Trang chủ » Văn Học – Nghệ Thuật (Trang 3)
Category Archives: Văn Học – Nghệ Thuật
Khi Việt Nam và Tàu “Một Tổ Quốc, Một Văn Hóa” – Nguyễn Thị Cỏ May
Trong gần đây, nhiều người nói tới năm 2020, Việt nam sẽ lệ thuộc Tàu (*) vì sẽ trở thành “một vùng tự trị” hay “một tỉnh lẻ” của Tàu. Khi nói về ngày mai này, người ta nhắc lại «Hội nghị Thành Đô» tuy văn bản qui định việc này, không biết có ai thấy không? Nhưng nói về «ảnh hưởng đậm» hay “lệ thuộc” Tàu thì trong nhiều sách vở và báo chí của chế độ, không thiếu những lời như «Việt nam và Trung quốc sông liền sông, núi liền núi» hoặc «môi hở răng lạnh» và, nhứt là «Tổ quốc xã hội chủ nghĩa», hay lời của Trường Chinh kêu gọi người Việt nam hãy bỏ chữ quốc ngữ vì chữ này là của thực dân đem tới, không phải chữ của ta, hãy trở về học chữ Hán (**), còn trong sách vở xưa, thì «Việt nam và Tàu đồng văn, đồng chủng.” Thực tế sẽ ra sao, chúng ta hãy chờ trả lời. Chỉ còn 2 năm nữa mà thôi.
Ngày nay, có điều chắc chắn, rõ ràng, ai cũng có thể ghi nhận không cần bàn cãi là hướng đi của Việt nam do đảng cộng sản lèo lái vẫn lấy Tàu làm khuôn vàng thước ngọc. Việt nam phải giống Tàu, phải bám theo sát Tàu. Tập Cận-bình là chuẩn mực. Qua 2 lần tuyên bố của Trọng, vào tháng 1-2018, trước Quốc Hội và đông đảo các nhà báo: “những đảng viên đòi đa nguyên đa đảng, từ bỏ xã hội chủ nghĩa, đòi thực hiện Tam quyền phân lập là bị tác động bởi bọn phản động, phải bị khai trừ ra khỏi đảng”, và tiếp theo, trong tháng 7, nặng lời hơn: “Những kẻ đòi đa nguyên đa đảng, từ bỏ CNXH, đòi Tam quyền phân lập, đều là bọn bất hảo” (chớ không phải kẻ có lý luận như Trọng), ai cũng nhận thấy đường lối lệ thuộc Tàu của Trọng thể hiện rất rõ: «Việt nam với Tàu là một. Một chế độ, một văn hóa …”
Giờ đây, chúng ta thử hình dung cái “một” đó là gì, như thế nào, qua chánh sách của Tập Cận-bình?
Không thể dân chủ hóa chế độ
Theo Giáo sư Jean-Pierre Cabestan, chuyên viên về Tàu, nhận xét mang tính kết luận “Ở Tàu, cá nhơn làm giàu và tiêu thụ là ưu tiên, trước sự cần nới rộng tự do và những quyền chánh trị”.
Trong quyển sách mới xuất bản (Demain la Chine: Démocratie ou Dictature?, Gallimard, Paris, 3/2018), ông Cabestan cho rằng khả năng của dân chúng Tàu thích nghi và sự đồng thuận trong nội bộ đảng cộng sản để duy trì quyền lực là sẽ không cần phải thay đổi chế độ hiện tại. Mặc dầu như vậy là không phù hợp vói xu thế thời đại, xung đột mạnh với nền dân chủ Tây phương. Nhiều học giả Tàu cũng lo ngại nghĩ rằng chánh trị và xã hội được tự do để lần lần sẽ dân chủ hóa chế độ là điều khó tránh làm cho đất nước bị xáo trộn, mất ổn định.
Sau Đại hội đảng cộng sản Tàu thứ XIX đưa Tập Cận-bình lên làm Hoàng đế Tàu suốt đời, phân tách những khả năng thích nghi và đổi mới của một chế độ, ông Cabestan quả quyết Tàu «không thể dân chủ hóa» được. Chẳng những «dân chủ hóa không thể được», mà ông còn cho đó, đúng hơn, là một «chế độ độc tài».
Nói đó là một chế độ độc tài vì quyền lực thật sự được thể hiện ở con người Tập Cận-bình, đứng đầu một đảng duy nhứt cai trị nước Tàu theo một mô hình đổi mới độc đoán.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều nước cộng sản đã lần lược thay đổi theo dân chủ. Nhưng Tàu là trường hợp khá đặc biệt. Ngoại lệ chăng? Liệu Tàu sẽ đứng vững được bao lâu khi Tàu hoàn toàn không nghĩ tới từng bước tiến lên theo hướng dân chủ trong lúc thế giới tranh chấp nhau với những ý hệ ngày càng công khai?
Tập Cận-bình chủ trương mở cửa ra thế giới, tiếp xúc với những nước dân chủ nhưng vẫn chống lại những nước này, tìm cách áp đặt tương quan lực lượng có lợi cho mình. Tập tìm cách xuất cảng mô hình Tàu ra thế giới, nhứt là nhắm những nước kém mở mang. Không phải chỉ để bảo vệ chế độ hay củng cố tính chánh thống của chế độ, mà đó chính là tham vọng bá chủ thế giới của Tập Cận-bình.
Khi nói dân chủ, người Tàu cũng nói họ có dân chủ. Chế độ ở Tàu của họ là chế độ dân chủ. Thứ dân chủ tốt hơn dân chủ tư bản cả vạn lần. Nhưng thứ gọi là dân chủ ở Tàu đó lại từ chối nhơn quyền, từ chối những quyền căn bản như quyền bầu cử tự do, quyền lập đảng, tự do thông tin, tự do phát biểu, công khai ngân sách của đảng cộng sản,…
Đừng quên mô hình độc tài của Liên-xô. Chế độ Tàu là một copie lénino-staliniste: 1 đảng duy nhứt lãnh đạo toàn diện và triệt để, chọn đảng viên “ưu tú” (cốt cán) cầm quyền, đàn áp mọi chống đối, nhứt là không tha những người có ý muốn thay đổi chế độ theo dân chủ tự do thật sự.
Kinh tế phát triển, Tàu sẽ thay đổi theo dân chủ?
Tuy ngày nay, chế độ độc tài ở Tàu không còn như trước khi bức tường Bá linh sụp đổ nhưng đó vẫn là một chế độ cực kỳ phản động. Thật ra chế độ cộng sản là phản động. Nhiều nhà phân tách cho rằng tham nhũng và khủng hoảng kinh tế như tăng trưởng xuống, công nợ tăng, thất nghiệp đông, sẽ làm cho chế độ sụp đổ. Thật ra khả năng thích nghi của dân chúng sẽ giúp chế độ tồn tại. Nhứt là giới dân chúng biết dựa vào chế độ làm giàu vẫn là lực lượng bảo vệ chế độ vững mạnh. Đồng thời Tập quan tâm thực hiện những thay đổi kinh tế nhưng vẫn lo sợ những nhà đầu tư tư nhơn sẽ gây ra nhiều rủi ro cho chế độ nên Tập càng kiểm soát đảng chặt chẽ hơn.
Ngày nay, Tập biết mình có nhiều kẻ thù nên Tập phải tìm cách nắm trọn quyền lãnh đạo trong tay suốt đời. Buông đảng ra là chết. Chỉ yên tâm khi nào Tập loại được hết kẻ thù, đào tạo một thế hệ nối tiếp biết trung thành với Tập. Nhưng liệu toan tính này có vượt quá tầm tay một cá nhơn hay không?
Tóm lại, nhìn vào thực tế ở Tàu, người ta thấy rõ đó là chế độ độc tài nhưng sẽ bền vững nhờ ở khả năng biết thích ứng của đảng, kiểm soát được xã hội, và dân chúng thấy yên lòng, sống được, còn có lắm kẻ làm giàu. Điều này trước đây, mơ cũng không có. Và hơn hết, dân Tàu không biết dân chủ, văn hóa Tàu không có dân chủ. Người Tàu chỉ biết mong đợi ở một minh quân nên ở Tàu không có sự đòi hỏi dân chủ, tự do quan trọng trong dân chúng.
Tàu và Việt nam là “một”, thì hi vọng chế độ ở Việt nam sẽ thay đổi chỉ khi nào dân chúng Việt nam hiểu dân chủ, cần đòi hỏi dân chủ, để tự mình cai trị chính mình, tự mình giữ gìn và bảo vệ đất nước nguyên vẹn cho mình.
Về văn hóa, tuy ngày xưa, học chữ Nho, học văn hóa Tàu nhưng cái học đã được Việt hóa rất căn bản nên giữa 2 nền văn hóa vẫn có nhiều khác biệc.
Một Văn hóa
Những người học chữ Nho thời xưa theo lối nhồi sọ của Tống Nho, không kịp suy nghĩ, đều nằm lòng Việt Nam và Tàu “đồng văn, đồng chủng.” Trân trọng chữ Tàu vì đó là chữ của thánh hiền. Thấy một miếng giấy chữ Tàu lăn lốc trên mặt đất vội lượm lên đem đốt. Không dám bỏ bậy.
Ngày nay, chữ Tàu, tiếng Tàu bắt đầu xuất hiện ở Việt nam rộng rãi với một ưu thế mới. Học tiếng Tàu như một ngoại ngữ là bình thường, không mang ý nghĩa lệ thuộc văn hóa. Nhưng nếu người Việt nam tiếp thu văn hóa Tàu theo tinh thần tống Nho thì sự lệ thuộc này mới kinh khủng hơn mất đất do dời cột móc biên giới, mất đảo, mất biển… Mất văn hóa là mất chính người Việt nam!
Thật ra văn hóa Tàu có mặt đẹp của nó nên nó mới tồn tại tới ngày nay. Nhưng về chánh trị, Tàu có những tấm gương tuân phục vua/tôi vô cùng rùng rợn. Khi lệ thuộc văn hóa thì dĩ nhiên Việt nam sẽ phải được học thứ văn hóa chánh trị này để thể hiện ý nghĩa «một văn hóa» theo chánh sách xâm lược cố hữu của Tàu..
Đây, Cỏ May tôi xin kể một câu chuyện lịch sử Tàu để minh họa thứ văn hóa chánh trị ghê rợn của Tàu.
Chuyện kể:
“Vua Tề hoàn Công nhờ có Quản Trọng, Bảo thúc Nha và nhiều trung thần hào kiệt giúp sức nên đã dựng lên cơ nghiệp bá vương, xứ sở cường thạnh, dân chúng ấm no. Quản Trọng được mọi người kính trọng và biết ơn, Tề Hoàn Công đã coi ông như một người cha và luôn gọi ông là Trọng Phụ, và không cho phép mọi người gọi tên huý hoặc tên thật của Quản Trọng. Cùng làm việc trong cung đình, còn có nịnh thần như Thụ Điêu, Dịch Nha và Khai Phương.
Thụ Điêu thì tự thiến mình để xin vào cung hầu hạ, vì thế vua rất cảm động và thương yêu cách đặc biệt.
Dịch Nha có tài nấu ăn và là người nấu ăn riêng của vua. Một hôm vua nói, các món sơn hào hải vị và trân châu bát bửu ta đều đã dùng qua, có món đã làm ta thật chán. Chỉ duy có món thịt người là ta chưa được nếm thử bao giờ.
Ngay ngày hôm sau, Dịch Nha liền dâng lên vua một món thịt chế biến rất hấp dẫn. Ăn xong, nhà vua hết lời khen ngon và hỏi thịt gì. Dịch Nha nói, đó là thịt đứa con 3 tuổi của hạ thần.
Thứ văn hóa chánh trị tuân phục vì quyền lợi riêng tư này thật kinh khủng. Ngày xưa, để làm vui lòng nhà vua mưu cầu quyền lợi cho mình, Dịch Nha đã không ngần ngại làm thịt con dâng cho nhà vua đổi món ăn. Điều này, về ý nghĩa chánh trị, không khác gì lắm khi trước đây Hồ Chí Minh đã long trọng «sông liền sông, núi liền núi» và «môi hở răng lạnh», trước sau chỉ nhằm thực hiện tham vọng lãnh tụ, phục hận quá khứ gia đình. Tới Lê Duẩn xua mười triệu thanh niên Việt nam vào lửa đạn (***) cũng chỉ để “phục vụ Liên-xô và Trung quốc”. Ngày nay, Nguyễn Phú Trọng và đảng cộng sản sẳn sàng đem đất nước dâng cho vua Tàu Tập Cận bình để đổi lấy sự giàu có.
Bắt đầu từng bước thực hiện thứ văn hóa chánh trị tuân phục, Trọng đã mở rộng cửa cho Tàu tràn ngập qua Việt nam, cho thiết lập khắp nơi nhà máy Tàu thải chất dơ phá hủy môi trường đất nước, bán những vùng đất quan trọng về chiến lược cho Tàu khai thác đời đời.
