ngập ngừng một chút rồi ông nói, giọng ôn tồn:

– Tôi muốn nói với cô điều này…

Cô gái chớp chớp mắt chờ. Chắc là lần đầu tiên cô được một ông già cầm tay một cách ân cần như vậy. Bác sĩ nói:

– Mình là người Việt Nam, ăn mặc theo “punk” không hạp với con người với bản chất của mình chút nào hết. Cô đâu có xấu mà cô làm cho xấu đi, uổng lắm! Mình phải xứng đáng là Made In VietNam, chớ cô.

Cô gái nhìn vào mắt ông bác sĩ, không nói gì hết, chỉ siết tay ông già một cái thật mạnh, rồi bước ra xe, một chiếc xe hơi cũ mèm phải đề tới bốn lần mới nổ máy!

o O o

Ông bác sĩ Lê ngồi uống cà phê với tôi ở khu Phước Lộc Thọ (Orange County – Nam Cali). Ông kể tiếp:

– Anh biết không, lần sau cô Kim đến phòng mạch, ăn mặc chải gỡ rất dễ thương. Chẳng có chút gì “punk” hết! Lần khám bịnh đó, tôi có hỏi cổ sao không về sống với thằng bồ ở Louisiane có phải hơn là sống cù bơ cù bất ở Cali. Cổ nói như mếu: “Ảnh có vợ rồi”. Tôi biết: như vậy là cổ kẹt thiệt. Tôi đem chuyện này kể cho vợ tôi nghe. Bả cảm động lắm nên đề nghị giúp tiền cho cổ học một cái nghề gì đó, uốn tóc, làm nail chẳng hạn, để có công ăn việc làm vững chắc hơn là đi làm lậu tầm bậy tầm bạ.

Tôi nói chen vào:

– Chắc gì cổ chịu. Nghe anh kể, tôi đoán chị này cũng tự ái lắm.

– Anh nói đúng. Cổ từ chối hoài. Sau nhờ vợ tôi mời cổ về nhà khuyên nhủ, coi như là trong thân tình, cổ mới chịu. Hôm đó, cổ ôm vợ tôi vừa khóc vừa nói: “Con cám ơn ông bà. Cám ơn ông bà”.

– Sau đó cổ có đi học thiệt không?

– Có. Học làm nail. Học giỏi nữa là khác.

– Cổ bây giờ ra sao rồi?

– Mới đầu làm thợ, làm công cho người ta. Bây giờ vừa làm thợ vừa làm chủ. Khá lắm!

– Mừng cho cổ, há!

– Cổ xách đồ nghề tới làm nail cho vợ tôi, con út và hai con dâu tôi thường lắm. Làm không lấy tiền. Cổ cứ nói với mấy con tôi: “Tôi chịu ơn ông bà bác sĩ biết đời nào mới trả cho hết, mấy cô biết không? Tôi không dám nói ra, chớ mỗi lần tôi cầm bàn tay của bà bác sĩ để làm nail, tôi vẫn nghĩ không có bàn tay này thì làm gì tôi thoát ra khỏi hoàn cảnh của tôi hồi đó để có những gì tôi có hôm nay…”

– Dễ thương quá!

– Noel, ngày Tết… cổ đều mang quà đến tặng vợ chồng tôi.

– Con người ở có tình có nghĩa quá, anh há!

– Đã hết đâu! Cổ còn nhớ đến ngày giỗ của ba má tôi nữa. Mấy ngày đó tụi con tôi có đứa quên chớ cô ta không bao giờ cô ta quên. Ngày đó, cô đem đồ tới cúng và ở lại phụ vợ tôi nấu nướng dọn giẹp nữa. Cho nên vợ tôi quí cô ta lắm!

Nói xong, bác sĩ Lê vỗ vai tôi, cười:

– Anh thấy không? Cô ta mới đúng là “Made In VietNam” đó! Còn nguyên chất, hè!

Ông Lê vui vẻ cầm tách cà phê vừa nhâm nhi vừa nhìn quanh. Người Việt Nam đi đầy trong thương xá. Cung cách có hơi khác nhưng nói năng thì y hệt như ở bên nhà. Một vài tiếng chửi thề rớt rơi đây đó, nghe rất tự nhiên. Bỗng ông quay sang hỏi tôi mà nghe như ổng tự hỏi ổng:

– Không biết ở xứ Mỹ này, đồng hương lưu vong, có ai lâu lâu nhớ lại rằng mình “Made In VietNam”, không?

– Có chớ anh! Nhưng cũng có người chẳng những không nhớ mà còn tự đóng cho mình con dấu “Made In USA” nữa, anh à. Thứ đó bây giờ thấy cũng nhiều !

Tôi đưa tách lên môi uống ngụm cà phê cuối cùng, bỗng nghe cà phê sao mà thật đắng…

Tiểu Tử

 

Phân Ưu Thân Mẫu Ông Nguyễn Thành Sang K28

Phân Ưu Ông Nguyễn Hữu Xuân K17

(Bản Cáo Phó được chụp lại từ máy điện toán)

Happy Thanksgiving

Phân Ưu Cháu Nguyễn Tấn Hải K25/2

Phân Ưu Ông Đặng Văn Thái K15

Phân Ưu Ông Hoàng Trọng Đức K27

Tình Bidong—Nguyễn Thị Hải Hà

Khi tôi thức giấc bác Hải đã đi rồi vì tôi thấy xe của Bác không còn đậu trước sân. Tôi hỏi mẹ.

– Mẹ có thấy bác Hải hơi weird không?

– Kỳ cục như thế nào? Đêm qua con và bác thức khuya quá, to nhỏ cả đêm. Thế con có ghi nhận được gì để viết không?

– Weird ở chỗ bác thoa kem dưỡng da lên mặt lên cổ, cả bàn tay nữa. Móng tay của Bác cũng được cắt và sơn bóng nữa. Từ trước đến nay Bác là người đàn ông đầu tiên con biết làm đẹp kỹ như thế.

– Thoa kem dưỡng da thì có ăn nhằm gì. Chẳng những nhuộm tóc, bác còn cắt mỡ mi mắt, chích Botox, nip and tuck nữa chứ. Bác cố giữ cho trẻ mãi không già.

– Bác vẫn chưa lập gia đình hả mẹ?

– Chưa. Bác chẳng chịu ai mà cũng chẳng ai chịu Bác.

Bác Hải có họ hàng xa với gia đình tôi nhưng tôi chẳng biết quan hệ như thế nào. Người Việt tôn ti trật tự đủ thứ kiểu xưng hô, tôi chỉ biết Bác là uncle vì mẹ tôi bảo thế. Bác Hải tính ra có lẽ đã hơn sáu mươi, nhìn Bác khó mà đoán tuổi. Tóc bác đen nhánh nhưng đã thưa. Da mặt Bác không có nếp nhăn nhưng không còn trẻ khỏe. Bác trắng đến nhợt nhạt, tuy thế nhìn Bác vẫn thấy được một người đã có một thời tuấn tú. Trông Bác tôi tưởng tượng Keanu Reeves khi về già cũng sẽ giống như Bác. Tôi muốn tìm hiểu về boat people, về cuộc sống của thuyền nhân ở trại tị nạn. Mẹ tôi không muốn nói chuyện quá khứ, “vì nó u tối, buồn bã, và mẹ không đủ tiếng Anh để nói.” Mẹ đề nghị tôi nói chuyện với bác Hải vì chẳng những Bác đã từng sống ở đảo Bidong, Bác còn có thể kể có ngạnh có nguồn vì bác thường hay viết văn viết báo. Tối qua bác Hải đến thăm gia đình tôi và mẹ tôi mời Bác ăn cơm tối.

Bác Hải ra sân sau ngồi hút thuốc. Tôi giúp Mẹ sắp chén đĩa vào máy rửa chén. Sau đó tôi mang chai wine còn hơn phân nửa ra ngồi nói chuyện với Bác. Để tránh muỗi tôi nhóm lửa trong cái chậu sành to, và để có thể ngồi lâu, tôi mang ra lạc rang và mực sấy. Bác Hải ôm cây đàn gỗ của tôi khảy chập chùng một bản nhạc quen thuộc.

