Trang chủ » Nữ Công Gia Chánh (Trang 3)
Category Archives: Nữ Công Gia Chánh
9 Đặc Điểm Khác Nhau Giữa “Bạn” Và “Bè”—LH
Bạn bè chính là những người yêu thương chúng ta nhất chỉ sau gia đình mà thôi. Chẳng một ai có thể tồn tại trên thế giới này mà không có lấy ít nhất một người bạn.
Tuy nhiên, bất cứ điều gì cũng có hai mặt của nó, và bạn bè cũng vậy. Sẽ thật tốt khi xung quanh chúng ta là những người bạn sẵn sàng đồng cam cộng khổ, sẵn sàng chìa tay vực ta dậy mỗi lần ta vấp ngã. Đó cũng sẽ là những người chẳng bao giờ quay lưng dù chúng ta có bị cả thế giới bỏ rơi.
Nhưng bên cạnh đó, cũng tồn tại những người bạn không thật sự tốt. Họ đến với chúng ta vì những mục đích nhất định, để khi đạt được mục đích rồi thì họ sẵn lòng rời đi. Vậy cho nên mới có sự phân biệt rạch ròi giữa “bạn” và “bè”. Có nhiều “bạn” thì hạnh phúc, còn có nhiều “bè” lại là điều bất hạnh.
Dưới đây là 9 dấu hiệu để chỉ ra sự khác biệt rõ rệt đó. Nên nhớ, chẳng thà có ít bạn mà tốt, còn hơn có nhiều bè để cuộc đời mãi trôi nổi lênh đênh!
Những người bạn thật sự sẽ luôn trở thành điểm tựa cho bạn, lắng nghe bạn nói và đưa ra lời khuyên nhủ để bạn giải quyết vấn đề ổn thỏa hơn. Trong khi đó, những người bạn xấu lại chỉ coi bạn là cái thùng rác chuyên dụng để xả hết bực dọc lên người bạn, họ chẳng mấy khi chịu lắng nghe tâm sự của bạn đâu!
Đôi khi bạn sẽ phải đưa ra một vài sự lựa chọn, và nếu sự lựa chọn của bạn không khiến cho người khác vui lòng thì họ cũng chẳng trách mắng bạn đâu. Thậm chí họ còn cảm thông và chia sẻ cùng bạn với những băn khoăn mà bạn đang có. Còn đối với nhiều người, chỉ cần bạn làm họ phật ý, họ lập tức tìm cách khiến bạn thấy dằn vặt và áy náy. Chính là họ đang cố gắng làm bạn tổn thương cho hả hê cơn giận đấy!
Những người bạn tốt luôn đặt tiêu chuẩn tôn trọng lẫn nhau lên hàng đầu. Đối với họ, sự tự tôn của mỗi người là ngang nhau, và họ sẽ không bao giờ làm gì khiến bạn cảm thấy bị hạ thấp hay coi thường. Trong khi đó, nhiều người bạn xấu sẽ luôn tỏ ra không hài lòng với bạn, ưa chấp nhất và khiến bạn thấy mất tự tin… Đừng băn khoăn gì cả, hãy nói lời say goodbye với họ ngay lập tức!
Bạn có bao giờ để ý về những cuộc tranh luận? Nếu là bạn tốt, họ sẽ lắng nghe bạn nói, sau đó cùng đưa ra ý kiến để cả hai cùng thảo luận. Còn nếu là những người bạn xấu, họ chỉ biết đến ý kiến của riêng mình họ mà thôi, và luôn tự cho là họ đúng…
Dấu hiệu nhận biết tình bạn rõ nhất và cũng chính xác nhất là hãy xem họ quan tâm tới bạn nhường nào. Bạn tốt thường không vì khoảng cách mà xa cách lòng, họ sẽ gọi điện hoặc tìm cách hỏi han để biết rằng bạn có đang ổn hay không. Còn bạn xấu, đương nhiên bạn chỉ thấy sự xuất hiện trở lại của họ khi mà họ cần tới bạn trợ giúp!