So sánh với giết con, tự thiến của thời xưa để được làm quan thì tội ác của Hồ Chí Minh, của Lê Duẩn, của Nguyễn Phú Trọng sau này mới thật là tày Trời hơn cả vạn lần. Đặc tính của thứ văn hóa chánh trị Tàu xưa nay là ác. Nhìn lại chế độ Mao để đừng quên có 80 triệu người Tàu chết, từ vạn lý trường chinh, những bước đại nhảy vọt đến cách mạng văn hóa. Vậy khi Việt nam lệ thuộc Tàu, cái ác đó sẽ đem áp dụng ở Việt nam, đời sống dân chúng sẽ lầm than đến đâu? Như dân Tây Tạng, dân Duy Ngô Nhĩ?
Ghi chú:
(*) Khi nói Việt nam sẽ bị lệ thuộc Tàu, rất nhiều tác giả Việt nam dẫn chứng «lời” của Hồ Chí Minh nói với Đại diện của Mao Trạch -đông là 2 Tướng Trần Canh và Vị Quốc Thanh năm 1926 và bốn năm sau, năm 1930, nhơn lúc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, đươc Hồ Chí Minh lập lại một lần nữa với Tổng Lý Chu Ân Lai: “Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một. Một dân tộc. Một Nền văn hóa. Một phong tục. Một tổ quốc. Nếu giúp chúng tôi thắng Pháp, thắng Nhật, thắng tất cả bọn tư bản vùng Đông Nam Á, nắm được chính quyền, thì nợ viện trợ sẽ hoàn trả dưới mọi hình thức, kể cả cắt đất, cắt đảo, lùi biên giới nhượng lại cho Trung Quốc, chúng tôi cũng làm, để đền ơn đáp nghĩa….”.
Rất tiếc xuất xứ của lời này không được rõ ràng lắm. Hơn nữa, năm 1926, chỉ có chế độ thực dân pháp ở Việt nam.
(**)Trường Chinh, Tổng Bí thư đảng Lao Động, Văn thư số 284/LĐ đăng trên Nhựt báo Tiếng Dội, 5/1951, Sài gòn.
(***) Duẩn vâng lệnh Mao làm chiến tranh biển người. Lý thuyết chiến tranh biển người của Mao là “Càng nhiều người bị giết, cách mạng càng thành công” (D. Acemoglu và J. A. Robinson , «Tại sao các quốc gia thất bại”, NXB Trẻ, 2013, trang 545).
Về mười triệu người chết trong chiến tranh do Lê Duẩn được bà 7 Vân xác nhận trong cuộc phỏng vần của nhà báo Xuân Hồng (BBC). Bà 7 Vân nói thêm nếu Tàu không giúp, Lê Duân sẽ phải hi sanh thêm nữa, để giải phóng cho được Miền nam.
Nguyễn Thị Cỏ May
Little Saigon: Cụ bà gốc Việt 75 tuổi, qua Mỹ 11 năm, tốt nghiệp đại học—Thiện Lê
Tháng Năm vừa qua, những ai tham dự lễ tốt nghiệp ở trường đại học Cal State Long Beach (CSULB) đều bất ngờ khi nhìn thấy cụ bà gốc Việt 75 tuổi Trương Thị Phượng nhận bằng cử nhân ngành quản trị kinh doanh.
Bà Trương Thị Phượng
Càng bất ngờ hơn khi bà Phượng mới sang Mỹ 11 năm, và bà bắt đầu đi học ở tuổi 65. Nói về sinh viên đặc biệt này của mình, ông Michael Solt, trưởng khoa quản trị kinh doanh của Cal State Long Beach, cho biết: “Bà đi học và học không thua gì những sinh viên trong độ tuổi 20 và tôi nghĩ các sinh viên trẻ rất tôn trọng bà vì điều đó.”
Bà Trương Thị Phượng chụp hình trước tòa nhà của khoa quản trị kinh doanh. (Hình: Kristy Trịnh cung cấp)
Chuyện học ở Mỹ
Tiếp phóng viên nhật báo Người Việt tại nhà ở thành phố Garden Grove, bà Phượng kể, những năm 1965-1966, bà học ngành Anh Văn ở Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, nhưng chuyện học bị đứt quãng vì thời cuộc.
“Đậu tú tài xong, tôi bắt đầu đi làm để kiếm sống giúp gia đình, nhưng đồng thời tôi cũng bước vào Đại Học Văn Khoa Sài Gòn vì có ý định muốn thành cô giáo dạy tiếng Anh. Nhưng vì chiến tranh đang ác liệt, gia đình cũng neo đơn, tôi là con cả nên phải ngừng học để phụ cha mẹ nuôi bảy đứa em. Tôi thật sự không tiếc là mình phải ngừng học,” bà kể.
Bà Phượng tạm biệt ông Michael Solt, trưởng khoa quản trị kinh doanh. (Hình: Kristy Trịnh cung cấp)
Đến năm 1967, bà thi tuyển đậu vào công ty Điện Lực Việt Nam và được đào tạo thành kế toán viên, làm được một năm thì bà trở thành trưởng phòng kế toán. Đến năm 1979 bà lập gia đình rồi theo chồng về Cần Thơ vì ông là nhân viên của Điện Lực Cần Thơ. Bà sống ở đó cho đến đầu năm 2007 thì sang Mỹ.
“Lúc mới qua, tôi ở nhờ nhà em gái út khoảng một năm rưỡi để giúp em nuôi các cháu. Đến mùa Thu năm 2008, em gái tôi chỉ cách xin đi học có sự tài trợ của chính phủ Mỹ, tức là ‘financial aid.’ Sau đó, tôi ghi danh học trường Coastline Community College ở Westminster. Sau đó, vì trường không đủ lớp, nên tôi học thêm ở đại học Golden West để chuyển tiếp,” bà kể tiếp.
Bà Phượng tại Cal State Long Beach
“Sau khi đậu bằng AA ở Coastline, tôi chuyển lên học Cal State Long Beach vào năm 2013 để học quản trị kinh doanh vì từng có kinh nghiệm làm kế toán nhiều năm. Tại buổi giới thiệu trường cho sinh viên mới, ông khoa trưởng thấy làm lạ vì thấy có một người cao tuổi như tôi đi học,” bà kể thêm.
Nhà ở Garden Grove, lại không biết lái xe, nên mỗi ngày bà phải đi xe buýt tổng cộng bốn tiếng đồng hồ để đến trường. Những năm đầu học ở đây, lúc còn khỏe thì bà lấy những lớp buổi sáng, rồi khi sức khỏe xuống thì bà chọn những lớp xế chiều. “Tôi không dám chọn lớp vào buổi tối vì lý do tuổi tác và an toàn,” bà nói.
“Mỗi ngày tôi đều từ nhà đi bộ ra tiệm Lee’s Sandwiches ở góc đường Westminster và đường Brookhurst để lên xe buýt 60 đến trường. Để lên tuyến xe này đi thẳng đến trường như vậy là một duyên may lớn của tôi. Tình cờ tôi gặp được một phụ nữ đồng hương, bà chỉ cho biết tuyến xe này. Từ đó, trong mùa Hè tôi đi thử lên xuống mấy lần để nhớ xe chạy tới con đường nào để quen, rồi biết cách đi xe buýt vào mùa Thu,” bà chia sẻ.
Trở ngại khi đi học
Là một người cao tuổi đi học đại học cùng với nhiều sinh viên trẻ tuổi, tất nhiên là phải có những trở ngại trong việc học. Bà Phượng cho hay, trở ngại lớn nhất với bà là nghe tiếng Anh không nhanh bằng các bạn trẻ, một phần là vì bà từng học ngoại ngữ này ở Việt Nam, nhưng theo cách dạy phát âm của người Anh, nên bà gặp chút khó khăn ở Mỹ.
Bà Phượng và các sinh viên đồng học trong ngày tốt nghiệp
Trở ngại lớn thứ hai là sử dụng kỹ thuật, nhất là máy tính. Bà cho rằng sinh viên trẻ dễ dàng sử dụng máy tính vì đã quen “vọc” từ nhỏ. Còn một trở ngại nữa với bà là sức khỏe và tuổi tác. Vì cao tuổi và sức khỏe không còn tốt nên bà chỉ lấy hai lớp trong một học kỳ, không như các sinh viên trẻ lấy đến bốn năm lớp.
Tuy vậy, bà Phượng vẫn không nhụt chí và vẫn cố gắng học. Điều gì không biết thì bà đi hỏi riêng các giáo sư, sau khi lớp vừa hết hoặc tại văn phòng của họ. Bà cho rằng, việc mình đi hỏi riêng các giáo sư có lẽ do bà từng có kinh nghiệm đi làm kế toán 32 năm nên bà rất tự tin.
Chính phong cách tự tin đã giúp bà có mặt trong lễ tốt nghiệp Cal State Long Beach vào Tháng Năm vừa qua. Tuy còn phải học thêm hai lớp nữa bà mới nhận được bằng đại học, nhưng vì chỉ tổ chức lễ tốt nghiệp vào mùa Hè nên các trường thuộc hệ thống Cal State cho phép sinh viên dự lễ tốt nghiệp nếu gần hoàn tất chương trình học như bà.
Bà Phượng và các bạn học. (Hình: Kristy Trịnh cung cấp)
Bà Phượng và các bạn đồng học
Những lời khuyên dành cho giới trẻ
Chia sẻ về cách học của mình, bà Trương Thị Phượng kể, khi đi học, đặc biệt là khi thuyết trình, bà luôn có nhiều nhận xét về các bài thuyết trình của sinh viên. Bà cho rằng những sinh viên này thường thiếu chuyên nghiệp vì không được học qua các lớp dạy thuyết trình, từ cách nói đến cách ăn mặc.
Bà khuyên những sinh viên trẻ lúc nào cũng nên tìm cách học, học suốt đời để cầu tiến, phát triển bản thân mình vì con đường chữ nghĩa là cách để đi lên và là bổn phận của con người. Bà cho rằng nếu làm được điều đó thì sẽ tìm thấy tự do và hạnh phúc vì sẽ không bị hạn chế trong nhiều mặt.
Vì nhận được sự giúp đỡ của rất nhiều người, bà đã tiếp nhận được nhiều kiến thức, nhiều tiến bộ và khuyên những bạn trẻ nên luôn học hỏi vì điều đó sẽ đem lại cho họ một tấm lòng rộng lượng đối với mọi người trong xã hội, như các giáo sư và cố vấn đã cho bà.
Thiện Lê
Tại lễ tốt nghiệp, trên bục vinh danh, ông Michael Solt, Trưởng khoa Quản trị kinh doanh California State University of Long Beach phát biểu: “Trong số các sinh viên ưu tú tốt nghiệp hôm nay, tôi muốn giới thiệu một sinh viên rất đặc biệt, rất tiêu biểu – Phương Truong. Bà sang Mỹ định cư ở tuổi 65 vào năm 2007. Chỉ sau 5 năm, ở tuổi 70 là năm 2012, bà chính thức trở thành sinh viên của California State University of Long Beach, và hôm nay bà xuất sắc đứng trong hàng ngũ sinh viên tốt nghiệp. Bà luôn là một tấm gương sáng trong học tập, chuyên cần và chăm chút cho từng buổi học, dù mỗi ngày phải dành đến 4 giờ đi xe buýt để đến lớp và về nhà…”
Cụ Bà Trương Thị Phượng, 75 tuổi đang nhận văn bằng tốt nghiệp
Cố vấn học tập Kristy Nguyên Trịnh chia sẻ: “Tôi rất ấn tượng và ngạc nhiên ngay lần đầu gặp bà tại buổi chào đón tân sinh viên. Bà luôn là một sinh viên giỏi và thông thái, luôn dẫn đầu trong mọi hoạt động, chuẩn bị chu đáo cho từng buổi học, điều quan trọng nhất là bà chưa bao giờ bỏ lỡ hay đến muộn bất kỳ buổi học nào. Bà đã làm mọi người rất tự hào về quyết tâm và động lực học tập của mình. Bà là một hình tượng không chỉ cho tôi mà cho rất nhiều sinh viên noi theo. Tôi tin chắc rằng với ý chí mạnh mẽ và tâm huyết mãnh liệt, bà sẽ chinh phục bất cứ mục tiêu nào trong tương lai mà bà đã hoạch định.”
Thiện Lê
9 Đặc Điểm Khác Nhau Giữa “Bạn” Và “Bè”—LH
Bạn bè chính là những người yêu thương chúng ta nhất chỉ sau gia đình mà thôi. Chẳng một ai có thể tồn tại trên thế giới này mà không có lấy ít nhất một người bạn.