– Bài gì thế bác?

– Biển Nhớ.

Bác rít một hơi thuốc. Đốm lửa làm mặt bác ửng hồng trong bóng tối. Sau lưng bác là rừng, mấy bụi hoa kim ngân vừa bắt đầu nở, hương thơm dìu dịu trong đêm hè. Đom đóm bắt đầu bay lập lòe.

– Chắc Bác có nhiều kỷ niệm với bài hát này, nhất là thời gian bác ở đảo Bidong? Cháu muốn tìm hiểu về cuộc sống của những người ở đảo bác có thể kể cháu nghe không?

– Chuyện dài lắm kể bao giờ cho hết. Những chuyện thật sự đáng kể lại cho con cháu nghe là những chuyện đã nằm dưới lòng biển sâu. Còn chuyện của bác thì chỉ là kỷ niệm riêng tư nhỏ bé.

Bác Hải kể. Tôi chép lại trí nhớ của bác Hải theo trí nhớ của tôi. Nếu đây là một câu chuyện có thật thì sự thật này đã bị méo mó theo thời gian và trí nhớ của người kể cũng như người nghe. Tôi tên là David, sinh năm 1981.

*****

Người Việt tỵ nạn cộng sản đến được đảo Pulau Bidong

Bidong là một hòn đảo nhỏ ngoài khơi Mã Lai, diện tích chừng một kí lô mét vuông. Cuối thập niên bảy mươi đầu thập niên tám mươi, có lúc đảo chứa độ bốn mươi ngàn người tị nạn. Có khi hơn. Mật độ đông người hơn cả Thượng Hải hay thành phố New York gấp mấy lần. Đi đâu cũng thấy người chen chúc. Đảo được chia ra nhiều khu. Khu A, B, C, và D  có bãi biển cát trắng, cạn và lài có thể tắm được. Khu A và B có chỗ cho tàu chở người tị nạn, xà lan chở thức ăn và thuốc men cập bến. Dọc theo bãi biển khu A và B, dẫn đến chỗ ở của Cao Ủy có hàng dừa rợp bóng. Dưới hàng dừa này người ta họp chợ bán cá tươi mới vừa lưới được. Trên đảo có bệnh viện do các bác sĩ ngoại quốc và Peace Corp đến giúp. Khu C và D có nhiều hàng quán cà phê, cửa hàng bán vải. Trên đảo có chùa, nhà thờ, thư viện chứa một số sách tiếng Anh, và một xưởng kỹ thuật dạy nghề cho dân sống trên đảo chờ ngày đi định cư. Dù cuộc sống tạm bợ và thiếu thốn, người tị nạn cố gắng thiết lập một xã hội nho nhỏ mô phỏng cái xã hội miền Nam họ vừa bỏ lại sau lưng.

Từ ngoài khơi nhìn vào, đảo được viền bằng những cái hộp vuông nhiều màu phần lớn là màu xanh. Xanh dương đậm ngã sang tím sẫm, xanh nước biển, xanh aqua, xanh turquoise, xanh da trời, xanh trứng sáo, và xanh của lá cây đậm nhạt. Lên đảo mới thấy đó là màu của những tấm vải bạt bằng nhựa dày, mái che những túp lều cất bằng cành cây, gỗ vụn, và tre của người tị nạn. Đa số những túp lều này là những căn nhà sàn cách mặt đất chừng một thước nước mưa nước biển và cũng để tránh chuột.

Khu F ở tuốt trên cao, gần đỉnh của đảo. Đó là một dãy nhà dài vách gỗ mái tôn, ngăn ra thành những căn nhỏ, đủ cho một gia đình. Mỗi căn có một gác lửng và một cái divan ở tầng dưới. Dãy nhà dài này chưa hoàn tất khi tôi đến nhà không có điện, phía sau nhà vẫn chưa được lắp gỗ nên có thể nhìn thấy những căn nhà phía dưới. Trước nhà, chỗ đáng lẽ là sàn gỗ thì chỉ có mấy cái khung và nền đất. Vài tháng sau chúng tôi có điện khi trời vừa sụp tối và điện sẽ cúp vào giờ đi ngủ. Trên đảo chẳng mấy ai có đồng hồ hay chú ý đến thì giờ. Bây giờ nhớ lại có lẽ khoảng mười giờ tối thì cúp điện.

Tôi được cho ở căn thứ nhì của dãy nhà dài thứ nhất kể từ đỉnh đồi đếm xuống. Căn thứ nhất có tấm bạt che làm cửa nhà của cặp vợ chồng trẻ. Anh chồng gốc Hoa con nhà giàu, chị vợ là vũ nữ được anh trốn nhà dẫn đi. Căn thứ nhì của hai cô gái đến trước tôi. Căn thứ ba của một nhóm thanh niên rất đông. Họ có thể chia thành những nhóm nhỏ và dọn sang những căn bên cạnh nhưng họ thích ở chung với nhau. Đứng ở cửa tôi có thể nhìn thấy con đường đất nhỏ đủ một người đi. Con đường nằm trên cao hơn cửa vào nhà chừng hai ba bước chân. Bên trên, đi một đỗi nữa mới đến đỉnh đồi. Chung quanh vẫn còn rừng với rất nhiều cây cao.

Hình ảnh những căn nhà của người Việt tỵ nạn cộng sản tại Pulau Bidong

Hai cô gái đến trước tôi chiếm căn gác, còn tôi ngủ ở divan tầng dưới. Mấy hôm sau một cô dọn nhà xuống khu C ở chung với người yêu. Khu C ở ngay dưới chân đồi. Đứng ở sau nhà tôi có thể nhìn thấy khu C, nơi đó có giếng nước ngọt nên nhiều người trồng được rau. Chẳng hiểu nhờ đâu mà có rau muống, còn rau dền dại thì mọc nhiều, chỉ cần tưới nước là có rau để ăn. Lang thang  một vài nơi còn nhiều cây rậm rạp tôi thấy mấy cây muỗm trái thật sai. Những người không leo cây được nhặt muỗm rụng về ngâm muối hay nước mắm hay nấu canh. Cô gái ở lại, có lẽ trẻ hơn tôi. Cô có giọng nói rất khó nghe. Cô nói nhanh tôi chỉ nghe tiếng líu ríu trầm bổng như tiếng chim. Ban đầu tôi tưởng cô nói tiếng ngoại quốc, nhưng lắng tai nghe kỹ và khi cô nói chậm lạ, tôi đoán cô ở một nơi nào đó thuộc miền Trung. Tuy nhiên giọng miền Trung của cô không giống bất cứ giọng miền Trung nào tôi đã từng nghe qua. Cô có mái tóc rậm, những lọn tóc trên trán loăn xoăn, da sậm, thoạt nhìn trông cô giống thổ dân Phi. Tóc chỉ chấm vai, nhưng cô thường cột búi phía sau nên trông cô già trước tuổi. Khi tôi thắc mắc về thân thế cũng như giọng nói, cô trả lời một hơi như đã quen bị phỏng vấn như thế này:

– Em ở đảo Phụng Quì. Em đi chung với mấy người trên đảo ở căn bên cạnh. Tụi em ở cùng làng, cùng đảo, đi biển đánh cá từ khi còn nhỏ nên như là người trong gia đình. Anh tên gì?

– Hải. Còn em?

– Em tên Biển.

Cô cười. Nụ cười của cô làm tôi nghĩ cô vừa bịa ra cái tên để trêu tôi. Cô xưng em ngọt quá làm tôi thấy dạn dĩ hơn, nên ghẹo cô.

– Ừ! Anh cũng là Biển. Đây là biển lớn, đó là biển nhỏ. Cuộc sống ở đây như thế nào vậy em?

– Ở đây người ta phát gạo, dầu ăn, nước mắm, muối, đường, đậu xanh. Thỉnh thoảng có thịt gà tươi hay cá hộp. Kem đánh răng, xà bông, nhiều lắm xài không hết. Có người dùng kem đánh răng để gội đầu, cho mát. Có anh về đây ở chung đỡ sợ ma. Củi thì vào rừng nhặt cành cây khô.