Những người bạn biết suy nghĩ cho bạn chắc chắn sẽ để bạn được sống thoải mái và tự tin khi là chính mình. Và đối với họ, cá tính thật của bạn mới là điều đáng quý, bạn chẳng cần phải cố gắng thay đổi gì cả. Trong khi đó, những người bạn xấu sẽ luôn muốn kiểm soát bạn, muốn bạn thay đổi, gần như trở thành một bản sao của một ai đó để họ thấy hài lòng. Ồ, bạn đừng nói là bạn sẽ thay đổi vì những người bạn không ra gì này nhé!
Chỉ cần bạn nói bạn không ổn, bạn sẽ được tận hưởng khoảng thời gian được ở một mình để có thể cân bằng lại suy nghĩ. Đây là cách mà những người bạn tốt sẽ làm đối với bạn. Còn những người bạn xấu, họ đâu quan tâm xem bạn có vấn đề gì, họ sẽ vẫn kéo bạn đi và muốn bạn tham gia vào vấn đề của họ. Đừng trông chờ vào sự quan tâm từ những người như vậy, bởi bạn sẽ thất vọng đấy!
Bạn có công nhận rằng khi ta gắn bó với một người, ta sẽ luôn mong muốn được chứng kiến người ấy thành công không? Và đương nhiên, những người bạn tốt của bạn cũng như vậy. Họ thậm chí còn tìm cách ăn mừng thật lớn để cho cả thế giới này biết họ có một người bạn cừ khôi như thế nào! Trong khi những người bạn xấu thì ngược lại hoàn toàn. Họ sẽ tỏ ra khó chịu ra mặt nếu thấy bạn tiến bộ hơn họ, đi đường dài hơn họ, được nhiều người quan tâm hơn họ… Họ tìm cách chỉ trích bạn trước mặt những người khác để cố chứng tỏ rằng họ hơn hẳn bạn.
Và cuối cùng, những người bạn thật sự là những người luôn rộng mở vòng tay chào đón những người bạn khác của bạn. Họ không phán xét điều gì cả, chỉ cần biết đó là bạn của bạn mà thôi. Trong khi những người bạn xấu lại rất khó lòng có thể hòa nhập với bạn bè của bạn. Đơn giản vì họ sợ hãi vị trí của họ sẽ bị lung lay bởi ai đó. Và họ thường chỉ muốn ích kỷ chiếm hữu bạn cho riêng mình mà thôi!
Đông Trùng “Hạ Thảo Hay Hạ Huyệt”?
Vậy đông trùng hạ thảo là cái gì? Nó là thức ăn hay vị thuốc bổ hay là vị thuốc trị bệnh hay là thuốc độc?
Xin thưa ngay nó là cả 4 thứ đó tùy theo sự hiểu biết của mỗi người. Chúng ta nhớ lại câu chuyện trứng chim cút trước năm 1975 ở Sàigòn.
Hiện nay, báo, đài đang quảng cáo rằng đông trùng hạ thảo là một loài rất đặc biệt không phải động vật mà cũng không phải là thực vật nên rất hiếm quý và rất có giá trị dùng trong đông y dược. Về mùa đông thì nó là động vật thuộc dòng côn trùng dưới đất, về mùa hạ thì nó lại hóa thân mọc thành một cây thực vật thuộc dòng cây thảo.
Rồi một hôm, người ta chở vào bệnh viện cấp cứu một nhóm người sau khi họ ăn nhậu món ấu trùng ve chiên bơ, có người lăn ra chết sau khi ăn xong, có người sùi bọt mép tê liệt, suy hô hấp, hôn mê chở vào bệnh viện cấp cứu. Chúng tôi bèn nhập cuộc nghiên cứu xem độc chất gì đã gây ra vụ ngộ độc sau khi ăn ấu trùng ve chiên bơ này. Chúng ta tự hỏi xưa nay người Việt Nam ta vẫn ăn ấu trùng tơ tằm (con nhộng) chiên bơ ngon bổ có sao đâu? Nhiều tiệm nhậu vẫn đang bán ấu trùng chiên bơ ăn có sao đâu?
Chúng tôi theo chân bệnh nhân sau khi xuất viện về tận miền lục tỉnh nơi họ đã đào đất bắt ấu trùng ve để chiên bơ nhậu. Chúng tôi chứng kiến họ đào được những ấu trùng ve có hình thù khác nhau tùy theo giai đoạn phát triển, có con chỉ như con sâu, có con có đủ chân râu. Con nào đã già và mạnh khỏe thì còn thấy nhúc nhích. Con nào quá non và yếu thì nằm im re.