Tuy nhiên, bất cứ điều gì cũng có hai mặt của nó, và bạn bè cũng vậy. Sẽ thật tốt khi xung quanh chúng ta là những người bạn sẵn sàng đồng cam cộng khổ, sẵn sàng chìa tay vực ta dậy mỗi lần ta vấp ngã. Đó cũng sẽ là những người chẳng bao giờ quay lưng dù chúng ta có bị cả thế giới bỏ rơi.
Nhưng bên cạnh đó, cũng tồn tại những người bạn không thật sự tốt. Họ đến với chúng ta vì những mục đích nhất định, để khi đạt được mục đích rồi thì họ sẵn lòng rời đi. Vậy cho nên mới có sự phân biệt rạch ròi giữa “bạn” và “bè”. Có nhiều “bạn” thì hạnh phúc, còn có nhiều “bè” lại là điều bất hạnh.
Dưới đây là 9 dấu hiệu để chỉ ra sự khác biệt rõ rệt đó. Nên nhớ, chẳng thà có ít bạn mà tốt, còn hơn có nhiều bè để cuộc đời mãi trôi nổi lênh đênh!
Những người bạn thật sự sẽ luôn trở thành điểm tựa cho bạn, lắng nghe bạn nói và đưa ra lời khuyên nhủ để bạn giải quyết vấn đề ổn thỏa hơn. Trong khi đó, những người bạn xấu lại chỉ coi bạn là cái thùng rác chuyên dụng để xả hết bực dọc lên người bạn, họ chẳng mấy khi chịu lắng nghe tâm sự của bạn đâu!
Đôi khi bạn sẽ phải đưa ra một vài sự lựa chọn, và nếu sự lựa chọn của bạn không khiến cho người khác vui lòng thì họ cũng chẳng trách mắng bạn đâu. Thậm chí họ còn cảm thông và chia sẻ cùng bạn với những băn khoăn mà bạn đang có. Còn đối với nhiều người, chỉ cần bạn làm họ phật ý, họ lập tức tìm cách khiến bạn thấy dằn vặt và áy náy. Chính là họ đang cố gắng làm bạn tổn thương cho hả hê cơn giận đấy!
Những người bạn tốt luôn đặt tiêu chuẩn tôn trọng lẫn nhau lên hàng đầu. Đối với họ, sự tự tôn của mỗi người là ngang nhau, và họ sẽ không bao giờ làm gì khiến bạn cảm thấy bị hạ thấp hay coi thường. Trong khi đó, nhiều người bạn xấu sẽ luôn tỏ ra không hài lòng với bạn, ưa chấp nhất và khiến bạn thấy mất tự tin… Đừng băn khoăn gì cả, hãy nói lời say goodbye với họ ngay lập tức!
Bạn có bao giờ để ý về những cuộc tranh luận? Nếu là bạn tốt, họ sẽ lắng nghe bạn nói, sau đó cùng đưa ra ý kiến để cả hai cùng thảo luận. Còn nếu là những người bạn xấu, họ chỉ biết đến ý kiến của riêng mình họ mà thôi, và luôn tự cho là họ đúng…
Dấu hiệu nhận biết tình bạn rõ nhất và cũng chính xác nhất là hãy xem họ quan tâm tới bạn nhường nào. Bạn tốt thường không vì khoảng cách mà xa cách lòng, họ sẽ gọi điện hoặc tìm cách hỏi han để biết rằng bạn có đang ổn hay không. Còn bạn xấu, đương nhiên bạn chỉ thấy sự xuất hiện trở lại của họ khi mà họ cần tới bạn trợ giúp!
Những người bạn biết suy nghĩ cho bạn chắc chắn sẽ để bạn được sống thoải mái và tự tin khi là chính mình. Và đối với họ, cá tính thật của bạn mới là điều đáng quý, bạn chẳng cần phải cố gắng thay đổi gì cả. Trong khi đó, những người bạn xấu sẽ luôn muốn kiểm soát bạn, muốn bạn thay đổi, gần như trở thành một bản sao của một ai đó để họ thấy hài lòng. Ồ, bạn đừng nói là bạn sẽ thay đổi vì những người bạn không ra gì này nhé!
Chỉ cần bạn nói bạn không ổn, bạn sẽ được tận hưởng khoảng thời gian được ở một mình để có thể cân bằng lại suy nghĩ. Đây là cách mà những người bạn tốt sẽ làm đối với bạn. Còn những người bạn xấu, họ đâu quan tâm xem bạn có vấn đề gì, họ sẽ vẫn kéo bạn đi và muốn bạn tham gia vào vấn đề của họ. Đừng trông chờ vào sự quan tâm từ những người như vậy, bởi bạn sẽ thất vọng đấy!
Bạn có công nhận rằng khi ta gắn bó với một người, ta sẽ luôn mong muốn được chứng kiến người ấy thành công không? Và đương nhiên, những người bạn tốt của bạn cũng như vậy. Họ thậm chí còn tìm cách ăn mừng thật lớn để cho cả thế giới này biết họ có một người bạn cừ khôi như thế nào! Trong khi những người bạn xấu thì ngược lại hoàn toàn. Họ sẽ tỏ ra khó chịu ra mặt nếu thấy bạn tiến bộ hơn họ, đi đường dài hơn họ, được nhiều người quan tâm hơn họ… Họ tìm cách chỉ trích bạn trước mặt những người khác để cố chứng tỏ rằng họ hơn hẳn bạn.
Và cuối cùng, những người bạn thật sự là những người luôn rộng mở vòng tay chào đón những người bạn khác của bạn. Họ không phán xét điều gì cả, chỉ cần biết đó là bạn của bạn mà thôi. Trong khi những người bạn xấu lại rất khó lòng có thể hòa nhập với bạn bè của bạn. Đơn giản vì họ sợ hãi vị trí của họ sẽ bị lung lay bởi ai đó. Và họ thường chỉ muốn ích kỷ chiếm hữu bạn cho riêng mình mà thôi!
Bạn Thật, Bạn Giả—Lê Hữu
Nhiều người vẫn cho rằng một trong những hạnh phúc trên đời là tình bạn. Ðiều này thì ai cũng dễ dàng đồng ý thôi. Thế nhưng, để có tình bạn thực sự thì cần có những người bạn thực sự. Như thế nào gọi là một người bạn?
Liệu có phải những ai ta vẫn giao du đều là bạn cả? Không đâu, số người ấy gồm cả “bạn” lẫn “bè,” và phần nhiều là bè hơn là bạn. “Bạn bè” không phải là cách nói cho xuôi tai, cũng không phải là “từ láy” này nọ như nhiều người tưởng mà là “từ ghép” của hai chữ “bạn” và “bè.” Bạn, nói đơn giản, là người đồng hành cùng chia vui sẻ buồn với ta trên những chặng đường đời. Bè là những kẻ tạt ngang qua đời ta trong chốc lát, rồi đường ai nấy đi mà không chút vấn vương. “Bè” trong những chữ “bè phái,” “kết bè, kết đảng” gợi lên ý tưởng không mấy hay ho. Tình bạn thường “tĩnh” hơn là “động,” lắng đọng hơn là sôi nổi. Những kẻ ở quanh ta trong những cuộc vui ồn ào mà ta tưởng là “bạn,” thường chỉ là “bè.” Như những cuộc vui chóng tàn, những người “bạn” ấy cũng nhanh chóng biến mất khỏi đời sống chúng ta. Những người tưởng rằng mình có nhiều bạn, thực ra là những người không có hoặc có rất ít bạn (và không biết phân biệt đâu là bạn, đâu là bè).
Bạn lại có “bạn thật” và “bạn giả.” Bạn thật là khuôn mặt thật, không điểm phấn tô son. Bạn giả là chiếc mặt nạ, với nhiều lớp phấn dày. Như cuộc sống có hai mặt, con người vừa có bạn thật lại vừa có bạn giả. Bạn giả lúc nào cũng nhiều hơn bạn thật, đến với ta vì lợi ích nào đó chứ không vì tình thật. Bạn giả là người đóng giả vai người bạn, ngoài mặt tỏ ra thân thiện nhưng có thể bất ngờ tặng cho ta những nhát dao trí mạng từ phía sau lưng hoặc phun ra những nọc độc của lòng đố kỵ. Ðôi lúc có kẻ thù còn dễ chịu hơn có những người bạn giả. Bạn giả cũng tựa như bạc giả vậy, đã không xài được mà để trong túi có khi mang họa.
Khác với bạn giả, bạn thật là người thực tâm mong muốn những điều tốt lành cho người bạn mình và vui sướng trông thấy bạn mình hạnh phúc, thành đạt trong cuộc sống (dẫu có “qua mặt” mình đi nữa). Bạn thật không ngại nói thẳng nói thật về những sai trái của bạn mình để giúp bạn cải thiện bản thân cũng như không ngại tán thưởng về tài năng hoặc thành công của bạn mình để giúp bạn thêm tự tin trong cuộc sống. Bạn thật luôn nói tốt về bạn mình sau lưng bạn. Bạn thật là người đến với ta trong lúc ta trần trụi hay trong thời kỳ đen tối nhất của cuộc đời, và cũng là người mà ta có thể đến gõ cửa một cách thoải mái khi cần sự giúp đỡ.
Những người bạn như thế làm sao có nhiều được, thường chỉ đếm được trên những đầu ngón tay của một bàn tay (và ít khi đếm hết được). Ðến một tuổi nào đó người ta khó mà có thêm được những người bạn mới, trong lúc những người bạn cũ thì cứ mất đi lần lần. Tình bạn cần có một bề dày của sự gắn bó, cảm thông và tin cậy.

Với những người tôi thực lòng quý mến, tôi vẫn nói: “Tôi mong cho anh/chị không có bạn hơn là có những người ‘bạn giả’. Có được chừng vài ba người ‘bạn thật’ thì anh/chị là người may mắn và hạnh phúc.”
Lê Hữu
Xíu—Tiểu Tử
Nàng là người Việt gốc Hoa. Tên nàng là Trịnh Tiểu Mi, một cái tên rất… “tài tử Hồng Kông.” Mà thật sự, nàng cũng có nét tài tử Hồng Kông, bởi vì nàng đẹp. Ở nhà gọi nàng là “A Xíu”, một cái tên có âm thanh thật dễ thương. Và cũng hạp với con người của nàng: nhỏ nhỏ thon thon, cân đối gọn gàng như con búp-bế.Gia đình nàng có nhà ở Chợ Cũ Sàigòn. Tầng dưới là cửa hàng bán cà phê đã rang rồi, cà phê hột và cà phê xay đủ loại. Hai tầng trên để ở và sân thượng là nơi rang cà phê.
Nàng là con gái duy nhứt của gia đình, lại là đứa con út nên được cưng như trứng mỏng. Hai người anh đã có gia đình, đã “ra riêng”, cũng bán cà phê nhưng ở tuốt trong chợ lớn. Ngày ngày, nàng phụ “mà má” đứng bán cà phê. Khách hàng tới mua nườm nượp, nhất là giới trai trẻ. Cà phê được pha trộn và rang theo lối thủ công gia truyền, ngon có tiếng. Bán đắt đã đành nhưng cửa hàng đông khách, có lẽ phần lớn tại vì nàng duyên dáng dễ thương! Bằng cớ là thiên hạ nói “Cà phê A Xíu” chớ không ai nói “Cà phê Hối Ký” là bản hiệu của cửa hàng!
Lễ Ra Mắt Sách Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam Theo Dòng Lịch Sử
by Vietoday
by Truyền Hình Việt Nam
by Khanh Vũ
by Anh Trương
VIETV Network by Stanley Cao
Những Mảng Bám—Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Ông dừng xe lại trước một con đường nhỏ rẽ vào một khu dân cư. Phong cảnh này… ồ, trông quen quá! Ông cố moi óc xem mình đã thấy nó ở đâu. Một con đường đầy những cây phượng tím trồng hai bên. Ông quẹo vào, và đậu lại bên lề. Ông bước ra khỏi xe. Màu tím của những bông hoa này ông không thể nói rằng gợi cho ông cảnh ở Việt Nam được. Việt Nam không có phượng tím. Nhưng cái dáng cây, hai hàng cây tăm tắp, những hạt nước mưa còn đọng trên lá như những giọt lệ, lại đang khiến một cái gì bật ra từ trong trí ông, như thể lâu nay nó đã nằm nghỉ thật sâu.
A! Ông như thấy lại những chuyến xe tất bật ra vào con đường này. Những chiếc xe lấm lem bùn đất. Những chiếc xe mang dấu hồng thập tự. Có những người tài xế mặc đồ “xi-vin”, và cũng có những người tài xế, những nhân viên mặc đồ lính. Ông thấy mình đang nằm trên một chiếc “băng-ca”. Ông không cần ngước lên mà cũng đã thấy được trời xanh mây trắng. Ông nghe được cảm giác đau đớn đến như tê dại ở cánh tay. Ông ngửi được mùi thuốc mê. Và ông hết ý thức…
Tiếng chuông từ chiếc cell phone trong túi áo vang lên. Ông giật mình. Những cảnh trong trí vụt biến mất hết. Ông bắt máy, nói theo phản xạ:
– Hello!