– Ở chung với người lạ như thế này có phiền em không?

Cô hướng mặt ra cửa, tay dang ra chỉ về hướng bên phải.

– Trên kia có cái nghĩa địa chừng bốn năm ngôi mộ. Một chị treo cổ tự tử khi mới vừa lên đảo, một ông cụ bị dừa rơi xuống trúng đầu, còn mấy ngôi mộ kia em không biết. Người ta nói ở đây có ma. Không phiền đâu. Có anh đỡ sợ ma.  

Độ hơn một tuần sau khi tôi dọn vào tôi bị đau mắt cấp tính. Trước khi tôi lên tàu cả Sài Gòn đang có dịch đau mắt cấp tính. Cả chuyến tàu tôi đi, khi lên bờ người nào cũng bị mắt đỏ. Có lẽ trẻ và khỏe mạnh hơn nên mãi hơn một tuần sau tôi mới bị đau mắt, nhưng bị rất nặng. Mắt tôi đổ ghèn, sưng húp. Từ trưa tôi đã bị sốt và đến tối thì run cầm cập. Chiều hôm ấy có cơn dông. Gió thổi thốc từ đằng trước ra đằng sau nhà, lộng mái rung rinh. Lúc mới lên đảo, tôi ngủ không cần đắp chăn. Những người đi trước có để lại cái chăn mỏng cũ sờn. Tôi chê dơ chê hôi không dùng. Biển nhúng khăn ướt đắp lên trán tôi. Trong cơn sốt, tôi cầm tay Biển thấy mát rượi. Tôi áp tay nàng lên má tôi. Người tôi càng sốt tôi càng run. Biển lấy mền đắp cho tôi. Tôi nói:

– Lạnh quá! Ôm anh cho ấm chút được không?

Biển lên divan ôm tôi. Gần sáng cơn sốt hạ đi tôi tỉnh giấc trong vòng tay Biển, người tôi lăn tăn cảm giác thèm muốn. Tôi vuốt ve lần lên ngực nàng và thì thầm:

– Cho anh nhé?

Biển không kháng cự khi tôi cởi áo quần của nàng. Tuy nhiên, dù rất thèm muốn thằng bé không chịu vâng lời tôi, nên hì hục mãi tôi vẫn không thể nhập vào bên trong của nàng. Có lẽ cơn sốt và nhiều ngày thiếu ăn khiến tôi yếu đi. Tuy nhiên vài ngày sau tôi lại gõ cửa vườn đào và lần này tôi thành công.

Dân Bidong có một câu nói lề: Tình Bidong có lít thì dông. Có lít tức là có tên trong danh sách (list) người đi định cư. Câu nói hàm ý tình yêu ở Bidong thường tan rã khi người ta rời đảo. Có danh sách đi định cư như là một cơ hội cho người ta cao bay xa chạy chấm dứt những ân tình giả trá. Thật ra, việc định cư nằm ngoài sự quyết định của hầu hết dân tị nạn. Nhiều khi đôi bên yêu nhau thành thật nhưng bị đưa đi định cư mỗi người một ngã. Rồi thì xa mặt cách lòng. Tôi không phủ nhận cũng có những trường hợp lừa dối.

Nghĩ cho cùng, Bidong là nơi thuận tiện để người ta yêu nhau. Nắng hạ ươm vàng, biển xanh bất tận, sóng hôn bờ cát trắng muôn đời. Thời giờ trên đảo có thừa, ngoài một số ít thời gian học Anh ngữ, lãnh thực phẩm, chờ đợi nghe tên mình trên loa phóng thanh để được Cao ủy phỏng vấn, người ta không có gì giải trí ngoài việc yêu nhau. Người ra đi lúc bấy giờ thường là những người trẻ và khỏe để có thể chịu đựng những ngày lênh đênh sóng gió trên biển và có thể gầy dựng tương lai ở xứ người.

Trẻ nên cơ thể phát triển, háo hức, thèm muốn, đòi hỏi. Thêm vào đó là thiếu vắng sự kiểm soát kềm chế của gia đình. Tôi với Biển, vừa là lửa vừa là rơm.

Tôi không phải là người lãng mạn thiếu thực tế. Gia đình tôi là công chức nghèo phải tom góp vơ vét hết tiền bạc trong nhà, thậm chí bán cả bát đĩa sứ, để cho tôi vượt biên. Tôi muốn dùng tất cả khả năng của tôi để kiếm sống và gửi tiền về giúp gia đình. Tôi không thể nghĩ đến tương lai xa vời trong lúc này. Điều quan trọng nhất là đi định cư càng sớm càng tốt, vướng vít thê nhi lại càng không nên.

Bản đồ trại tỵ nạn Pulau Bidong

Bidong, như Pleiku, đi năm phút đã về chốn cũ. Không tiền, xa gia đình, thì ai cũng thấy may mà có em đời còn dễ thương. Người ta chỉ khai thác mặt trước của đảo. Tôi dùng chữ mặt trước để chỉ phần đảo đối diện với đất liền của Mã Lai. Các khu A. B, C, D đều nằm ở mặt trước của đảo. Khu F ở gần chóp đỉnh của đảo. Nếu đứng ở khu F hướng mặt lên đỉnh đồi, khu G nằm bên tay trái, tôi không dám nói chắc nhưng đoán nó nằm ở hướng Bắc của đảo. Từ khu F có con đường núi dẫn khu G. Có rất nhiều nơi trên đảo không có người ở và không có đường đi. Tôi không còn nhớ chính xác vị trí nhưng có một nơi ở mặt sau của đảo, không được đặt tên chia khu, sau cơn mưa là xuất hiện ra một cái thác nhỏ tiếp theo dòng thác là một con suối nước rất mát và trong. Vượt qua đỉnh đồi khu F hướng về mặt sau của đảo là nơi có rất nhiều gành đá. Gió ngoài biển vào ngay mặt sau của đảo, nên gió mạnh, nhiều sóng lớn. Biển ở đây sâu người ta có thể từ trên gành đá nhảy xuống, hoặc chờ thủy triều lên ngồi trên gành đá thả chân xuống khuấy nước. Bên ngoài gành đá, không xa lắm, độ chục cái bơi sải là đến một hòn đá lớn hai ba người đứng lên được khi thủy triều rút. Khi nước dâng đứng trên gành đá có thể nhìn thấy hòn đá màu tím sẫm vì rong rêu và chung quanh hòn đá nước biển màu aqua vì ánh sáng mặt trời có soi tận đáy cát trắng. Nơi đây có rất nhiều cá đủ thứ màu, những con cá to chừng bàn tay bơi từng đàn.

Hôm ấy tôi đi bơi với Biển. Nàng mặc áo cánh màu sậm có hoa to, quần ngắn màu đen. (Cao ủy có nhiều quần áo cũ còn tốt, và những người biết may có thể đến xưởng may, sửa quần áo cho vừa người. Nhiều cô ăn mặc áo đầm và quần jean rất đẹp.) Biển nhảy xuống, thả ngửa bơi ra hòn đá. Cái áo trông quê mùa kín đáo nhưng khi thấm nước thì lộ liễu vô cùng. Hai trái ngực căng tròn trôi lấp lửng giữa những vòng nước tròn lan rộng ra, mặt trời sáng lung linh giữa những vòng tròn làm chói mắt. Tôi chỉ biết bơi chập chửng, kết quả của những ngày bơi chó trong hồ tắm với đám bạn học, nhưng những vòng tròn đầy mời gọi khiến tôi không thể nhịn thèm bèn lao theo nàng. Tôi tưởng tượng ở phía sau nàng, như hai con rắn biển giao nhau dưới nước. Không dễ. Khi tôi áp người nóng hổi vào phía sau nàng, Biển bơi ra xa. Dọc nước mãi cho đến khi chiều xuống, thủy triều lên, sóng đánh mạnh. Tôi bị sóng đẩy vào, lôi ra, dập tôi vào gành đá. Biển nói: sóng lớn, mệt rồi, thôi lên. Biển gối sóng leo lên gành đá dễ dàng, còn tôi loay hoay mãi không lên bờ được. Tay chân tôi cóng lại. Mặt môi tôi cũng tím đi. Biển lại nhảy xuống biển đỡ tôi từ phía sau, theo cơn sóng đưa vào, đẩy tôi lên gành đá. Mãi giúp tôi, những con hàu đóng trên gành đá cắt chân nàng chảy máu đầm đìa.