Đồng bào miền tỉnh rủ nhau đi đào bắt ấu trùng bán cho các tiệm nhậu rất nhộn nhịp. Ấu trùng chiên bơ người ta ăn vẫn ngon lành hằng ngày ở tiệm nhậu như vậy không sao, nay có vụ ngộ độc thì ai cũng cho rằng do vấn đề vệ sinh quán ăn không bảo đảm gây nhiễm trùng thực phẩm mà thôi.
Nhưng dưới con mắt chuyên khoa nhiễm độc thì vấn đề không đơn giản như vậy, vì triệu chứng ăn xong lăn ra chết vì sùi bọt mép, phù phổi, suy hô hấp, hôn mê không phải là triệu chứng của nhiễm trùng thực phẩm. Họ bị đầu độc bởi độc chất lén bỏ vào ấu trùng chiên bơ chăng?
Chúng tôi nghỉ rằng đây là mô thực vật và loài thực vật dạng sợi thì chỉ có thể là loài nấm dạng sợi. Quả thật như vậy, chúng ta đã biết rằng nấm là loài thực vật có chu trình phát triển rất đặc biệt. Đơn vị căn bản gốc của loài nấm là bào tử nấm. Bào tử nấm là tế bào gốc của nấm. Khi điều kiện độ ẩm và nhiệt độ thích hợp thì bào tử nấm nẩy nở mọc ra thành sợi nấm. Các sợi nấm của nhiều bào tử mọc dài dần thành một mạng sợi hay bó sợi như một mớ tóc hay bó tóc.
Khi lật tảng đá hay thân cây mục lên khỏi mặt đất, chúng ta nhìn thấy ở mặt dưới tảng đá hay thân cây những sợi nhỏ li ti như tóc từng đám dính vào đá, vào thân cây. Đó là các mạng nấm dạng sợi. Những mạng sợi nấm này có thể sống dưới đất như vậy vài trăm năm hoặc ngàn năm. Trên nền tảng mạng nấm sợi đó, nếu có 2 bào tử nấm đực và cái gặp điều kiện độ ẩm và nhiệt độ thích hợp sẽ phối hợp nhau thành một bào tử nấm với 2 nhân và bào tử nấm 2 nhân này sẽ mọc thành một cây nấm con (Xin xem hình vẽ). Đầu thân cây nấm con sẽ phát triển thành nón nấm. Mặt dưới của nón nấm sẽ sinh sản ra các bào tử nấm mới. Trung bình một cây nấm sinh ra khoảng 15 tỷ bào tử nấm. Bào tử nấm khi bung ra khỏi nón nấm được gió thổi đi xa khắp bốn phương trời, rơi lại xuống đất rồi tiếp tục chu trình tạo mạng sợi nấm mới và cây nấm mới. Thông thường về mùa hạ, sau một cơn mưa là độ ẩm và nhiệt độ đất thích hợp nên nấm mọc lên ào ào trên mặt đất, trên thân cây mục, trên tảng đá phủ mùn thực vật. Chúng mọc rất nhanh, chỉ trong vài giờ đồng hồ thành cây nấm lớn. Nấm mọc rồi chỉ sống vài ngày là tàn lụn.
Nấm có rất nhiều loại. Có loại ăn rất ngon như nấm rơm, nấm mèo, nấm mối. Có loại ăn rất độc chết người như nấm Phalloid, Muscarina.