– Ông! Ông ở đâu, sao chưa thấy về ăn cơm”
– Hả”””
– Ông! Tôi đây nè! Ông đi đâu vậy”
– Ơ….
– Ông!
Ông ngơ ngác. Ông định thần một giây nữa, và đã nhận ra tiếng của bà. Ông đáp vội:
– Tôi đang ở… ở…
– Ở đâu”
– Tôi… – Ông ngó quanh- Tôi đang ở…
Giọng nói bên kia nghe rất sốt ruột:
– Ông nói nhanh lên! Có chuyện gì”
– Ơ… không… Tôi không biết… ở đâu…
– Ông nói gì kỳ vậy” Ông lái xe phải không”
– Phải.
– Xe.. có bị mất không”
– Không. Xe vẫn đang ở cạnh tôi đây.
– Vậy ông làm gì” Ông đang ở đâu” Ông… ông dòm cái tên đường, nói cho tôi biết đi!
– À… à, – Ông tiến đến dòm bảng tên đường – Dalton Drive.
– Ông tới đường đó làm gì”
– Tôi… tôi không biết.
– Làm sao ông tới đó”
– Tôi lái xe… nhưng … tôi không biết làm sao tôi tới đó.
– Thôi ông ơi, để tôi nhờ mấy đứa nhỏ giúp. Ông đứng đó, đừng đi đâu hết nhé!
Đường Dalton. Đường phượng tím. Con đường đẹp đến quen thuộc… Ủa, mà làm cách nào mình đã đến đó” Mình lái xe mà!.. Ông chơi vơi trước câu hỏi của gia đình và của chính ông. Ông bắt gặp vẻ mặt lo lắng của bà, và ánh nhìn nghi ngại của thằng con. Trong bữa cơm chiều, ông gắp và đưa đẩy thức ăn vào miệng như lấy lệ. Ông cũng còn hoang mang lắm. Ông từ từ nhớ ra là mình đã ngồi vào xe và lái đi như có ai dẫn dắt. Nhớ ra được rồi thì ông lại càng hoang mang hơn. Ôi! Ông đã làm cái gì vậy”””
Ông đến trước tủ lạnh, toan mở tủ lấy đĩa trái cây, nhưng ông dừng lại. Ông thấy trên mặt cửa tủ lạnh, gắn đầy những tờ “sticky notes” trên đó ghi những câu nhắc nhở: “Nhớ uống thuốc bổ lúc 6 giờ tối”, “Nhớ gọi điện thoại cho bác sĩ ngày thứ ba”, “Nhớ ghi địa chỉ nhà bác Châu”… Ông thấy bần thần quá! Ông trở lại bàn, ngồi lặng thinh.
Bà trở lại sau khi ra phòng ngoài nghe điện thoại. Bà hơi nghiêng đầu, hỏi ông:
– Ông không sao chứ”
– Tôi OK.
– Ông xem mà đi nghỉ sớm đi nhé!
– Ừ. Mà … bà này! Tự nhiên tôi muốn mình đi thăm bác Châu. Lâu quá không thăm bác. Chắc bác cũng bận đi đâu nên không thấy bác ghé mình.
Bà kêu lên thảng thốt:
– Kìa! Ông!
– Hả” Chuyện gì”
– Ông nói gì vậy” Hôm qua, nhà mình mới đi… phúng bác Châu. Bác ấy mất rồi! Ông quên rồi sao”
– Hả”””
Bà im lặng. Ông cũng im lặng. Không biết được bao lâu, rồi ông nghe bà nói khẽ:
– Ông đi nghỉ sớm nhé! Tôi đi tụng kinh đây!
– Ừ, đi… tụng kinh.
Ông cười nhẹ như để làm bà yên tâm.
Bà quay đi rồi, ông thơ thẩn ra sân. Ông đã nhớ lại, hôm qua cả nhà vừa mới đi đám bác Châu.
Ông cầm cây đàn lên. Đã lâu ông không đàn. Cây đàn guitar này là của thằng cháu nội. Ông nhớ một đoạn nhạc của Glen Campbell và ông khe khẽ hát. Bỗng nhiên trong tâm tưởng của ông, như một đợt sóng, những hình ảnh từ thuở xa xưa nào lần lượt sắp hàng trước mắt. Ông thấy mình và một bạn đồng đội đến trước căn nhà của bác Châu, ở một khu ngoại ô Sài Gòn. Hai bác cùng xuất hiện ở cửa, mời họ vào. Hai người lính, áo còn khét mùi chiến trận, vào nhà, và không dám ngồi. Trong một nghi thức tự lập ra, họ đứng nghiêm chào hai bác Châu, và báo tin con trai của họ đã tử trận. Ông thấy ông và bạn mình đứng thẳng, đông cứng như hai pho tượng bằng nước đá. Ông nghe tiếng kêu khô khan của bác Châu trai và tiếng nấc của bác Châu gái. Một hình ảnh khác tiến lên che mờ khuôn mặt của hai bác. Đó là gương mặt của người chiến hữu đang ngã xuống giữa khói đạn mịt mù. Ông thấy mình đang vuốt mắt cho bạn. Rồi ông thấy mình đang băng qua một hào sâu, tiếp tục cuộc chiến. Ông nghe một cái gì nhọn và nhỏ xoáy vào da, rồi cắm vào thịt rất nhanh, rất sâu, đi qua mạch máu. Ông ôm cánh tay, lết vào một chỗ nấp. Máu chảy quá nhiều. Ông nhắm mắt, nghiến răng chịu đau. Người lính cứu thương chạy đến gần. Ông như lịm đi…
Những cảnh gián đoạn trôi qua như trong một cuốn phim bị đứt. Ông thấy lại cảnh bệnh viện bên một con đường trồng đầy cây còng. Phải rồi! Cây còng. Ông nhớ như in. Hoa màu hồng nhưng sau những cơn mưa trông sao buồn quá! Ông hiểu vì sao nhìn cây phượng tím ông lại liên tưởng đến những con đường cây còng. Ông mỉm cười. Có một chút gì vui vui, như thể ông đang được xem một cuốn truyện cũ mà mình từng rất thích.
Bà đến ngồi bên ông. Ông nhìn qua, cười nhẹ:
– Bà muốn nghe hát không”
– Có.
– Bà muốn nghe nhạc gì”
– Gì cũng được. Ông đang chơi nhạc của Glen Campbell”
– Ừ. Tôi chơi tiếp nhé! Mà bà này, hình như Glen cũng bị…
– Bị gì” Ông hát đi! Bị gì… kệ người ta – Bà nói như át lời ông.
– Được. Bà không muốn tôi nói thì thôi. Tôi hát mà có quên lời thì bà nhắc nhé!
– OK.
Ông cười xòa. Rồi ông hát. Ông không quên một chữ.
“Galveston”. Gương mặt Glen Campbell thời trai trẻ hiện ra như đang song ca với ông. Ca sĩ thần tượng của ông, cùng tuổi với ông đấy! Ông thường nói với bà: “Tay này sướng hơn tôi nhiều, đâu có ra chiến trường như tôi, nhưng tôi cám ơn ổng vì ổng cho tuổi trẻ của mình những bản nhạc hay”.
“Galveston, oh, Galveston
I am so afraid of dying
Before I dry the tears she’s crying
Before I watch the sea birds flying in the sun…”
Ông dừng lại đột ngột. Bà nghĩ rằng ông quên lời. Bà nhắc:
– at Galveston.
Ông nhìn bà. Ông như người mê. Tôi sợ tôi chết trước khi tôi lau khô nước mắt của nàng, trước khi tôi được nhìn ngắm những cánh chim hải âu bay trong nắng… Ôi! Ông sợ ông sẽ quên trước khi ông nhớ được hết mọi điều. Bảy mươi mấy năm là một đoạn đời dài. Phải nói là những đoạn đời rất dài, nối với nhau ở những ngã rẽ. Ông đã để những đoạn đời lắng chìm. Đôi khi ông nhớ lại, nhớ rất rõ. Nhiều khi ông quên mất.
– Bà này! Tôi muốn nói với bà chuyện này, mà bà đừng có la tôi đấy!
– Ông nói đi. Về chuyện gì”
– Về Glen Campbell.
Bà như kêu lên:
– Lại nữa!
– Bà nghe này, Glen sẽ làm một “tour” hay một buổi “chia tay”, thấy cũng hay hay…
Bà ngập ngừng:
– Ông … ông muốn nói…”
Ông cười to:
– Bà khoan hiểu lầm đã. Tôi thì không. Hãy để cái gì đến sẽ đến. Tôi không muốn rùm beng đâu! Hơn nữa, mình không phải là nhân vật nổi tiếng gì cho lắm. Tôi muốn yên tĩnh.
– Nhưng nói cho mọi người, chia sẻ cho mọi người, thì cũng là một điều hay. Mà… ông ơi, nghe nói bệnh này có xác suất cao ở phụ nữ, sao ông lại…
– Bà lẩm cẩm chưa! Nam cũng bị vậy! Mà đúng ra nam là phải bị nhiều hơn chứ! Nam hút thuốc, nam uống rượu, nam ít vận động hơn nữ. Có gì đáng ngạc nhiên đâu! Có điều nữ bị nhiều hơn nam là ông Trời hơi bất công rồi đó!
– Tôi… tôi rồi… có sẽ bị không hở ông”
– Tôi tin là không. Bà kinh kệ hàng ngày, bà thông minh lắm đó, yên tâm đi!
Hai người cười vang, và lại trêu nhau vui vẻ. Ông như cất đi bớt chút gánh nặng. Nỗi ám ảnh đè lên tâm tư ông hàng ngày. Từ hôm lái xe đi như người mộng du đến khi vào bệnh viện để chẩn bệnh kỹ lưỡng, ông biết đã có một thay đổi rất lớn, như thể cuộc đời lại qua một ngã rẽ khác nữa. Nhưng ông vốn đã tập tính chấp nhận từ hồi còn trẻ, cho nên ông cố gắng bình tĩnh để đón nhận. Ông xin ngồi lại nói chuyện với bác sĩ. Bệnh ông chưa nặng, nhưng không thể coi thường. Bác sĩ cho ông xem hình chụp bộ não của ông, giải thích cho ông nghe về những chỗ có “vật lạ”. Những mảng bám! Người trong chuyên môn gọi đó là “amyloid plaque”. Vị nữ bác sĩ dễ thương lại còn lấy giấy bút ra vẽ và giải thích đơn giản cho ông biết đó là một loại chất đạm “cứng đầu”, bình thường nó tan rã, nhưng ở ông và những người đồng bệnh, chúng tích tụ lại và bám dính giữa những tế bào thần kinh, ngăn cản hoạt động của não. Cô lại vẽ thêm những “mớ tóc rối” nằm trong tế bào thần kinh, nói rằng đó là thủ phạm gây nên sự hủy hoại của các tế bào này. Đương nhiên là ông nhận được những loại thuốc đặc trị, rồi lời khuyên về một chế độ ăn uống và tập thể dục để “làm chậm tiến trình của bệnh”, ông chăm chú nghe theo.
“Làm chậm tiến trình của bệnh”, ông lẩm bẩm.
“Cho tôi lại trí nhớ!” – Ông thét vang trong giấc ngủ. Ông choàng tỉnh, thấy bốn bề yên lặng. Người bên cạnh ông vẫn đang ngủ say. Ông nhìn kỹ gương mặt này, nhờ ánh đèn mờ mờ của chiếc đèn ngủ. Trong giấc mơ ông đã thấy lại gương mặt của từng đồng đội. Ông nhớ rất rõ tên của từng người cùng những thói quen tốt hay xấu của họ. Cả những bản nhạc mà anh em cùng đàn hát với nhau khi về hậu cứ. Rồi đến những con sông, những ngọn núi, những khu rừng… tất cả sáng ngời trong một góc trí nhớ như người ta xem một phần sân khấu sáng choang nhờ ánh đèn chiếu tối đa vào. Bên ngoài khoảng sáng đó là một vùng đen thăm thẳm. Ông thức dậy thấy mình ở trong vũng đen ấy. Người bên cạnh ông vẫn ngủ say. Ông moi óc, tự hỏi: “Ai đây”..”
Ông đón cái cốc từ tay bà. Ông mỉm cười, nói:
– Cám ơn.
Bà nhìn ông hớp từng ngụm nóng hổi. Bà hỏi:
– Vừa uống không ông”
Ông gật gù:
– Ngon lắm, cháo ngon lắm!
Bà kêu lên:
– Ông nói sao”
– Cháo… cháo ngon lắm!