Một trong những cử chỉ yêu chìu của tôi mà Biển rất hài lòng là tôi thường mang nước giếng từ chân đồi khu C lên đỉnh đồi khu F cho nàng tắm. Nước giếng vừa mát vừa ngọt, chìu nàng cũng là chìu mình vì sau khi tắm nước giếng chúng tôi làm tình và ngủ rất ngon. Hình ảnh nàng tắm dưới ánh trăng trên đảo cũng là một hình ảnh rất gợi tình.

Biển là người xương to, có lẽ vì là dân làng chài nên cơ thể rắn chắc. Nàng không cao hơn tôi nhưng nhìn riêng người ta dễ có cảm giác vóc dáng nàng cao lớn hơn tôi. Có thể nói Biển không phải là mẩu người lý tưởng của tôi nhưng tôi tin tôi là mẩu người lý tưởng của nàng. Biển cho tôi cái cảm giác trong mắt nàng chỉ có tôi. Mỗi khi gặp tôi đứng chung với ai đó trên những con đường ở Bidong, mắt nàng như sáng lên và chỉ nhìn thấy tôi. Nàng yêu mến tôi một phần vì tôi đã làm thông dịch viên giúp những người đánh cá của đảo Phụng Quỳ ở kế bên.

Họ là một nhóm thanh niên đánh cá, cả chục người ở chung với nhau. Người lớn tuổi nhất tên là Nhất, chừng hai mươi lăm tuổi. Nhất chững chạc, có vẻ đầu đàn, khi anh nói những người kia vâng theo. Người nhỏ nhất là Chút, chừng chín tuổi. Họ ở cùng đảo Phụng Quỳ. Họ hiền lành, dễ thương, tính tình rộng rãi, nhưng họ hơi ồn ào và chửi thề dòn như bắp rang. Học vấn của họ rất ít. Nhất là người biết chữ nhiều nhất chỉ học hết lớp ba trường đảo. Họ nói cùng giọng với Biển và nhờ trò chuyện với Biển nhiều nên tôi hiểu được họ. Tôi thường làm thông dịch viên cho họ, vì những người thông dịch viên của Cao Ủy không hiểu cái tiếng Việt của đảo Phụng Quỳ. Với họ học tiếng Anh là chuyện rất khó khăn. Nhiều lần, anh Nhất nói đùa, “Phải chi anh Hải đi học giùm tui, tui đánh cá dùm anh.”

Cảnh sinh hoạt tại đảo Bidong

Để trả công tôi thông dịch, Nhất thường cho tôi cá. Ban đầu Nhất mướn thuyền của ngư dân Mã Lai. Mướn thuyền trả bằng cá. Dân Mã Lai biết mấy người ở đảo chẳng trốn đi đâu được nên bằng lòng cho mướn. Cá câu được, lưới được, họ đem bán, còn dư họ đem cho những người chung quanh. Nhất và các bạn dặn, đừng ăn những con cá màu, có vân hoa đẹp ở khu F, coi chừng ngộ độc. Họ thường câu loại cá có mũi kim dài độ hai ba tấc tùy theo cá lớn nhỏ, thân cá hơi dẹp và dài, có khi dài hơn một sãi tay. Cá có thịt trắng, trong xanh. Thiếu gia vị chỉ cần luộc cá cho chút muối, đôi khi nấu chung với muỗm hoang, vậy mà ăn rất ngon. Nhóm thanh niên đảo Phụng Quỳ được nhận đi định cư ở Úc. Họ rất sợ bị “xù” vì ít học và chỉ biết nghề đánh cá, nên được đi định cư họ rất mừng. Trước khi rời đảo họ tổ chức ăn mừng bằng cách đánh bài, uống nước lã, và ca hát và chửi thề rất nhộn nhịp.

Để tránh ồn ào, Biển rủ tôi đi ngắm trăng ở khu G. Đường đến khu G khó đi và người ta lại đồn đãi là ở đó có ma nên ban đêm chắc chắn là không ai đến. Biển khu G rất sạch, cát trắng có trộn lẫn nhiều mảnh vỏ sò, tuy đã bị sóng nhồi vỡ nát nhưng không đủ mịn. Những nơi không có vỏ sò thì lại có rất nhiều san hô trắng chìm lập lờ dưới nước. Không phải là chỗ tắm lý tưởng nhưng là chỗ ngắm trăng lên rất tuyệt. Tôi mang theo một cây guitar cũ của một thằng bạn đi định cư để lại. Dù tôi không giỏi đàn hát, nhưng có cây đàn cũng giúp không khí tăng thêm phần lãng mạn.

Đêm tháng Sáu, trời rất ấm và biển êm. Chúng tôi ngồi là một mõm đá, mặt phẳng rộng, nhô ra bãi biển. Bên trên cao hơn một chút có một mõm đá khác nhỏ hơn ngắn hơn, che mõm đá chúng tôi ngồi như một mái nhà. Biển nói:

– Tháng này, ở quê em trăng màu vàng sậm như mật ong.

– Anh tưởng mặt trăng chỉ sáng màu trắng thôi chứ.

– Không đâu anh, có một đôi lần trăng mới lên to, đỏ sậm như gạch nung rồi khi lên cao biến thành màu nâu.

Tôi đàn bâng quơ một vài bản vụng về, rồi cất đàn sang một bên. Chúng tôi ngồi im lặng bên nhau và có cảm giác thời gian như ngừng lại. Mặt trăng màu vàng sậm treo lửng lơ bên dưới những ngọn cây rừng và nằm mãi ở đó chứ không chịu lên cao.

– Em có thuộc bài hát nào về trăng không?

– Cô kia tát nước bên đàng, sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.

– Hay đó. Câu này nói trăng có màu vàng nhưng không nói là vàng như mật hay vàng như đường mía.

– Ai mua trăng tôi bán trăng cho, trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ. Ai mua trăng tôi bán trăng cho. Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò.

– Em có biết bài này của ai không?

– Không biết. Em nghe trong một bài hát. Anh biết không?

Tôi cũng không biết nhưng nói liều. Nghĩ rằng cứ nói một cái tên người nào đó thì cô gái dân chài này cũng chẳng biết đúng hay sai.

– Của Hàn Mặc Tử đó em.

– Anh giỏi quá ha. Em còn thuộc vài câu nữa, có mấy bà cụ trên đảo thỉnh thoảng hát ru trẻ con. Vầng trăng ai xẻ làm đôi. Nửa in gối chiếc nửa soi dặm đường.

– Câu này ở trong truyện Kiều. Các cụ xưa, cả mẹ anh cũng thế, hay đọc thơ Truyện Kiều, gọi là lẩy Kiều. Anh có biết hai câu này: Trăng nằm sóng soải trên cành liễu. Đợi gió đông về để lả lơi.

Hai câu thơ này gợi lên hình ảnh của xác thịt. Tôi ôm Biển, chúng tôi cùng quàng tấm chăn mỏng nàng mang theo. Thường khi Biển đáp ứng cơn ham muốn của tôi nhưng đêm nay nàng từ chối. Thôi anh. Em chỉ muốn ngồi chơi ngắm trăng. Tôi nói vào tóc Biển.

– Không làm tình cũng được, nhưng anh thích nhìn em khỏa thân giữa biển trăng. Em cởi áo quần cho anh ngắm rồi anh sẽ hát em nghe.