Hình Ảnh Saigon 1960-1970
Đường phố sạch đẹp, hiện đại và văn minh là những ấn tượng đầu tiên khi xem chùm ảnh về đường phố của thành đô Saigon ở dưới đây.Saigon trước 1975 có vẻ đẹp hào nhoáng, nhộn nhịp của nếp sống xưa, nhưng cũng có nhiều góc ảnh mang lại vẻ đẹp thanh bình hiếm có.Saigon 1965 – Photo by William S. Fabianic. Đây là đường Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) lúc còn cho lưu thông 2 chiều. Khúc này là ngã tư Phan Đình Phùng và Trương Minh Giảng (nay là Trần Quốc Thảo). Đi tới nữa là ngã ba Phan Đình Phùng – Nguyễn Gia Thiều (chỗ có thấy hàng rào sắt màu xanh lá cây), là Consulat Général de France (trước 1966 hoặc 1967 là trường tư thục Lê Quý Đôn) do KTS Phạm Văn Thâng thiết kế. Ở bên phải của người chụp tấm hình này là Toà Tổng Giám Mục, kế bên là biệt thự của tổng giám đốc công ty Shell do KTS Nguyễn Văn Hoa thiết kế. Còn ở bên trái là biệt thự của tổng giám đốc Chartered Bank, cũng do KTS Hoa thiết kế đầu thập niên 1960, đã bị chính phủ đập phá để xây trường mầm non và chỉ còn lại hồ bơi.Saigon 1967, Photo by Bill Mullin. Đường Trường Công Định (nay là đường Trường Định) chạy băng qua công viên Tao ĐànSaigon 1967-1968 – đường Tự Do. Photo by Dave DeMilnerSaigon 1965 – Đường Tự Do, Photo by John A. HansenSaigon 1969, Đường Tự Do, gần góc Tự Do – Nguyễn Thiệp ở bên phải hình. STAR HOTEL tại số 123 đường Tự Do, nơi trước kia là cửa hàng PHARMACIE NORMALE (123 Rue Catinat). Photo by Rick FredericksenSaigon 1965 – Đường Trần Hưng Đạo, nhìn từ Plaza BEQ (135 Trần Hưng Đạo). Bên phải là Metropole Hotel.Saigon 1968 – Đường Lê Lai nhìn từ tầng 5 KS Walling trên đường Phạm Ngũ Lão. Photo by Brian WickhamSaigon 1965, đường Trần Hưng ĐạoSaigon 1964 – Công trường Chiến sĩ (trước khi có Hồ Con Rùa) nhìn từ đường Trần Quý Cáp (Nay là Võ Văn Tần), bên phải là ra Nhà thờ Đức Bà – Photo by IparkesSaigon 1969 – đường Nguyễn Huệ. Photo by Wayne TruckeSaigon 1965 – Đường Hồ Huấn Nghiệp, nối từ đường Tự Do tới Công trường Mê Linh. Photo by John HansenĐường Tự Do – Công viên Chi Lăng 1967-1968, nay đã bị Vincom chiếm dụng riêng. Photo by Henry BechtoldCon đường Duy Tân cây dài bóng mátGần cuối đường Tự Do nhìn về phía sông Saigon. Ngay chỗ xe Taxi là ngã tư Tự Do – Ngô Đức Kế – Photo by IparkesHình này chụp lúc chưa có Nhà Hàng Maxim sát bên khách sạn Majestic.Góc hình ngược hướng với tấm hình bên trên, nhìn từ sông Saigon về phía đường Tự Do. Photo by LayeredĐường Tự DoSaigon 1965-66 – Đường Phan Văn Đạt. Photo by Dale Ellingson
Phía xa là Công trường Mê Linh với bệ tượng đài Hai Bà TrưngSaigon – Tháng 3 năm 1965 – Ngã tư Tự Do – Ngô Đức Kế – Photo by John A. Hansen 3. Đường Tự Do (tức Catinat thời Pháp thuộc) mang đậm dấu ấn kiến trúc Pháp.Saigon 1971 – Moslem Mosque – Đường Thái Lập Thành. Photo by Mike Vogt. Đường Thái Lập Thành (nay là Đông Du) bắt đầu từ đường Tự Do, kế tiếp là ngã tư Hai Bà Trưng và ngã tư Thi Sách, và kết thúc tại đường Đồn Đất (nay là Thái Văn Lung).Chợ Saigon Xuân Canh Tuất 1970 – Góc Lê Lai – Phan Châu TrinhSaigon 1972 – Đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai). Ngã tư đằng trước là Hồng Thập Tự – Công Lý (nay là Nguyễn Thị Minh Khai – Nam Kỳ Khởi Nghĩa). Bên phải là trường Lê Quý Đôn.Saigon 1965-66 (9) – Ngã 6 Phù Đổng khi chưa có tượng Phù Đổng Thiên Vương. Bên trái là đường Phạm Hồng Thái. Đường ngang cạnh cây xăng SHELL là Phan Văn Hùm (là bến xe đò, nay là đường Nguyễn Thị Nghĩa). Photo by Gene Long.Saigon 1974 – Đường Hàm Nghi. Xe taxi con cóc và xe La DalatĐường Nguyễn Huệ, Saigon 1971 – Photo by Mike Vogt. Phía trước là ngã tư Ngô Đức Kế.Saigon 1968 – Đường Phạm Ngũ Lão Saigon Nov 1968 – Photo by Brian WickhamSaigon – đường Nguyễn Huệ, gần trụ đồng hồSaigon 1969 – Ngã tư Lê Thánh Tôn – Công Lý, phía xa là đường Lê Lợi. Photo by Brian WickhamSaigon 1967, kẹt xe trên đường Võ Tánh (nay là Nguyễn Trãi)Saigon thập niên 1960. Đường Pasteur nhìn từ đầu cầu Mống. Người chụp đứng trên đầu cầu Mống ở đầu đường Pasteur. Phía trước là ngã tư Pasteur – Nguyễn Công Trứ. Bên phải là một phần mặt hông trái và góc sau của Ngân Hàng Quốc Gia tại góc Pasteur – Nguyễn Công Trứ. Phía xa là ngã tư Hàm Nghi – Pasteur. (tại góc đó có Tòa đại sứ Đài Loan và Giao Thông Ngân Hàng).Saigon 1969 – Đường Pasteur, bên phải là Đại Học Kiến Trúc, bên trái là công viên Vạn Xuân. Sau này công viên này bị xóa bỏ và đưa vào khuôn viên của nhà thi đấu Phan Đình Phùng ngày nay.Saigon 1965 – Đường Pasteur khúc giữa của đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng) và Nguyễn Du). Photo by Charles CoxSaigon 1969 – đường Nguyễn Huệ. Photo by Wayne TruckeSaigon 1968 – trên Đại lộ Cách Mạng 1-11. Photo by J. Patrick Phelan.
Đại Lộ Cách Mạng 1-11 (đoạn nối dài đường Công Lý) được đặt theo ngày đảo chánh Ngô Đình Diệm. Sau 1975 trở thành đường Nguyễn Văn Trỗi (Từ cầu Công Lý tới Hoàng Văn Thụ)Saigon 1965-66 – Đường Công Lý – Photo by Thomas W. Johnson
Biểu ngữ trên đường Công LýSaigon 1969-70 – Đường Nguyễn Huệ cạnh góc Ngô Đức Kế – Photo by David StaszakSaigon 1972 – Đường Ngô Đức KếSaigon 1967-1968 – Đường Đinh Tiên Hoàng đoạn gần Cầu BôngSaigon 1967-1968, Casino Dakao đoạn ngã 3 Đinh Tiên Hoàng – Hiền Vương (nay là Võ Thị Sáu)Saigon 1969-70. Đường Phạm Ngũ LãoGa xe lửa Bến Thành – Saiogn năm 1964-1965, nay trở thành công viên 23-9. Góc hình được nhìn từ đường Lê Lai về phía Trần Hưng Đạo. Ở góc trên trái nhìn thấy một chút mặt đứng của tòa nhà Hỏa Xa Đông Dương phía sau các mái nhà tôn.Ga xe lửa Sài Gòn xưa khá rộng, nằm giữa các trục đường Phạm Ngũ Lão, Võ Tánh (Nguyễn Trãi bây giờ), Lê Lai và công trường Quách Thị Trang (nơi hiện đang xây dựng nhà ga tàu điện metro) – tương ứng với toàn bộ Công viên 23-9 và bến xe buýt hiện nay.Saigon 1971 – Tượng đài Trần Nguyên Hãn nhìn từ trên cầu vượt dành cho khách bộ hành. Phía sau tượng đài nhìn thấy phần chân của cầu vượt bộ hành thứ hai từ bùng binh nối qua bến xe buýt. Nhà có mái ngói cao nhất trong hình là Nhà chú Hỏa, trên đường Phó Đức Chính.Saigon 1969-70 – Chợ Bến Thành – Photo by David StaszakSaigon 1969, cầu bộ hành trước chợ Bến ThànhSaigon đầu năm 1968, trước ngày Tết Mậu ThânVòng xoay Công trường Mê Linh đầu đường Hai Bà Trưng – Photo by Thomas W. JohnsonĐường Nguyễn Văn Thinh (nay là Mạc Thị Bưởi), ngã 3 với đường Phan Văn Đạt (đường ra công trường Mê Linh)Saigon 1968,Photo by Darrel Lang. Đường Võ Di Nguy ở Phú Nhuận, nay là Nguyễn Kiệm.