– Ông nè, ông hãy nhìn kỹ tôi pha cho ông cái gì đây!
Ông nhìn vào cốc, rồi bỗng như tắc hết ý, ông lắc đầu, ngơ ngác. Bà nói nhẹ nhàng:
– Cà phê, ông ạ! Ông muốn ghẹo tôi phải không”
– Ơ! Cà phê! Cà… phê!
Bà cười rồi quay đi như coi việc vừa rồi là chuyện ông cố ý trêu bà.
Nhưng ông thì không. Ông không đùa, không trêu. Mấy ngày nay ông đã thấy triệu chứng nhầm lẫn và quên tên những đồ vật thông thường nổi lên rõ ràng. Và đặc biệt hơn cả, đáng sợ hơn cả, là sự việc đêm hôm qua ông thức dậy không nhận ra bà bên cạnh. Ông biết đó là người rất quen nhưng không nhớ là ai, phải gọi là gì. Ông cảm thấy hoảng sợ với chính mình. Nhưng sáng ra thì mọi việc lại không có gì khác lạ. Ông đã mỉm cười chào bà khi bà ra sân, nơi ông đang ngồi sưởi nắng.
Ông đến bên bàn. Ông định thần một lát, nhìn vào cái vật quen thuộc hàng ngày mình vẫn dùng. Nó tên là gì nhỉ” Ông lại chơi vơi trong cái vũng tối. Bà đến bên cạnh, đoán ý:
– Ông định gọi cho ai”
– À… cho cái cô xinh đẹp hôm trước…
– Cô bác sĩ”
– Ồ đúng, đúng, cô bác sĩ. Cô bác sĩ có dặn khi nào muốn hỏi gì thì cứ gọi, không cần phải gặp.
– Vậy ông gọi cho cô ấy đi!
Ông cầm điện thoại lên, tần ngần một lát, rồi đưa cho bà:
– Bà … bà coi số rồi gọi giùm cho tôi. Nhiều số quá!…
Và ông nói chuyện với cô bác sĩ. Ông kể cho cô nghe về những giấc mơ, những hồi ức chính xác ông tìm về, cùng những điều lạ lùng xảy ra như quên tên các đồ vật, quên cách gọi người thân, nhầm lẫn và quên những việc vừa mới xảy ra, sự khó khăn với những con số… Rồi ông nghe cô bác sĩ khuyên nhủ ông hãy bình tĩnh, và cô giải thích về “trí nhớ ngắn hạn”, “trí nhớ dài hạn” bị ảnh hưởng ra sao trong căn bệnh của ông. Ông nghe thì ông hiểu. Nhưng ông e rằng sau đó ông sẽ quên hết. Chắc là cô bác sĩ hiểu điều này hơn nhiều, nên cô xin nói chuyện với bà. Ông trao điện thoại cho bà. Ông ngồi bên cạnh. Bà cũng nói chuyện rất lâu với bác sĩ. Khi bà chấm dứt câu chuyện, ông thấy đôi mắt bà đã đỏ hoe.
– Bà này, tôi không có làm sao đâu!
Bà cười gượng:
– Vâng, ông không có làm sao. Bác sĩ bảo ông ráng uống thuốc theo đúng toa. Ông sẽ khỏi bệnh. Có tôi chăm sóc cho ông, ông vui chứ”
– Vui lắm, tôi sẽ vui lắm! Cám ơn bà.
– Ông cám ơn tôi” Khách sáo vậy”
Ông cười to như để lây sự vui vẻ cho bà. Bà soạn trong tủ ra mấy cuốn album, đặt ngay ngắn trên bàn. Bà lẩm bẩm:
– Mình sẽ coi lại mấy cuốn album này nghen ông! Hy vọng những chuyện cũ ông không quên.
– Phải. Chuyện cũ tôi không quên.
– Vậy ông có nhớ lần đầu tiên hẹn tôi, ông thấy tôi mặc áo màu gì không”
– Không phải màu, mà là áo hoa. Bà mặc chiếc áo dài hoa vàng nền xanh rất nhã. Đúng không”
Bà cười trong nước mắt:
– Ông giỏi!
– Bà ơi, tôi xin bà một điều…
– Ông nói đi!
– Lỡ chăng… đến một ngày nào đó, khi tôi không còn nhớ bà là ai, xin bà đừng giận tôi nhé!
– Sao mà tôi giận ông được” Ông bệnh mà! Nhưng ông hãy vui lên, ông sẽ khỏi bệnh.
– Mình có thể làm chậm căn bệnh lại bà ạ, bác sĩ nói vậy. Làm chậm lại. Còn nếu mình muốn chậm lại mà nó không chậm, thì mình ráng chấp nhận nghen! Tôi cám ơn bà trước, vì lúc đó bà sẽ rất cực với tôi đấy! Bà và các con có thể gửi tôi vào viện dưỡng lão.
Bà ôm chặt lấy ông:
– Tôi sẽ chăm sóc cho ông, nếu trời không bắt tôi bị bệnh như ông.
Những mảng bám ngày càng nhiều trên óc. Ông có một thế giới khác. Một thế giới của riêng ông. Bà và các con, cùng với một người được thuê để phụ giúp, đã khá vất vả khi chăm sóc cho ông, bởi ông càng ngày càng khó khăn khi tự làm những công việc đơn giản cho chính mình. Cũng khá đau khổ, khi bà nhận thấy mình không còn quen thuộc với ông nữa. Nhưng ông tỏ vẻ vui thích khi nói về chuyện quá khứ. Ông chăm chú xem những cuốn album và nhận ra hết những người trong đó. Bà vui lây. Bà cũng đi vào cái thế giới đó với ông. Chỉ bằng cách đó. Đôi khi bà đứng lại phía ngoài. Bà để cho ông tự mình hồi tưởng, đắm chìm trong những kỷ niệm của đời người. Mỗi ngày hầu như ông chỉ sống cho hiện tại một vài khoảnh khắc ngắn ngủi. Còn với tương lai, ông không thể hoạch định.
Bà không có gì để than trách. Vì ông đã nói hết những lời “cám ơn, xin lỗi” với bà khi ông còn nhận ra bà. Ông chẳng đã hát “Tôi sợ tôi chết trước khi tôi lau khô nước mắt của nàng, trước khi tôi được nhìn ngắm những cánh chim hải âu bay trong nắng” rồi đó ư” Vậy thì hãy để ông sống với những ký ức cháy bỏng một thời của ông, những đoạn đời đáng sống mà ông luôn hoài niệm. Ít ra, trong giai đoạn này, “trí nhớ dài hạn” của ông vẫn còn nguyên vẹn, não của ông vẫn còn những vùng chưa bị tàn phá, đúng theo lời bác sĩ nói “Người bị bệnh Alzheimer vẫn có một điều hạnh phúc, đó là được sống với những ký ức tuyệt vời”.
Có một ngày, bà mở ti-vi cho ông xem. Ông không còn nhận ra Glen Campbell trên màn ảnh. Vì trên đó là một Glen Campbell bảy mươi mấy tuổi, bằng với ông hiện tại. Ông chỉ nhớ một Glen thời trai trẻ. Ông thấy chán, ông lim dim mắt. Ông nghe tiếng đàn guitar của chính mình. Ông nghe tiếng hát của đồng đội vang trong cánh rừng âm u sau một trận thắng. Rồi như lật qua một trang khác, ông thấy gương mặt của anh con bác Châu từ từ nhòa nhạt. Anh đã ngã xuống. Ông nghe lại tiếng đạn chui vào da thịt, vào đến mạch máu trong cánh tay mình.
Bà đem đến cho ông một ly nước gì không biết. Ông mở mắt, đón cái ly, uống mà không hiểu đó là gì. Rồi ông lại nhắm mắt, tiếp tục phiêu du vào cõi xưa, nơi ông thức dậy trong một bệnh viện. Người lính trẻ sức sống còn tràn đầy. Cánh tay bị thương đã được băng bó. Một gương mặt cúi xuống. Một mái tóc dài được bới gọn sau chiếc mũ trắng. Ông đón ly nước từ đôi bàn tay của người con gái. Nước! Nước ngon quá! Ông nhìn người đối diện. Một đôi mắt đen nhánh đầy tình yêu đang nhìn ông.
Cam Li Nguyễn thị Mỹ Thanh
Người Vợ Là Một Vĩ Nhân—Tràm Cà Mau
Có thời ông Tư thường hay đùa, trêu chọc bạn bè rằng: “Đời người đàn ông có hai lần sung sướng: Lần cưới vợ, và lần vợ chết. “Bây giờ vợ chết, ông mới ý thức được cái câu đùa nghịch đó vô cùng bậy bạ và bất nhân, không nên nói. Có lẽ anh chàng nào nghĩ ra câu nầy là kẻ độc thân, chưa có kinh nghiệm chết vợ. Ông ân hận và tự giận mình.
Ông Tư gieo mình nằm vật ra tấm ghế bành, hai tay ôm mặt khóc rưng rức như đứa bé đi về vắng mẹ. Tiếng khóc buồn bã vang dội trong căn phòng vắng. Ông ước sao chuyện thật hôm nay là một giấc mộng dữ, để khi ông thức dậy, thấy còn có bà bên cạnh. Có thể ông sẽ bị vợ cằn nhằn trách móc một điều gì đó như thường ngày, nhưng thà còn có những phiền hà của vợ, còn hơn là nằm đây một m
Sau khi chết vợ, ông như mất hồn, lãng đãng, trí óc để trên mây. Nhiều lần trên đường về nhà, ông đi lạc, lái xe qua khỏi nhà rồi mà không biết. Ngày xưa, ông hay bực mình mỗi khi được bà nhắc nhở đi lối nầy, quẹo góc kia, và bà cũng nổi nóng la nạt ông mỗi khi đi lạc đường. Bây giờ, mong được nghe lời cáu kỉnh gây gổ đó, mà không có được. Ông thở dài và đau nhói trong tim như có vật nhọn đâm vào. Không thể ngờ, vợ ông không còn trên đời nầy nữa. Bây giờ bà nằm ngoài kia, nghĩa địa hoang lạnh âm u. Không còn chầm chập kiểm soát từng hành động của ông để mà phê bình sửa sai.
Mở cửa, bước vào nhà, ông nói lớn như khi bà còn sống: “Em ơi! Anh đi làm về.” Trước đây, nếu không nghe tiếng trả lời, ông chạy vụt lên lầu tìm vợ. Bây giờ, ông lẳng lặng đến thẳng bàn thờ, thắp ba cây nhang, lạy bốn lạy. Ông thầm nghĩ, người ta chỉ lạy vợ khi vợ đã chết rồi, tại sao không ai lạy vợ khi vợ còn sống? Dù có gây nên tội lỗi tầy đình, cũng không ai lạy vợ bao giờ.
Ông nhìn tấm hình màu, ảnh bán thân của bà, có nụ cười thật tươi, hai vành môi uốn cong, đôi mắt sáng tinh anh, có ánh tinh nghịch. Ông thấy bà còn đẹp lắm, nét đẹp dịu dàng. Thế mà bao nhiêu năm nay, ông không hề biết, và chưa một lần nhìn ngắm kỹ cái nhan sắc của vợ. Sống lâu ngày bên nhau, thấy nhau, nhưng quên nhìn ngắm, chỉ thấy hình thể tổng quát của nhau. Cũng như nhiều ông có vợ thiếu nhan sắc, cũng không bao giờ biết vợ họ xấu. Những ông lấy được vợ đẹp, lâu ngày, cũng chẳng còn biết vợ mình là đẹp. Nhiều bà đi xâm môi, xâm lông mày xong, về nhà, ông chồng cũng không hề biết có sự thay đổi trên mặt vợ.
Ông Tư gieo mình nằm vật ra tấm ghế bành, hai tay ôm mặt khóc rưng rức như đứa bé đi về vắng mẹ. Tiếng khóc buồn bã vang dội trong căn phòng vắng. Ông ước sao chuyện thật hôm nay là một giấc mộng dữ, để khi ông thức dậy, thấy còn có bà bên cạnh. Có thể ông sẽ bị vợ cằn nhằn trách móc một điều gì đó như thường ngày, nhưng thà còn có những phiền hà của vợ, còn hơn là nằm đây một mình.
Ông đã khóc như thế cả tháng mấy nay, mỗi lần đi làm về. Bước vào căn nhà vắng vẻ lạnh lẽo, không còn bóng dáng người vợ thương yêu, làm trái tim ông se sắt, tâm trí ông trống rỗng mịt mờ. Nỗi đau cũng tan dần theo giòng nước mắt, rồi ông thiếp đi trong một giấc ngủ buồn, ngắn. Khi thức dậy, ông nhìn quanh, đâu đâu cũng có bóng dáng, có kỷ niệm với bà. Tất cả đều còn đó. Vật dụng, đồ đạc của bà trước khi chết, vẫn còn để y chỗ cũ, giữ nguyên trạng. Ông không muốn thay đổi chuyển dịch gì cả. Trên bàn trang điểm, vẫn còn chiếc lược nằm nghiêng nghiêng, thỏi son dựng đứng, hộp phấn, những chai thuốc bôi tay cho mịn da, tất cả đều không xê dịch, không sắp xếp lại. Ông tưởng như hương tay của bà còn phảng phất trên từng món vật dụng.