Nàng ngần ngừ một chút rồi cũng chìu ý tôi. Cởi quần áo, dường như Biển cũng cởi bỏ lớp vỏ của một cô gái làng chài. Nàng đá nước tung tóe. Nước biển ngời lân tinh lóng lánh giữa hai đùi. Trông nàng đẹp hơn bình thường, không biết vì tôi đã quen mắt với nàng hay vì ánh trăng giữa khung cảnh núi đồi và sóng biển đã mở đôi mắt tôi.

Tôi hát cho nàng nghe một bài nhạc Pháp tôi đặt lời Việt.

“Nếu em sẽ ra đi, giữa nắng hạ lung linh. Khác gì em mang theo, cả bầu trời mông mênh. Và những cánh chim âu, gãy cánh trong mây sầu. Hạt tình vừa mới ươm. Tim đôi ta đắm say.  Ngày vừa mới rạng đông. Đêm dài như dòng sông. Ánh trăng thề đứng yên. Lời tình ca triền miên…”

Nếu em ở lại đây, anh dệt áo bằng mây, nhưng dứt áo ra đi, xin để lại tình yêu, vương trên những ngón tay và trên mắt môi cay…

Biển đấm nhẹ vào vai tôi. Thôi ông ơi, trước sau gì cũng phải đi. Nghe lời anh ở đây hoài có mà chết đói. Chúng tôi nằm úp thìa trên tảng đá nói chuyện vu vơ. Mặt trăng vẫn yên lặng với màu mật ong óng ả. Khi tôi thăm dò lần nữa thì Biển ưng thuận. Tôi yêu cầu:

– Yêu nhau xong rồi em đừng đẩy anh ra, cứ để yên trong đó nhé, anh thích thế.

Chúng tôi yên lặng yêu nhau. Biển không nói nhưng tôi nghĩ nàng biết tôi không thể cho nàng những thứ nàng mơ ước. Chúng tôi không thề thốt hứa hẹn điều gì. Khi hôn nàng, trên má nàng những hạt nước biển chưa kịp khô.

Khi tôi tỉnh dậy chân trời đã có ánh hồng. Xa xa những chiếc thuyền đánh cá của Mã Lai túa ra giống như những con chim én màu đen bay sà trên mặt nước. Không thấy Biển đâu, tôi chạy vội về căn nhà ở khu F thì hay tin Biển đã rời đảo Giọng hát của Lệ Thu với bài Biển Nhớ bay lãng đãng trên những ngọn cây cao còn ướt hơi sương. Dù đã nhiều lần nghe Lệ Thu hát trước và bài Biển Nhớ hầu như hàng ngày khi ở trên đảo, lần đầu tiên bài hát làm tôi chảy nước mắt.

Bác Hải ngừng kể, giọng nói có phần xa vắng. David, khơi lại ngọn lửa, rót thêm wine vào ly của ông Hải. Im lặng chờ đợi.

Tôi trở lại căn nhà ở khu F thấy có một tờ giấy gấp lại theo hình phong bì. Bên trong là một tờ giấy năm đồng Mã Lai và bốn câu thơ:

Thuyền về Đại Lược,

Duyên ngược Kim Long.

Đến đây chỗ rẽ giữa dòng,

Gặp nhau còn biết trên sông bến nào.

Bài thơ được viết bằng nét chữ ngay ngắn, đẹp nắn nót. Tôi đoán, Biển nhờ người nào đó viết dùm, chứ có lẽ nàng không biết mấy câu thơ này, vì chính tôi cũng không biết những câu thơ rất hay này. Tôi không nghĩ là Biển viết chữ thành thạo như thế dù tôi chưa hề nhìn thấy nét chữ của nàng. Ở câu thứ ba chữ nhòe đi như được viết trên giấy hơi ướt, tôi đoán là chữ giữa dòng, nhưng rất có thể đó là hai chữ của lòng.

Ngày được tin tôi được Mỹ theo sự bảo lãnh của chú tôi, hai đứa tôi nấu chè đậu xanh ăn mừng. Tôi viết cho Biển địa chỉ nhà chú tôi, cũng như địa chỉ nhà tôi ở Việt Nam. Dù chúng tôi chưa hề hứa hẹn chuyện lâu dài, tôi biết Biển mến tôi. Thật ra tôi còn nghĩ là nàng yêu tôi nhiều hơn tôi yêu nàng. Nếu muốn, chúng tôi có thể gặp lại nhau. Biển nói vì nàng ở đảo xa xôi, trên đảo không có Bưu điện, chưa có chỗ ở cố định ở Úc, khi cuộc sống ổn định sẽ liên lạc với tôi.

– Em sẽ viết thư cho anh địa chỉ và số điện thoại của em.

Sau khi Biển đi rồi, tôi ở lại Bidong thêm bốn tháng. Người Mỹ có câu sự vắng mặt làm tình cảm gắn bó hơn câu nói này đúng với tình cảm của tôi. Biển đi rồi nhưng hình ảnh của nàng càng ngày càng đậm nét và tràn đầy trong tư tưởng tôi. Những đêm khuya gió lộng tôi nhớ hai đứa ôm nhau đắp cái chăn vừa cũ vừa bẩn. Tôi dọn đến ở với đám bạn vì căn nhà trở nên trống vắng quá nhìn chỗ nào cũng thấy bóng dáng nàng. Có một kỷ niệm mỗi lần nghĩ đến là tôi buồn cười. Giữa trưa hai đứa tôi đang quấn lấy nhau, môi tôi dán chặt môi nàng để khóa khẩu, cố tránh gây tiếng động. Chợt Biển ngừng lại đẩy tôi ra. Ngó chung quanh chẳng có gì ngoài cái lon nhôm uống nước, nàng cầm lấy cái lon nhôm ném mạnh lên vách gỗ ngăn với căn gác của đám con trai đảo Phụng Quỳ. Thì ra đám con trai nhà bên cạnh biết những trò giải trí của hai chúng tôi nên lén xem qua khe vách.

Cảnh sinh hoạt tại đảo Bidong

Trước ngày tôi đi định cư tôi tình cờ gặp Thanh ở gần trường Huấn Nghệ. Thanh là một trong đám thanh niên đảo Phụng Quỳ, bị hoãn định cư vì trước ngày rời đảo đã đánh nhau với một người đánh cá Mã Lai. Trong khi các bạn Thanh đều được nhận đi Úc thì Thanh vẫn chưa biết sẽ về đâu. Tôi hỏi về cuộc sống của Thanh ở đảo Phụng Quì.

– Thanh có ở gần nhà Biển không?

– Không. Trước kia ba má chị Biển ở trên đảo nhưng sau đó dọn về Phan Thiết để chị đi học. Nhờ vậy mà chị được học đến hết lớp mười hai chứ nếu ở đảo chắc cũng chỉ học đến hết lớp hai lớp ba như tụi em. Chị Biển nhờ có học nên được phái đoàn cho đi Mỹ chứ không bị Mỹ xù như em. Chị giả bộ tên Biển để chọc anh chơi chứ tên thật của chị là Ngò, họ Bùi. Tụi em hay gọi chị là bụi ngò. Đưa tay mà ngắt bụi ngò. Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ. Chị nói đứa nào nói thật tên tau, tau xui ông nỏ lờm thông dịch cho tụi mi là tụi mi rồi đời, ở làm chúa đảo luôn.

Tôi ngỡ ngàng nhưng không muốn nói thêm vì sợ Thanh biết là tôi mù mịt về thân thế của nàng, thậm chí tôi còn ngờ là cô là người ít học, và hiểu lầm cả nơi định cư. Một phần Biển ít nói, một phần tôi ít khi ở nhà. Tôi chỉ về nhà để ăn ngủ và làm tình. Tôi mất liên lạc với Biển từ đó. Sang Mỹ tôi ở với chú tôi một thời gian. Hằng ngày tôi trông đợi một lá thư hay một cú điện thoại của cô nàng sống chung với tôi như vợ chồng suốt hai tháng trời ở Bidong. Theo đúng như lời Thanh nói thì Biển cũng ở Mỹ như tôi thì chuyện liên lạc thăm hỏi nhau không phải là chuyện khó. Thế mà nàng biệt tăm, như một cánh chim bay mất vào cuối trời.