Đường Tổng Đốc Phương (nay là Châu Văn Liêm) ở Chợ Lớn. Bùng binh là Tượng đài Chiến sĩ Vô danh giữa ngã tư Hồng Bàng – Tổng Đốc PhươngSaigon 1969 – đường Nguyễn Huệ. Photo by Wayne TruckeSaigon1964 – Đường Lê Lợi. Photo by Al AdcockSaigon 1968 – Đường Nguyễn Huệ. Photo by SonnybSaigon 1969-70 – Đường Nguyễn Huệ. Photo by David Staszak
Ngã ba Nguyễn Huệ – Tôn Thất Thiệp. Bên trái là Tòa Hòa GiảiSaigon 1968 – Đường Hai Bà Trưng. Photo by SonnybSaigon 1972. Đường Trần Hưng Đạo. Photo by Kemper14Saigon 1969 – Đường Trần Hưng Đạo, Photo by Sonnyb. Chỗ gẫy góc về bên trái là ngã tư Trần Hưng Đạo – Cộng Hòa (nay là Nguyễn Văn Cừ). Ở giữa ảnh gần phía trên là nhà thờ Cầu Kho (nhìn thấy mặt sau, nhà có tháp trắng)
Saigon 1968 – Cổng vào Căn cứ Không quân TSN, nay là đầu đường Cộng Hòa nơi có cầu vượt vòng xoay Lăng Cha Cả.Saigon 1968 – đường Lê Lợi. Photo by Larry BurrowsGóc Lê Lợi – Tự DoĐại lộ Nguyễn Huệ sau cơn mưaĐường Hồng Thâp Tự trước trường Lê Quý ĐônSaigon về đêmMột số hình ảnh về Đại Lộ Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn) dẫn vào Dinh Độc Lập:
Xíu—Tiểu Tử
Nàng là người Việt gốc Hoa. Tên nàng là Trịnh Tiểu Mi, một cái tên rất… “tài tử Hồng Kông.” Mà thật sự, nàng cũng có nét tài tử Hồng Kông, bởi vì nàng đẹp. Ở nhà gọi nàng là “A Xíu”, một cái tên có âm thanh thật dễ thương. Và cũng hạp với con người của nàng: nhỏ nhỏ thon thon, cân đối gọn gàng như con búp-bế.Gia đình nàng có nhà ở Chợ Cũ Sàigòn. Tầng dưới là cửa hàng bán cà phê đã rang rồi, cà phê hột và cà phê xay đủ loại. Hai tầng trên để ở và sân thượng là nơi rang cà phê.
Nàng là con gái duy nhứt của gia đình, lại là đứa con út nên được cưng như trứng mỏng. Hai người anh đã có gia đình, đã “ra riêng”, cũng bán cà phê nhưng ở tuốt trong chợ lớn. Ngày ngày, nàng phụ “mà má” đứng bán cà phê. Khách hàng tới mua nườm nượp, nhất là giới trai trẻ. Cà phê được pha trộn và rang theo lối thủ công gia truyền, ngon có tiếng. Bán đắt đã đành nhưng cửa hàng đông khách, có lẽ phần lớn tại vì nàng duyên dáng dễ thương! Bằng cớ là thiên hạ nói “Cà phê A Xíu” chớ không ai nói “Cà phê Hối Ký” là bản hiệu của cửa hàng!
Những Mảng Bám—Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Ông dừng xe lại trước một con đường nhỏ rẽ vào một khu dân cư. Phong cảnh này… ồ, trông quen quá! Ông cố moi óc xem mình đã thấy nó ở đâu. Một con đường đầy những cây phượng tím trồng hai bên. Ông quẹo vào, và đậu lại bên lề. Ông bước ra khỏi xe. Màu tím của những bông hoa này ông không thể nói rằng gợi cho ông cảnh ở Việt Nam được. Việt Nam không có phượng tím. Nhưng cái dáng cây, hai hàng cây tăm tắp, những hạt nước mưa còn đọng trên lá như những giọt lệ, lại đang khiến một cái gì bật ra từ trong trí ông, như thể lâu nay nó đã nằm nghỉ thật sâu.