Mỗi bữa ăn, không còn ai thúc hối, hò hét dục ông ngồi vào bàn ngay, sợ cơm canh nguội lạnh. Bây giờ, ông tha hồ lần lửa, không tha thiết đến bữa cơm. Có khi chín mười giờ mới bắt dầu ăn, qua loa cho xong, miệng nhạt phèo. Thường ông để thêm chén dĩa đũa muỗng đầy đủ cho bà. Rồi thì thầm mời vợ ăn, tưởng như bà còn sống, ngồi đối diện và cùng chia vui hạnh phúc trong từng giây phút của thời gian. Ông có ảo tưởng như bà còn ngồi đối diện, đang lắng nghe ông nói. Hôm nay bà làm biếng phê bình, không mắng trách khi ông làm rơi cơm canh ra bàn. Với cách đó, ông tự dối lòng, để có thể nuốt trôi những thức ăn, mà vì buồn chán, ông không còn cảm được hương vị ngon ngọt.
Nhiều khi thức giấc nửa đêm, vòng tay qua ôm vợ, ôm vào khoảng trống, ông giật mình thảng thốt, chợt hỏi thầm, bà đi đâu rồi? Khi chợt nhớ bà không còn nữa, nước mắt của ông chảy ra ướt cả gối. Có khi úp mặt khóc rưng rức, khóc cho đã, cho trái tim mủn ra, và thân thể rã rời. Chiếc giường trở thành trống trải, rộng thênh thang. Ông vẫn nằm phía riêng, bên kia còn để trống, dành cho bà. Ông ôm hôn cái gối, mùi hương của bà còn phảng phất gợi bao kỷ niệm của tháng ngày hạnh phúc bên nhau. Khi không ngủ được, ông bật đèn nằm đọc sách, bây giờ ông không sợ ai cằn nhằn, ngăn cấm đọc sách giữa đêm khuya. Trước đây, nhiều khi ông tha thiết thèm đọc vài trang sách trước khi đi ngủ, mà vợ cứ cằn nhằn mãi, làm ông mất đi cái thú vui nầy. Bây giờ ông nhận ra vì thương chồng, sợ ngày hôm sau ông buồn ngủ, mệt, nên bà ngăn cản, bảo là chói mắt không ngủ được.
Ông tiếc, vợ chồng đã hay cãi vã những chuyện không đâu, chẳng liên quan gì đến ai, mà làm mất đi cái vui, cái hòa hợp của gia đình. Có khi chỉ vì tranh luận chuyện con khỉ bên Phi Châu, mà đi đến to tiếng, giận hờn, khóc lóc, làm vợ chồng buồn giận nhau, dại dột như hai đứa trẻ con ngu dại.
Tại sao phải gắt gỏng, đâu có được gì, mà làm nhau buồn. Bây giờ muốn nói lời ân hận, thì làm sao cho bà nghe được. Ông tự xét, ông là một con người tệ mạt, thiếu hiểu biết. Khi có hạnh phúc trong tay thì không biết trân trọng, để đến khi mất đi, mới ân hận, mà không còn kịp nữa.
Nếu được làm lại, ông sẽ đối xử với bà tử tế hơn, nói nhiều những lời êm ái dịu dàng. Sẽ không nổi giận khi bà làm chuyện ngang phè, sẽ nhường nhịn bà nhiều hơn, và sẽ phớt tỉnh mỗi khi bị bà chê bai, mai miả. Nhất là bày tỏ cái lòng ông, nói ông yêu thương bà, yêu thương lắm lắm. Đâu có gì ngăn trở, mà những ngày bà còn sống, ông không nói được những điều đó. Ông chợt nhớ có ngưòi viết rằng, vợ chồng phải đối xử như ngày mai thức dậy sẽ không còn nhau. Vì chẳng ai được sống mãi, và cũng không biết chắc chuyện gì sẽ xảy ra trong giờ sắp tới, cho ngày hôm sau. Cuộc đời con người vốn bấp bênh trong định mệnh.
Lấy kinh nghiện đó, nhiều lần nói với những người bạn mà vợ chồng còn được sống bên nhau, cho họ biết rằng, họ đang có hạnh phúc quý báu,nênhọ nên trân trọng giữ gìn, kẻo mai đây, khi chiếc bóng, thì tiếc thương cũng đã muộn màng. Đa số có lắng nghe, và tin lời ông là đúng, nhưng họ quên phứt ngay sau đó, và không thực hành điều hiểu biết.
Mẹ ông mất trước vợ sáu tháng. Ông cũng buồn, thương. Nghĩ rằng mẹ già thì chết là chuyện thường tình. Nhưng khi mất vợ, ông cảm thấy đau đớn và buồn khổ vô cùng tận. Buồn hơn mất mẹ mười lần. Ông tự cảm thấy xấu hổ, vì mất mẹ mà lại không đau buồn bằng vợ chết! Có phải ông đã thương vợ hơn thương mẹ chăng? Có phải ông là đứa con bất hiếu? Ông cũng không biết, và không so sánh được hai cái đau vì mất mát. Nhưng rõ ràng, ông đã ngã gục khi chết vợ.
Có khi quẩn trí, ông muốn chết theo bà. Sao cuộc sống vô vị quá chừng. Rồi mai mốt cũng già, bệnh, đâu có thoát được cái chết. Chết bây giờ, nếu còn linh hồn, thì còn gặp lại vợ ngay. Nhưng ông sực nhớ nhiều lần bà nói không muốn gặp ông lại trong kiếp sau. Bà đâu có thù ghét ông mà nói câu đó nhỉ. Nói chi cho ông đau lòng lúc nghe, và còn đau cả đến tận bây giờ. Ông nghe nói, có một loài chim, khi một con chết đi, thì con kia ngày đêm kêu thương, bỏ ăn bỏ ngủ, than gào cho đến chết. Chim còn chung tình đến thế, mà ông thì còn sống, còn ăn, còn ngủ, còn đi làm, còn giữ tiền bạc. Chẳng bằng được loài chim sao?
Trong căn nhà nầy, đâu đâu cũng có dấu vết của bà. Mở tủ đựng ly chén ra, ông đứng nhìn xem, bên trong sắp đặt thứ tự, gọn gàng. Có những thứ mà bây giờ ông mới thấy, và không biết công dụng nó làm gì, khi nào thì dùng đến. Bà đã mua sắm, sắp đặt cẩn thận. Ông cầm một cái ly, biết vật nầy đã có bàn tay vợ đụng đến, ông ghé môi hôn, tưởng đang hôn bàn tay bà. Ba bộ ấm pha trà xinh xắn, bà mang về trong dịp đi du lịch bên Nhật, để cho ông thù tiếp bạn bè. Bà thương ông đến như vậy đó.
Hơn cả chục chai rượu nho, rượu mạnh trong tủ kiếng, cũng do một tay bà mua. Bà không biết uống, nhưng hễ nghe ai khen rượu ngon, rượu quý, thì bà cũng cố mang về cho chồng một vài chai. Ông thường dặn nếu không biết uống rượu thì đừng mua, vì khẩu vị của mỗi người khác nhau. Cũng như mình khen mắm nêm thơm ngon, nhưng cho Tây ăn, thì họ bịt mũi mà oẹ ra. Bây giờ đứng đây, đưa tay sờ vào những chai rượu màu nâu sẫm, lòng ông đầy ân hận, đáng ra lúc đó, ông phải nói những lời tử tế ngọt ngào cám ơn, và bày tỏ cái hân hoan với tình thương chăm sóc của vợ. Những khi đó, ông đã nói những lời chân thật như đất ruộng, làm phụ tấm lòng yêu thương của bà. Ông định nhấp vài hớp rượu để tưởng nhớ đến ơn vợ, nhưng rồi đặt chai xuống, và thì thầm hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương: “Em ơi! lửa tắt bình khô rượu. Đời vắng em rồi say với ai?” Mắt ông cay cay, tim đập sai nhịp.
Tủ áo quần của bà còn nguyên vẹn đó. Những chiếc áo giản dị, màu sắc khiêm tốn. Bà phải chờ cho đến khi bán hạ giá thấp nhất mới dám mua. Bà cần kiệm, không dám hoang phí. Đi đám cưới, tiệc tùng, bà không cần phải thay đổi áo mới, kiểu nầy, kiểu kia. Bà nói: “Ngay cả ông chồng, còn chưa nhớ được kỳ trước mình mặc áo nào, màu gì, huống chi thiên hạ. Họ đâu có dư thì giờ mà vớ vẩn nhớ đến cách phục sức của cả trăm người trong bữa tiệc. Mà dù cho họ có nhớ đi nữa, cũng không sao, đâu có gì quan trọng. Chắc cũng chẳng ai chê mình không có áo quần mới khi tham dự tiệc tùng.” Cái đơn sơ giản dị chân thành của bà làm ông thương và mến phục.
Áo quần của ông, cũng do bà tìm tòi mua giúp. Khi thấy cái áo quần tốt, màu sắc trang nhã, giá cả tương đối được, bà hối hả kêu ông chạy gấp đến tiệm thử liền. Ngay cả áo quần lót, vớ, cà-vạt, cũng do bà mua cho ông. Bà đem áo quần đã cũ sờn vất đi, thay vào các thứ mới. Ông cứ tự nhiên dùng, chưa bao giờ biết kích thước đúng của chính ông. Đã có bà lo hết. Bây giờ không còn bà, ông mới thấy rõ ràng hơn những gì đã nhận được xưa nay mà vô tình không nghĩ đến. Cầm chiếc quần được lên lai trong tay, nhìn đường kim mũi chỉ cẩn thận, ông thấy rõ tình thương của bà gói ghém trong đó. Áo quần mùa đông, mùa hè của ông cũng được bà sắp xếp riêng từng ngăn cẩn thận. Bà đã cho giặt sạch, kỹ lưỡng trước khi được treo xếp vào ngăn tủ áo quần, để dành mặc vào mùa sau. Từ khi có bà trong đời, ông mất dần đi khả năng tự lo, tự lập mà ông vô tình không biết.
Ông nhớ những khi tham dự tiệc tùng, trong lúc ăn uống, khi có chút rau, thịt mắc vào kẽ răng, không dùng lưỡi cạy ra được, bà nhìn ông, biết ngay. Bà len lén mở ví, kín đáo chuyền tay cho ông một cây tăm bọc trong giấy. Ông xem đó như chuyện tự nhiên. Cũng có khi ông quay qua bà hỏi khéo: “Em còn cây tăm nào không?” Bà mở ví, đưa cho ông ngay. Trong lúc ăn, có món ngon vừa ý, bà thì thầm nhắc ông. Hoặc khi lấy thức ăn, bà chọn cho ông miếng ngon nhất. Những lúc đó, ông hơi ngượng, liếc mắt nhìn quanh bàn. Phần ông, thì cứ gắp đại, chưa bao giờ phân biệt miếng ngon, miếng dở. Gắp được cục xương không dính chút thịt cũng cứ vui. Trong bữa ăn, khi thấy ly nước của ông cạn, bà châm, thêm, ông hoàn toàn không quan tâm đến.
Bà biết rõ ông ưa thích món ăn gì, để mỗi ngày nấu nướng. Khi nghe ông khen món nào đó, thì hôm sau, bà nấu ngay cho ông ăn. Ông chỉ lờ mờ nhận ra hảo ý của bà, nhưng không biết nói một câu nịnh cho vui lòng vợ.
Nhiều lần ông bà rủ nhau đi du lịch xa, ông có nhiệm vụ lên mạng mua vé máy bay, đặt thuê khách sạn. Thế là xong. Phần bà lo cho tất cả các mục còn lại. Từ áo quần thường, áo lạnh, áo ngủ, đồ lót, vớ, giày phụ, dép, bàn chải răng, kem, kiếng phụ, tăm, thuốc cấp cứu, thuốc dùng ngừa bệnh, điện thoại di động, giây cắm điện thoại, máy hình, máy điện toán xách tay và các thứ phụ tùng cần thiết. Danh sách của bà đủ bốn mươi tám món. Bà cũng không quên mang theo một ít thức ăn khô, phòng khi lỡ đường. Nhiều khi thấy va-li căng kè, nặng nề, ông gào to: “Đi chơi chứ đâu phải là dọn nhà? Sao không mang theo cả cái tủ lạnh cho tiện.”