Có lẽ nàng giận tôi. Có lần tôi rủ đám bạn đến nhà tôi ở khu F chơi. Biển chiên cơm mời tôi và các bạn. Chúng tôi đứng chung quanh bàn ăn, và chỉ có hai cái ghế, một cái dành cho Biển với tư cách chủ nhà. Tôi nghịch ngợm kéo lùi cái ghế trong khi Biển đang ngồi xuống làm nàng té ngồi trên đất. Biển cười gượng, ánh mắt nàng tối lại. Một lần khác tôi dẫn Hà về ăn chè đậu xanh Biển nấu. Hà là học trò tôi dạy kèm Toán Lý Hóa ở Sài Gòn. Biển dặn tôi về ăn chè đậu xanh Biển chờ. Hôm ấy tôi về trễ Biển đã đi ngủ sớm. Tôi biết nàng chỉ nằm im trên gác giả vờ ngủ. Tôi nằn nì mời Hà vào ăn chè dù cô học trò nhỏ nhắn và xinh xắn ấy từ chối mãi. Ăn xong tôi đưa Hà về. Đêm đó khi tôi đòi yêu, Biển chìu tôi trong im lặng. Tôi có cảm giác má nàng ướt không phải chỉ bởi mồ hôi của đêm hè trên đảo. Cũng có thể nàng giận vì đêm cuối cùng ở biển, trong lúc tâm tình tôi tò mò hỏi, trong chuyến đi nàng có bị hải tặc xâm phạm không? Biển làm thinh rất lâu không trả lời mà nói sang chuyện khác.

Tôi chờ cú điện thoại của Biển, hay lá thư của nàng kể từ khi tôi sang Mỹ. Một tuần, rồi một tháng, rồi một năm. Năm năm. Mười năm. Ba chục năm.  Càng lâu ngày, nỗi chờ đợi càng nung nấu trong tôi. Đi đâu tôi cũng lục trong quyển điện thoại niên giám tìm tên nàng. Ở bất cứ nơi nào có người Việt tôi đều để ý tìm kiếm một bóng dáng, một mái tóc, cái eo, và bờ vai giống với Biển trong trí nhớ của tôi.

Không ngờ, mấy chục năm sau nhìn lại, chuỗi ngày ở đảo Bidong là thời trăng mật hạnh phúc nhất đời tôi. Thời gian trôi qua, tôi quen người khác, nhưng không bao giờ tôi có lại niềm vui, hay sự thỏa mãn tưởng có thể chết ngất đi trong cảm giác của những ngày xưa ấy. Tôi tìm kiếm trong những người đàn bà có dáng dấp của Biển sự hưởng thụ lạc thú một cách carefree như nàng, hưởng thụ mà không đòi hỏi một sự đền đáp hay ràng buộc. Tôi cố tìm lại cái cảm giác hai cá thể nhập thành một giữa không gian hoang dã với vầng trăng màu mật, sóng biển có lân tinh, trong tiếng sóng vỗ vào gành đá của mấy chục năm về trước. Thời gian càng trôi qua tôi càng gán tặng cho Biển những đức tính và cái đẹp mà trước kia tôi không nhìn thấy. Tôi không tìm thấy ở những người đàn bà đến với tôi sau này, cái nhìn dành cho tôi đầy say đắm và ngưỡng mộ như Biển. Một trong những bức ảnh tồn tại trong trí nhớ của tôi là Biển nằm nghiêng mặt trên divan,tóc xỏa, một chân co lên đến ngực, lặng lẽ ngắm tôi cười đùa ca hát với đám bạn. Ngày ấy tôi thấy Biển là một cô gái si tình trong im lặng. Năm đồng Mã Lai Biển để lại cho tôi, tôi lộng kính để dành. Tờ giấy chép bốn câu ca dao được cất chung với giấy tờ quan trọng như giấy thông hành, giấy chủ quyền nhà và xe. Tôi cố bảo toàn hình dáng để nếu có khi nào gặp lại nhau trên đường phố Biển có thể nhìn ra tôi ngay tức khắc.

Tôi kể lại vắn tắt những chuyện bác Hải kể đêm qua.

– Theo lời Bác kể thì đảo Bidong rất đẹp và thơ mộng, chứ không bẩn thỉu tồi tệ đầy rác rến, kém vệ sinh như con đã nghe nói. Theo Bác, Bidong đầy hạnh phúc như một thiên đường, như một chỗ hưởng tuần trăng mật chứ không phải là trại tị nạn. Tôi nói.

– Hạnh phúc là cái nhìn tương đối. Với những người đàn ông trẻ tuổi thời ấy, thoát cuộc sống nghèo đói ở VN, thoát cảnh bị bắt đi nghĩa vụ đánh Kampuchia và Trung quốc, thoát cảnh bị bắt đi thanh niên xung phong, có cơm đủ ăn có mái nhà che trên đầu, nhất là có một cô gái để ôm ngủ mỗi đêm thì dĩ nhiên thấy cuộc sống là hạnh phúc. Mới chui ra từ địa ngục thì đâu cũng là thiên đường. Vả lại ai cũng biết những khổ sở ở trại tị nạn chỉ là tạm thời. Được đi định cư ở nước ngoài, được đi học Đại học, được sống tự do không sợ tù tội hay chết chóc, là tương lai tươi đẹp. Theo mẹ, chưa chắc là bác Hải yêu cô gái ấy, Bác yêu hình ảnh của Bác trong đôi mắt của cô gái ấy. Mẹ nghĩ là nếu bây giờ người đàn bà ấy đứng ngay trước mặt Bác chưa chắc Bác đã nhìn ra. Khi Bác đi tìm, Bác tìm một cô gái trẻ lúc tuổi đôi mươi, nhưng cô gái ấy bây giờ ít ra cũng hơn năm mươi, tóc đã hai màu, nặng hơn ngày xưa cả chục kí. Mẹ ngạc nhiên là Bác không hề tự hỏi, liệu cô ấy khi rời đảo có mang trong người đứa con của Bác? Có lẽ cô gái ấy, bà ấy, là người khôn ngoan, biết người biết ta, nên không tìm cách liên lạc với Bác, để giữa hai người chỉ là một thứ tình Bidong có list thì dông.

Nguyễn Thị Hải Hà

Hồi Ký Của Môt Người Kẹt Lại Hà Nội Sau 1954—tựdo

Với bút hiệu tựdo ‒ chữ thường, viết liền ‒ ông Nguyễn Văn Luận là tác giả bài “Người tìm tự do và tượng thần tự do” đã được bình chọn trúng giải chính thức trong giải sơ kết 3 tháng Giải Thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ. Tác giả sinh năm 1937, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts.

Ông Hòa là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bị Cộng sản bắt đi tù năm 1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc.

Một lần tới thăm, cháu Thu Lan, con ông Hòa, hỏi tôi:

“Bác ở Hà Nội mà cũng đi tị nạn à…?”

Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười:

“Cái cột đèn mà biết đi, nó cũng đi, …nữa là bác!”

Thực ra tôi đã không trốn thoát được từ lần đầu “vượt tuyến” vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần “vượt biển”, vẫn không thoát. Chịu đủ các “nạn” của chế độ cộng sản trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi không tị nạn, mà đi tìm Tự Do, trở thành thuyền nhân, đến nước Mỹ năm 1982.

Sinh trưởng tại Hà Nội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như cháu Thu Lan, có người vì tò mò, có người giễu cợt .

Thời gian rồi cũng hiểu nhau.

Tôi hằng suy nghĩ và muốn viết những giòng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hà Nội xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng cho những người Hà Nội di cư.

Người dân sống ở miền Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đã không biết được những gì xảy ra tại Hà Nội, thời người cộng sản chưa vận com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ không mặc áo dài.

Hiệp định Geneva chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản, tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào miền Nam, bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không hiểu thế nào là… Vẹm!

Khi họ tiếp quản Hà Nội, tôi đang ở Hải phòng. Dân đông nghịt thành phố, chờ tầu há mồm để di cư.

Trước Nhà Hát Lớn, vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại.

Hiệp định Geneva ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt, 2 năm sau sẽ “Tổng tuyển cử” thống nhất.

Ai ngờ cộng sản miền Bắc “tổng tấn công” miền Nam!

Gia đình lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hà Nội học.

Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hà Nội là con buôn, mang xăng về bán. Những toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành toa, liều lĩnh, hỗn loạn…

Tới cầu Long Biên tức là vào Hà Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nhìn tôi:

“Ðề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng!”

Tôi bàng hoàng vì thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ cộng sản”: “đấu tranh”, “cảnh giác”, “căm thù” và…“tiêu diệt giai cấp”! (Thứ ngôn ngữ này ghi trong ngoặc kép.)

Hà Nội im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng “chính sách” mới ban hành.

“Cán bộ” và “bộ đội” chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre, phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là “mũ bộ đội”, sau này có tên là “nón cối”. Hà Nội “xuất hiện” đôi dép “Bình Trị Thiên”, người Bắc gọi là “dép lốp”, ghi vào lịch sử thành “dép râu”.

Chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ Hà Nội được coi là “biểu hiện” của “tư sản, phong kiến”, biến mất trong 10 mấy năm sau, vì “triệt để cách mạng”. Lần đầu tiên, “toàn thể chị em phụ nữ” đều mặc giống nhau: áo “sơ mi”, quần đen. Hãn hữu, như đám cưới mới mặc sơ mi trắng vì “cả nước” không có xà phòng.

Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số “lớp 9 hậu phương”, năm sau sẽ sát nhập thành “hệ 10 năm”.

Số học sinh “lớp 9” này vào lớp không phải để học, mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận “chỉ thị của Thành đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!”

Họ truy lùng… đốt sách!

Tôi đã phải nhồi nhét đầy 3 bao tải, Hiệu đoàn “kiểm tra”, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang “tập trung” tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm “phấn khởi”, lời hô khẩu hiệu “quyết tâm”, và “phát biểu của bí thư Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn là … “cực kỳ phản động!” Vào lớp học với những “phê bình, kiểm thảo… cảnh giác, lập trường”, tôi đành bỏ học.

Chiếc radio Philip, “tự nguyện “ mang ra “đồn công an”, thế là hết, gia tài của tôi!

Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày vì “thành phần giai cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem, phiếu thực phẩm”, “lao động nghĩa vụ hàng tháng”. Ðây là chính sách dồn ép thanh niên Hà Nội đi “lao động công trường”, miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu”,… đi tù!

Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư.

Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin đồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”.

Âm thầm, tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt nhòa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hà Nội.

Ðoàn Chuẩn nhớ thương hát “Gửi người em gái miền Nam”, để rồi bị đấu tố là phong cách tiểu tư sản, rạp xinê Ðại Ðồng phố Hàng Cót bị “tịch thu”. Hoàng Giác ca bài “Bóng ngày qua”, bị kết tội thành “tề ngụy”, hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan mũ nan, làn mây, sống “tiêu cực” hết đời trong đói nghèo, khốn khổ.

Danh ca Minh Ðỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra sao, “phân tán”, chẳng ai còn dám gặp nhau, sợ thành “phản động tụ tập”.

“Chỉ thị Ðảng và Ủy ban Thành” “phổ biến rộng rãi trong quần chúng” là diệt chó. “Toàn dân diệt chó”, từ thành thị đến “nông thôn”. Gậy gộc, dây thừng, đòn gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố “liên hoan tập thể”.

Lý do giết chó, nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là “chủ trương”, chuẩn bị cho đấu tố “cải tạo tư sản” và “cải cách ruộng đất”.

Du kích, công an rình mò, “theo dõi”, “nắm vững tình hình” không bị lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người nín thở đợi chờ thảm họa.

Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” 1 năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động “ thì con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư sản”, vẫn là “đối tượng của cách mạng”. Nông dân có dăm sào ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là “địa chủ bóc lột, cường hào ác bá ”!

Giáo sư Trương văn Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu “học tập”, đã nhẩy lầu, tự tử.

“Tư sản Hà Nội” di cư vào Nam hết, chẳng còn bao nhiêu nên “công tác cải tạo được làm “gọn nhẹ” và “thành công vượt mức”, nghĩa là mang bắn 1, 2 người “điển hình”, coi là “bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích trữ”, còn thì “kiểm kê”, đánh “thuế hàng hóa”, “truy thu”, rồi “tịch thu” vì “ngoan cố, chống lại cách mạng!”

Báo, đài hàng ngày tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản của “đội cải cách” về làng, “bắt rễ” “bần cố nông”, “chuẩn bị thật tốt”, nghĩa là bắt học thuộc lòng “từng điểm”: tội ác địa chủ thì phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, “điển hình” thì mang thai nhi cho vào cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc máu…! Một vài vụ, do “Ðảng lãnh đạo”, “vận động tốt”, con gái, con dâu địa chủ, “thoát ly giai cấp”, “tích cực” “tố cáo tội ác” của cha mẹ.

Cảnh tượng này thật não nùng! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm: “Trung với Ðảng, hiếu với dân…” là vậy!

“Bần cố nông” cắm biển nhận ruộng được chia, chưa cấy xong 2 vụ thì phải “vào hợp tác”, “làm ăn tập thể”, ruộng đất lại thu hồi về “cộng sản”.

“Toàn miền Bắc” biết được điều “cơ bản” về Xã hội chủ nghĩa là… nói dối!

Mọi người, mọi nhà “thi đua nói dối”, nói những gì Ðảng nói. Nói dối để sống còn, tránh bị “đàn áp”, lâu rồi thành “nếp sống”, cả 1 thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được “rèn luyện” trong xã hội ngục tù, lấy “công an” làm “nòng cốt” chế độ.

Ở Mỹ, ai hỏi bạn: “How are you?”, bạn trả lời: “I’m fine, thank you.”

Ở miền Bắc VN thời đại Hồ chí Minh, “cán bộ” hỏi: “Công tác” thế nào?” Dù làm nghề bơm xe, vá lốp, người ta trả lời: “…rất phấn khởi, ra sức thi đua, lập thành tích chào mừng… các nước anh em!”

Bị bắt bên bờ sông Bến Hải, giới tuyến chia 2 miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị “bộ đội biên phòng” dong về Lệ Thủy, được “tự do” ở trong nhà chị “du kích” 2 ngày, đợi đò về Ðồng Hới. Trải 9 trại giam nữa thì về tới Hỏa Lò Hà Nội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi đẹp, xã hội cũng là 1 nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to “Chế độ ta tươi đẹp”.

Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ, người tù “biến chất”, người tứ chiến kéo về, nhận là người Hà Nội, đói rét triền miên nên cũng “biến chất”!

Ðối xử lọc lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau phải “luôn luôn cảnh giác”.

Hà Nội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội suy sụp tinh thần vì danh từ “đồng chí”!

Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán “tình hình”. Ánh điện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc” được với Thụy An ở xà lim phía trước.

Thụy An là người Hà Nội ở lại, “tham gia hoạt động “Nhân Văn Giai Phẩm, đòi tự do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hà Nội. Bà phẫn uất, đã dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách truyền tụng: “Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!”

Người du lịch Việt Nam, ít có ai lên vùng thượng du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có trại tù Phong Quang hà khắc, có thung lũng sâu heo hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo “định mức chỉ tiêu”. Rừng núi bao la, tiếng chim “bắt cô trói cột”, nấc lên nức nở, tiếng gà gô, thức giấc, sương mù quanh năm.

Phố Hàng Ðào Hà Nội, vốn là “con đường tư sản”, có người trai trẻ tên Kim, học sinh Albert Sarraut. Học trường Tây thì phải chịu sự “căm thù đế quốc” của Ðảng, “đế quốc Pháp” trước kia và “đế quốc Mỹ” sau này.

Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ 1 năm, Kim Hàng Ðào “bất mãn” trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc, không “nhà thương” mà vẫn không chết.