Một lần đi Âu Châu, cuộc đình công kéo dài, điện tắt và trời bão tố. Ông bà bình tâm nằm trong khách sạn, không chút nao núng, vì đã có sẵn một ít thức ăn khô mang theo. Thường trước khi đi, bà đọc kỹ và kiểm soát lại chuyến bay, lộ trình, các hãng đưa đón, khách sạn, ngày giờ của các tua du lịch. Bà bắt ông xuất trình giấy thông hành, căn cước, thẻ tín dụng, tiền bạc, kiểm soát lại từng chút một, để khỏi quên bất cứ vật gì. Ông cảm thấy khó chịu vì bị vợ xem như đứa trẻ con. Nhưng khi vợ mất rồi, ông đi xa mà để quên đủ thứ, nghĩ lại càng thương bà hơn.
Ông thường ham mê xem các trận đấu thể thao. Nhiều lần ông đang đi chơi với bạn, bà sợ ông bỏ mất trận đấu, kêu điện thoại nhắc nhở: “Anh nhớ chiều nay 5 giờ có trận chung kết bóng rổ đó nghe!” Ông cám ơn bà, và thu xếp về cho kịp giờ khai đấu.
Từ khi có gia đình, ông phụ thuộc quá nhiều vào vợ. Không có bà, ông như rơi xuống một vực sâu, tối tăm mù mịt, ngày tháng tẻ nhạt. Không gian và thời gian dường như thành trống rỗng.
Mỗi chiều tan sở, ông bâng khuâng không biết đi đâu, về đâu cho đỡ thấy quạnh hiu. Khi vợ còn sống, phải lo về ngay, không dám ngồi quán cà phê lai rai, về nhà vợ hạch hỏi không dám trả lời thật. Có khi ông điện thoại cho bạn, hỏi chiều nay ông đến chơi được không, và xin được ăn cơm tối. Bạn biết ông đang buồn, đơn lẻ, nên thường niềm nở chấp nhận. Nhiều lần, ông mua một vài món ăn ở tiệm, đem đến nhà bạn góp vào mâm cơm chiều và sau bữa ăn, uống trà, cà phê. Ngồi trong ghế bành, đôi khi không nói gì, cầm tờ báo lật qua lật lại, thế mà thấy bớt cô đơn trong lòng yên ổn. Rồi cũng phải về cho gia chủ đi ngủ. Ông ra xe, nỗi buồn lại dấy lên thấm thiá. Trời đất như rộng thênh thang. Đường về nhà hiu quạnh. Nghĩ đến căn nhà trống vắng, lòng ông rưng rưng.
Mỗi khi mở tủ lạnh tìm thức ăn, thấy trống không, chẳng có thứ gì ăn được. Vài ba cây trái đã đen điu rồi? rữa thối. Mấy bó rau đã đổi màu đen, khô quéo. Chai nước lọc cũng cạn. Không còn gì. Trong nhà không có bàn tay đàn bà, thì xem như chẳng còn có cái gì cả. Ông thầm thán phục những người bạn độc thân. Không biết làm sao họ có thể sống sót đến tuổi già, mà vẫn vui vẻ, yêu đời, nói cười. Họ đã làm gì cho tiêu tán quãng thời gian trống rỗng sau giờ tan sở nhỉ?
Như một thói quen, những chiều tan sở, ông chạy thẳng ra nghĩa địa, thơ thẩn bên mộ bà. Trong nghĩa địa hoang vắng nầy, ông thấy bớt cô đơn hơn là về nhà một mình. Cắm vài bông hoa, thắp nén hương. Rồi ngồi trò chuyện, như khi bà còn sống. Nói đủ thứ chuyện, nói nhiều hơn cả khi ông bà còn bên nhau. Ông độc thọai, và ông cứ tin ở dưới lòng đất, bà đang lắng nghe ông tâm sự. Khi có người lạ đi đến gần, ông hơi xấu hổ, nói nhỏ lại, chỉ thì thầm thôi. Ông sợ thiên hạ lần tưởng ông đau bệnh thần kinh. Rồi ông hát cho bà nghe. Hát những bài kỷ niệm, mà ngày trước, ông bà cùng song ca trong những buổi “Karaoke” tổ chức tại nhà bạn bè. Tai ông, vẫn còn văng vẳng giọng bà thánh thót hoà lẫn với tiếng hát trầm ấm trên môi ông. Ông hát từ bài nầy qua bài khác đến khô ran cả cổ. Nhiều khi ông nằm dài trên cỏ, bên tấm bia mộ ngang bằng, nhìn lên trời cao mênh mông và tưởng tượng có bà đang thân thiết nằm bên cạnh. Nghe được cả hơi thở của bà. Hơi thở có mùi hương quen thuộc của ngày nào. Ông thèm nghe vài lời cằn nhằn trách móc của bà.
Khi bóng đêm bắt đầu phủ xuống trên nghĩa địa, ông mới uể oải đứng dậy ra về. Ông nấn ná không muốn rời khu mộ, nhưng vốn yếu bóng viá và sợ ma, không dám ở lại khi đêm đen bao trùm khu nghĩa địa hoang vắng. Ông thì thầm: “Ngày mai anh sẽ đến thăm em.” Có những ngày chủ nhật, ông cứ mãi thơ thẩn quanh khu mộ. Ông nhận ra rằng, bây giờ ông yêu thương yêu vợ hơn nhiều lần khi bà còn sống. Tình cảm ông tha thiết, nồng nàn hơn xưa rất nhiều.
Mùa đông mưa dầm dề, gió thốc từng cơn trên nghĩa địa trống trải, ông trùm áo mưa, ngồi co ro run rẩy trong buốt giá bên mộ bà. Ngày nghỉ ông ngồi từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều. Tâm trí miên man mơ hồ vô định.
Chỉ mới một năm thôi, ông hốc hác, gầy rộc, vì mãi miết đắm chìm trong thương nhớ, khổ đau. Nhiều người khuyên ông nên đi bác sĩ tâm lý để điều trị, để tránh sa vào tình trạng suy sụp trầm trọng.
Ông nghĩ, bác sĩ cũng không giúp gì được khi trong lòng ông thương nhớ bà. Bác sĩ không thể làm bà sống lại, không thể làm phép lạ cho ông quên buồn.
Một buổi sáng khi nắng vàng rực rỡ nhảy múa trên khu nghĩa địa, gió mát mơn man cỏ cây, tiếng chim kêu văng vẳng. Ông Tư rầu rĩ mang bó hoa hồng đến đặt lên mộ bà, định than vãn vài câu cho bớt nỗi buồn thương không dứt được trong lòng. Ông ngạc nhiên thấy một tờ giấy cuộn tròn trong bình đựng hoa. Ông giật mình, ô kià, lạ chưa, có nét chữ của bà. Ông mở tờ giấy ra đọc. Một bài thơ của ai chép tay chữ viết giống hệt nét chữ bà. Những chữ h, chữ g và cả cách đánh dấu hỏi ngã. Ông run run đọc:
“Đừng đứng khóc lóc bên mồ em. Bởi em đâu còn dưới đó nữa. Em đang là ngàn gió bay cao trên đồng nội, là ánh dương quang lóng lánh giữa biển trời. Em đang tắm trong mưa thu mát dượi. Em đang trên cao, ngàn sao của giải ngân hà. Và một sáng mai kia, tiếng chim đánh thức anh. Thì hãy biết đó là tiếng em kêu anh. Thôi đừng khóc bên mồ em, chúng ta sẽ gặp lại nhau sau…”
Ông đọc đi đọc lại đến ba lần, và chợt nhớ ra đây là lời bản nhạc phổ từ bài thơ của bà Mary Elizabeth Frye viết trong cơn xúc động trên một mẫu giấy vụn. Trước đó bà Frye nầy chưa hề bao giờ làm thơ. Bài thơ nầy về sau rất nổi tiếng, phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới, được phỏng dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau. Ông đã từng nghe trong các đám tang người Mỹ. Nhưng khi đó, ông chẳng hề để ý. Bây giờ được đọc lại, ông thấm thiá và ngộ ra: Đúng. Bây giờ bà đâu còn nằm dưới đó nữa. Bà đang ở trên miền cực lạc. Bà đang sung sướng trong một thế giới khác, không có khó khăn, vất vả, không giận hờn ganh ghét, không có chiến tranh giành giựt, và không phải “Đổ mồ hôi trán mới có được miếng cơm vào mồm.” Thế thì, tại sao lâu nay ông phải âu sầu thương tiếc khóc lóc. Ông đã tự làm khổ ông, tự đọa đày trong vũng đau thương. Nếu bên kia thế giới mà bà biết được ông khổ sở rầu rĩ như thế nầy thì bà vui hay buồn? Ông tự hỏi, ông đau đớn vì thương bà hay tự thương mình? Bà đang hưởng lạc phúc, thì ông phải mừng, chứ sao lại sầu khổ? Nếu ông tự thương mình, thì phải chống tay đứng dậy, làm cho ngày tháng còn lại nầy được vui vẻ, hạnh phúc và lành mạnh hơn là chìm đắm trong tối tăm mịt mù. Ông đến trước bia mộ và thì thầm: “Đúng, em đâu còn nằm dưới lòng đất nầy nữa. Thân xác là cát bụi phải về với cát bụi. Không còn là em nữa. Em đã bay cao với gió trên mây vàng long lanh, đang rong chơi nơi thiên đường cực lạc. Anh phải biết mừng cho em. Phần anh, phải đi nốt tháng ngày còn lại trên hành tinh nầy với những bước chân vững vàng, vui vẻ và hạnh phúc cho riêng mình. Đó là bổn phận cấp thiết đối với bản thân.”
Ông lái xe ra về, lòng nhẹ thênh thang. Con đường có nắng vàng reo vui, cây cỏ xanh ngắt yêu đời. Tiếng nhạc vui rộn rã vang vang trong xe, ông đã tìm được ý nghiã cho tháng ngày vắng bóng vợ. Ông tin rằng, nếu chết là chưa hết, chưa vĩnh viễn tan biến, thì ông sẽ gặp lại bà trong tương lai, ở một nơi an bình hạnh phúc hơn ở cõi trần thế nầy. Nhưng nếu chết là hết, là xong, thì cũng khỏe. Bà đã khoẻ, và mai đây ông cũng sẽ theo bước bà tan vào hư không.
Về nhà, ông ngồi vào bàn, lập một chương trình sinh hoạt mới cho ngày tháng còn lại. Trước đây ông không dám về hưu vì sợ cô đơn, sợ không có việc chi làm bận rộn rồi sinh ra quẩn trí mà phát bệnh. Nhưng bây giờ, ông đã có một chương trình năng động, phủ kín thời gian trong tuần, còn sợ không đủ thì giờ để thực hiện. Nhưng không sao, với ông thì thi hành được chừng năm mươi phần trăm cũng đã là thành công rồi.
Mỗi sáng ông dậy sớm, đi đến phòng tập thể dục, chạy bộ trên dây?, cử tạ, bơi lội, tập yoga, tắm nước nóng. Sau đó họp bạn già uống cà phê, bàn chuyện trời đất thời thế. Về nhà đọc vi thư bạn bè, giải quyết các công việc lặt vặt. Rồi ngủ ngay một giấc ngắn. Tự nấu nướng lấy, mặc dù có thể đi ăn tiệm, hoặc mua thức ăn về. Ông học cách nấu ăn trong liên mạng vi tính. Đọc bốn năm bài dạy khác nhau, rồi chọn lựa, kết hợp, tìm ra cách nấu hợp với khẩu vị mà ông nghĩ là ngon nhất. Từ đó, ông ghiền xem truyền hình dạy nấu ăn, Ông nấu được những món ngon tiếp đãi bạn bè.
Có một bà góa ỡm ờ đề nghị: “Anh nấu ăn ngon thế nầy, mà ăn một mình cũng buồn và uổng quá. Hay là nấu cơm tháng cho em đi, mỗi ngày tới bữa em đến ăn. Hôm nào anh bận, thì báo trước, em sẽ đi ăn tiệm.”
Ông cười lịch sự đáp: “Cám ơn chị quá khen và đề nghị. Xin cho tôi suy nghĩ lại, xem có đủ sức phục vụ chị không, rồi sẽ trả lời sau.”
Ông bóng bẩy nhấn vào hai chữ phục vụ”làm bà kia đỏ mặt e thẹn. Ông không thể tưởng tượng nổi có người nào đó thay thế được vợ ông. Mỗi khi nói chuyện thân thiết với bà nào đó, mà trong lòng ông có dấy lên một chút cảm tình, thì ông thấy như mang tội với người vợ đã khuất, ông đã thiếu chung thủy. Cứ áy náy mãi.