Phố Nguyễn công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam Hà Nội, người thanh niên đẹp trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Ðoàn Chuẩn, đi tù Phong Quang vì “lãng mạn tiểu tư sản”. Không hành lý nhưng vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì “tiểu tư sản”, không “tiến bộ”, không có ngày về …! 3 tháng “kỷ luật”, Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan giấc mơ Tình nghệ sĩ!

Người già Hà Nội chết dần, thế hệ thứ 2, “xung phong”, “tình nguyện” hoặc bị “tập trung” xa rời Hà Nội. Bộ công an “quyết tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản động”, nên chỉ còn người Hà Nội từ “kháng chiến” về, “nhất trí tán thành” những gì Ðảng… nói dối!

Tôi may mắn sống sót, dù mang lý lịch “bôi đen chế độ”, “âm mưu lật đổ chính quyền”, trở thành người “Hà Nội di cư”, 10 năm về Hà Nội đôi lần, khó khăn vì “trình báo hộ khẩu”, “tạm trú tạm vắng”. “Kinh nghiệm bản thân”, “phấn đấu vượt qua bao khó khăn, gian khổ”, số lần tù đã quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải Phòng, vùng biển.

Hải Phòng là cơ hội “ngàn năm một thuở” cho người Hà Nội “vượt biên” khi chính quyền Hà Nội chống Tầu, xua đuổi “người Hoa” ra biển, khi nước Mỹ và thế giới đón nhận “thuyền nhân” tị nạn.

Năm 1980, tôi vào Sài Gòn, thành phố đã mất tên sau “ngày giải phóng miền Nam”. Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn “di chuyển” trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên đường Tự Do, hưởng chút dư hương của Sài gòn cũ, cảnh tượng rồi cũng đổi thay như Hà Nội đã đổi thay sau 1954 vì “cán ngố” cai trị.

Dân chúng miền Nam “vượt biển” ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sài Gòn, tìm manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh Minh, anh Ngọc, đường Trần Quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Ðường ra biển tính theo “cây”, 7, 8 cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nhìn “nón cối” “ngụy trang” của tôi, mỉm cười:

“Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút nào!”

“Hà Nội, trí thức thời Tây, chứ bộ…!.”

Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch sĩ giỏi!

Về lại Hải Phòng với “giấy giới thiệu” của “Sở giao thông” do “móc ngoặc” với “cán bộ miền Nam” ở Saigòn, tôi đã tìm ra “biện pháp tốt nhất” là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Ðã đến lúc câu truyền tụng “Nếu cái cột điện mà biết đi….”, dân Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên.

Năm 44 tuổi, tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá, nhưng nói tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha chút “ngoại ngữ Việt cộng” năm xưa.

Cuộc sống của tôi ở Việt Nam đã đến “mức độ” khốn cùng, nên tan nát, thương đau. Khi đã lang thang “đầu đường xó chợ” thì mới đủ “tiêu chuẩn” “xuống thành phần”, lý lịch có thể ghi là “dân nghèo thành thị”, nhưng vẫn không bao giờ được vào “công nhân biên chế nhà nước”.

Tôi mang nhẫn nhục, “kiên trì” sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên “đạt kết quả vô cùng tốt đẹp”, “đạt được nguyện vọng” hằng ước mơ!

Có người “kêu ca” về “chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, thì xin “thông cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ “phúc lợi xã hội”, còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng sản.

Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ rồi. Cộng sản Việt Nam bây giờ “đổi mới”. Tiếng “đổi” và “đổ” chỉ khác một chữ “i”. Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ “i”, dù phải từ từ, bằng “diễn biến hòa bình”.

Chế độ Việt cộng “nhất định phải đổ”, đó là “quy luật tất yếu của lịch sử nhân loại”.

Ôi! “đỉnh cao trí tuệ”, một mớ danh từ…!

tựdo.

nguyễn văn luận

18 Ingenious Tips and Tricks from Talented Handyman That Will Impress You―Creation Holic

Phân Ưu Ông Huỳnh Văn Nghiệp Khóa 20 Võ Bị

Unstoppable Hope—Hoang Pham Films

Unstoppable Hope, một bộ phim tài liệu nhân dịp kỷ niệm 50 năm cuộc di tản của những người Việt Nam tị nạn cộng sản—chia sẻ những câu chuyện đầy sức mạnh của mười hai người tị nạn đã liều mình vì tự do. Họ đối mặt với những hành trình nguy hiểm và bắt đầu lại cuộc đời ở Mỹ từ con số không. Sự kiên quyết của họ không chỉ mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn mà còn thể hiện rằng không có gì có thể ngăn cản được niềm hy vọng.

Happy Father’s Day

Ơn Cha—Hoàng Oanh | Y Vân | Asia

A Father Like You | A Song of Gratitude for Dad on Father’s Day | A Tribute To All Dads with Lyrics
Papa—Paul Anka | Duc Ta

Picnic Mùa Hè 2025—Hội Võ Bị Bắc California

Xin mời xem một số hình ảnh tại đây: Picnic Mùa Hè 2025—Hồ Ngọc Hiệp Khóa 25

AI and the Future of National Security | Trí Tuệ Nhân Tạo và Tương Lai của An Ninh Quốc Gia—Bài Phỏng Vấn Ông Vinh Nguyễn (K28/2), Giám Đốc NSA và Bà Tahira Mammen, Trung Tâm Trưởng AISC

Trí tuệ nhân tạo (AI) đã xuất hiện và sẽ không biến mất. Nó gây ra những mối đe dọa nào đối với an ninh quốc gia Hoa Kỳ? Nó mang lại những cơ hội nào khi chúng ta tìm cách duy trì lợi thế trước các đối thủ nước ngoài? Hai chuyên gia AI hàng đầu của Cơ Quan An Ninh Quốc Gia (NSA) tham gia No Such Podcast để phân tích cách tiếp cận của NSA đối với bảo mật AI, AI có trách nhiệm và quản trị AI.

Giám đốc AI chịu trách nhiệm chính của NSA, Vinh Nguyen, giải thích cách NSA đã nghiên cứu AI và những ứng dụng mà NSA đã tìm thấy cho AI. Trưởng Trung tâm An Ninh AI, Tahira Mammen, chia sẻ những gì NSA đang làm để giúp bảo mật việc triển khai AI.

Cảm Tạ Của Bà Quả Phụ Phạm Đông An K25/1

Mời click để xem: MỘT SỐ HÌNH ẢNH TANG LỄ ÔNG PHẠM ĐÔNG AN K25 TẠI SAN JOSE

Phân Ưu Ông Phạm Đông An K25

Mời click để xem hình ảnh tang lễ Ông Phạm Đông An

Happy Mother’s Day

Nhớ Mẹ—Lê Minh Đảo | Đỗ Trọng Huề—Lâm Nhật Tiến
Mother Of Mine—Paul Mauriat
Sweet Mother Of Mine—Karen Cox
Pour Toi Maman—Jean-Marc Versini
Nhật Ký Của Mẹ—Hiền Thục

Tưởng Niệm 50 Năm Quốc Hận—SBTN

50 Năm Viễn Xứ | Nhà Văn Phan Nhật Nam Nhận Định Về Cuộc Chiến Việt Nam Sau 50 Năm—OfficialVietFaceTV

5 Điều Nhạy Cảm Người Miền Bắc Nên Biết Về Miền Nam—Luật Khoa Tạp Chí

Quan Hệ Mỹ-Việt Ngày 30/4—Little Saigon TV

Thăm Viếng Chị QP. Nguyễn Văn Chấn K9/1 | Anh Nguyễn Tri Tùng K17

It’s not how you start, it’s how you finish | Outsmarting Opponent

Cựu Tổng Thư Ký Bộ Ngoại Giao VNCH Chứng Kiến Sự Kiện 30.4 Như Thế Nào?— Quyền TTK Bộ Ngoại Giao Lương Tùng Quang | Sean Le

Phân Ưu Ông Phạm Hưng Long Khóa 20 Võ Bị