Ông tham gia các chương trình du lịch xa, đi chơi trên du thuyền. Ông gặp nhiều bạn bè, đàn ông, đàn bà, cùng vui chơi. Tham dự các trò đùa tập thể trên du thuyền. Nhiều bà góa thấy ông cô đơn, nhắm muốn tung lưới bắt mạng, nhưng ông cũng đủ khôn ngoan để né tránh. Ông nói với bạn bè rằng, mình già rồi, khôn có lõi, không còn ngu ngơ dại dột như thời trai trẻ, để nhắm mắt chui đầu vào tròng.
Đôi khi ông cũng muốn có bạn gái, có chút chất “mái”, dù không làm gì được, nhưng mơ hồ thấy có sự thăng bằng nào đó trong tâm trí.
Ông đã cùng bạn bè tham gia các chuyến du lịch xa, Âu Châu, Ấn Độ, Phi Châu. Bây giờ còn đủ sức để đi, có điều kiện tài chánh thong thả, tham gia kẻo mai mốt khi yếu bệnh, khỏi luyến tiếc. Đi theo đoàn đông đảo bạn bè, thì giờ rất sát, eo hẹp, làm ông không kịp nghĩ, kịp buồn.
Trên du thuyền, gia đình người bạn giới thiệu bà Huyền cho ông, bà đẹp, duyên dáng, hơi trầm tư, đôi mắt mở to như khi nào cũng ngạc nhiên ngơ ngác, cánh mũi thon, môi hình trái tim chúm chím. Bà Huyền xa chồng đã hơn ba năm. Lòng ông Tư mơ hồ dấy lên chút cảm tình vì bà đẹp, hiền thục, ít nói. Mấy lần hai người ngồi gần nhau trong bữa ăn. Bà Huyền hé lộ một chút tâm sự riêng tư cho ông nghe, rằng bà may mắn chạy thoát đến Mỹ vào năm 1975, bà lặn lội thân cò nuôi chồng theo đuổi đại học trong bao nhiêu năm. Nhờ may mắn trong thương trường, tiền bạc có thời vô như nước. Gia đình vui vầy tràn đầy hạnh phúc. Rồi tai họa đổ xuống, chồng bà say mê một cô nhỏ tuổi hơn con gái ông, cô nầy làm công cho cơ sở thương mãi của gia đình. Ông chồng li dị bà để vui duyên mới. Bà nói rằng, chẳng trách gì ông, một phần cũng lỗi tại bà không phòng xa, để cho ông chồng và cô gái có dịp tiếp xúc thường xuyên. Lửa gần rơm thì phải cháy. Chia đôi gia tài, bà cho ông cơ sở kinh doanh, bà không cần làm nữa, tài sản có thể sống đến khi già chết.
Ông Tư cũng cảm mến bà Huyền vì cái giọng nói dịu dàng ngọt ngào, trái tim nhân ái, và tâm từ bi của bà cùng tấm lòng cao thượng. Khi nhắc đến ông chồng cũ phản bội mà không thù hận, không gay gắt giận hờn.
Bà Huyền biết kiên nhẫn lắng nghe, tôn trọng ý của người khác, dù có khi bất đồng quan điểm. Ông Tư cảm thương cho một người đàn bà biết điều như thế mà gặp phải hoàn cảnh không may. Cái tình cảm trong lòng ông đâm mầm nhú mộng êm ái. Đôi khi ông cũng giật mình, sợ trái tim ông yếu đuối, đổi cái quan hệ bạn bè với bà Huyền thành tình yêu. Ông không muốn mang mặc cảm phản bội bà vợ bên kia thế giới. Nhưng cũng là chuyện lửa gần rơm, mối giao hảo thân thiết của ông với bà Huyền càng ngày càng khắng khít. Đã có vài lần ông toan tính thổ lộ cho bà Huyền mối tình cảm chân thành của ông, nhưng rồi vốn nhát, nên lại thôi. Ông tự cười, đã chừng nầy tuổi, trên đầu tóc trắng nhiều hơn tóc đen, mà vẫn còn nhút nhát như thời mười sáu tuổi. Cuối cùng, chính bà Huyền đã mở đường dẫn ông vào cuộc tình già. Khi ông đi gần đến quyết định mời bà Huyền về sống chung, thì bạn bè can gián, cho ông biết bà Huyền là một trong ba người đàn bà nổi danh đanh đá độc ác nhất của thành phố nầy. Ai cũng biết, mà chỉ riêng ông Tư không biết mà thôi. Ông không tin một vài người, nhưng phải tin khi nghe nhiều người khác nói. Ông quyết tâm tìm hiểu, và vô tình gặp ông Duẫn là người chồng cũ của bà Huyền trong một buổi họp mặt. Ông lân la đến làm quen. Thấy ông Duẫn hiền khô, không rượu, không trà, không cả cà phê thuốc lá, và nói năng lịch sự dịu dàng. Bạn bè lâu năm của ông Duẫn cũng xác nhận anh nầy là một ông Phật đất. Hoàn toàn không hề có chuyện gian díu với một người đàn bà nào. Bà Huyền cũng không nuôi ông Duẫn một ngày trong đời như bà nói, bà đã đặt chuyện, cứ nói mãi, nên tin là có thật.
Ông Tư mạnh dạn hỏi thẳng Duẫn: “Anh nghĩ sao, nếu tôi cưới bà Huyền, vợ cũ của anh?”
Ông Duẫn gãi đầu, và nói ngập ngừng: “Ô… ô, không nghĩ sao cả. Đó là chuyện riêng của bà ấy với anh. Tôi không can dự gì. Chúng tôi đã ly hôn lâu rồi. Tại sao anh hỏi tôi câu đó?”
Ông Tư hạ giọng: “Không phải tôi xin phép anh, mà tôi muốn hỏi ý kiến của anh về bà ấy. Nhận xét của riêng tôi, thì bà Huyền là một người đoan trang, trinh thục, hiểu biết, có trái tim nhân ái. Nhưng theo nhiều người khác thì đó là một trong ba bà ác độc nhất của thành phố nầy. Có thật vậy không?”
Ông chồng cũ của bà Huyền ngửng mặt lên trời mà cười ha hả: “Khoan khoan, đừng nói thế mà tội cho người ta. Phần tôi, nếu không nói tốt cho bà ấy được, thì cũng không có quyền nói xấu. Tôi không dám có ý kiến gì cả. Có thể bà ấy không hợp với tôi, nhưng lại hợp với người khác. Có thể tại tôi bất tài, không tạo được hạnh phúc cho gia đình. Biết đâu, bà ấy với anh đồng điệu, hai người có thể tạo nên thiên đàng dưới trần thế nầy.”
Ông Tư ngại ngần và chùn chân, âm thầm lảng xa dần bà Huyền. Bà nầy biết được ý định, mắng ông Tư một trận nên thân, chưởi ông hèn nhát, bần tiện, keo kiết, không đáng xách dép cho bà. Ông Tư nghe xỉ vả chưởi mắng mà mừng húm. May mà chưa có cam kết gì với bà Huyền. Từ đó, ông đâm ra có thành kiến với bất cứ người đàn bà nào muốn tiếp cận với ông. Ông Tư đã hết suy sụp tinh thần, tự tổ chức cho ông một đời sống có ý nghĩa, có nhiều niềm vui nhỏ nhặt trong đời sống, tránh xa mọi phiền toái của thế gian. Trong nhà ông treo một tấm biển lớn, chữ viết theo lối bút họa, ghi lời của một người bạn: “Có thì vui. Không cũng vui. Được mất đều vui.”
Tràm Cà Mau
Mùa Thu Và Mối Tình Già-Cao Đắc Vinh
Chồng già hưu trí, vợ trẻ đi làm. Mỗi sáng cuối tuần em không bận đến sở, anh lại có dịp pha ly cà phê sữa cho em rồi chúng mình cùng ngồi thưởng thức…
Mặt đối mặt, hít thở hương thơm tràn ngập gian nhà bếp giúp đôi ta tỉnh giấc. Nhìn em, làm dáng qua lớp phấn hồng vừa thoa lên má, mái tóc chải vội còn ướt long lanh buông xuống cạnh bờ môi có nụ cười muôn thuở… Anh thấy xuân về giữa mùa thu.
Phải nói ngay, anh thích cử chỉ làm dáng ấy vì ý tứ không suồng sã làm tăng phần tươi mát ở người đàn bà dày dạn ân tình mà tuổi 20 đã qua từ mấy thập niên! Người cũ nhưng vẫn mới khi đứng bên anh như cảnh đầu ngày trước ánh bình minh… Anh âu yếm chiêm ngưỡng mùa xuân mang lớp vỏ mùa thu bọc ngoài.
Câu chuyện cuối tuần về tin tức các con được trao đổi tự nhiên giữa vợ chồng. Hôm vui thì lạc quan như nắng ban mai nhảy múa trên những đóa hoa vừa nở nhưng cũng có lúc u sầu giống cơn mưa đêm nặng hạt chưa dứt vào lúc hừng đông.
Trách chi những con chim non rời tổ ấm, cất cánh bay xa tìm sự nghiệp và hạnh phúc phía chân trời… Chúng đang bươn chải sống đời tự lập nên đành tạm xa bố mẹ già với bao kỷ niệm êm đềm năm xưa. Ở thời đại đảo điên hôm nay, khó đoán trước nền hòa bình vững chãi cho xã hội và thế giới tương lai, làm cha mẹ hai đứa mình chỉ còn biết chắp tay cầu nguyện mong chúng may mắn sẽ có một thế hệ ngày mai tươi sáng.
Còn lại đây trong căn nhà nhỏ, mối tình già của đôi ta đang đi vào thu. Thu tháng 10 trên vạn vật là nghĩa bóng, bên cạnh còn hình ảnh mùa thu âm thầm lướt qua hình hài chúng ta là nghĩa đen. Chân dung hai mùa thu chẳng hẹn mà cùng đến theo chu kỳ, định luật của một kiếp người.
Anh biết mình đã già! Chiếc lá vàng bắt đầu cằn cỗi và người tình trăm năm ngồi trước mặt cũng chẳng còn thuở lá xanh nhưng sáng nay lòng anh bỗng se lại… Chẳng phải tại hơi thu lành lạnh thổi vào từ khu vườn nhỏ mà vì chợt thấy những nét tàn phai bắt đầu đậm rõ trên khóe mắt, làn môi em: Dấu chân chim mỗi ngày một dài cộng với bờ môi đã lạt màu theo năm tháng…
Ba mươi năm trước, cũng đôi mắt to ấy đã in toàn cảnh ngày hạnh phúc của cuộc đời cô thiếu nữ sửa soạn về nhà chồng… Đến bây giờ, sức quyến rũ vẫn đầy nhưng nét tinh anh ẩn hiện bóng dáng một mùa thu ảm đạm. Đôi môi khêu gợi này đã bao lần hôn say đắm, yêu đương bỏng cháy để rồi hôm nay in dấu những nếp nhăn tình ái.
Em đã qua mùa xuân con gái, kế tiếp sẽ là mùa thu cuộc đời. Mùa thu của em từ nay mất hẳn hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà chỉ có lá vàng khô la đà rụng từng ngày! Vẻ đẹp mỗi mùa khác nhau… nếu xuân rộn ràng thì thu hiu quạnh nhưng mùa nào chúng ta cũng có thể mang vào nhịp sống buồn vui lãng mạn của riêng mình.
Em vẫn đẹp nhưng cái đẹp của mùa thu như những bài thơ tình mùa thu bất hủ. Anh nguyện sẽ làm phu quét đường, đêm đêm gom lá vàng dưới chân em cho con đường tình cuối ta đi gọn gàng thông suốt rồi nếu có thể, lẳng lặng đếm từng chiếc lá để làm bằng chứng yêu em… Bao nhiêu lá bấy nhiêu tình! Hãy giữ mùa thu bên mình, đừng đi mỹ viện bởi hoa có bao giờ nở hai lần…
Còn lại những mùa thu tha hương cuối cùng bên nhau. Trời sắp vào thu ở Cali nhưng nơi đây, thiếu cảnh mưa phùn gió bấc, gió heo may bên nhà. Anh nhìn thấy em cũng vừa sang thu. Anh yêu mùa thu… cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

Giữ mãi dáng thon gọn, vẻ đẹp đơn thuần giản dị giống khuôn mặt trong sáng trước ly cà phê buổi sáng hôm nay em nhé! Nó đã tạo niềm vui và hứng khởi cho anh viết những dòng cảm xúc chân tình này…
Mai đây, khi đông về, có một mùa thu sẽ vĩnh viễn ra đi, mùa thu ấy không bao giờ trở lại để rồi người đi kẻ ở chỉ còn nỗi niềm thương tiếc khôn nguôi. Hiểu chân lý đó, chúng ta nên lãng mạn và lạc quan chấp nhận mùa thu cuộc đời rồi điều chỉnh hạnh phúc mối tình già với những gì đang có hôm nay.
Cao Đắc Vinh