A! Ông như thấy lại những chuyến xe tất bật ra vào con đường này. Những chiếc xe lấm lem bùn đất. Những chiếc xe mang dấu hồng thập tự. Có những người tài xế mặc đồ “xi-vin”, và cũng có những người tài xế, những nhân viên mặc đồ lính. Ông thấy mình đang nằm trên một chiếc “băng-ca”. Ông không cần ngước lên mà cũng đã thấy được trời xanh mây trắng. Ông nghe được cảm giác đau đớn đến như tê dại ở cánh tay. Ông ngửi được mùi thuốc mê. Và ông hết ý thức…
Tiếng chuông từ chiếc cell phone trong túi áo vang lên. Ông giật mình. Những cảnh trong trí vụt biến mất hết. Ông bắt máy, nói theo phản xạ:
– Hello!
– Ông! Ông ở đâu, sao chưa thấy về ăn cơm”
– Hả”””
– Ông! Tôi đây nè! Ông đi đâu vậy”
– Ơ….
– Ông!
Ông ngơ ngác. Ông định thần một giây nữa, và đã nhận ra tiếng của bà. Ông đáp vội:
– Tôi đang ở… ở…
– Ở đâu”
– Tôi… – Ông ngó quanh- Tôi đang ở…
Giọng nói bên kia nghe rất sốt ruột:
– Ông nói nhanh lên! Có chuyện gì”
– Ơ… không… Tôi không biết… ở đâu…
– Ông nói gì kỳ vậy” Ông lái xe phải không”
– Phải.
– Xe.. có bị mất không”
– Không. Xe vẫn đang ở cạnh tôi đây.
– Vậy ông làm gì” Ông đang ở đâu” Ông… ông dòm cái tên đường, nói cho tôi biết đi!
– À… à, – Ông tiến đến dòm bảng tên đường – Dalton Drive.
– Ông tới đường đó làm gì”
– Tôi… tôi không biết.
– Làm sao ông tới đó”
– Tôi lái xe… nhưng … tôi không biết làm sao tôi tới đó.
– Thôi ông ơi, để tôi nhờ mấy đứa nhỏ giúp. Ông đứng đó, đừng đi đâu hết nhé!
Đường Dalton. Đường phượng tím. Con đường đẹp đến quen thuộc… Ủa, mà làm cách nào mình đã đến đó” Mình lái xe mà!.. Ông chơi vơi trước câu hỏi của gia đình và của chính ông. Ông bắt gặp vẻ mặt lo lắng của bà, và ánh nhìn nghi ngại của thằng con. Trong bữa cơm chiều, ông gắp và đưa đẩy thức ăn vào miệng như lấy lệ. Ông cũng còn hoang mang lắm. Ông từ từ nhớ ra là mình đã ngồi vào xe và lái đi như có ai dẫn dắt. Nhớ ra được rồi thì ông lại càng hoang mang hơn. Ôi! Ông đã làm cái gì vậy”””
Ông đến trước tủ lạnh, toan mở tủ lấy đĩa trái cây, nhưng ông dừng lại. Ông thấy trên mặt cửa tủ lạnh, gắn đầy những tờ “sticky notes” trên đó ghi những câu nhắc nhở: “Nhớ uống thuốc bổ lúc 6 giờ tối”, “Nhớ gọi điện thoại cho bác sĩ ngày thứ ba”, “Nhớ ghi địa chỉ nhà bác Châu”… Ông thấy bần thần quá! Ông trở lại bàn, ngồi lặng thinh.
Bà trở lại sau khi ra phòng ngoài nghe điện thoại. Bà hơi nghiêng đầu, hỏi ông:
– Ông không sao chứ”
– Tôi OK.
– Ông xem mà đi nghỉ sớm đi nhé!
– Ừ. Mà … bà này! Tự nhiên tôi muốn mình đi thăm bác Châu. Lâu quá không thăm bác. Chắc bác cũng bận đi đâu nên không thấy bác ghé mình.
Bà kêu lên thảng thốt:
– Kìa! Ông!
– Hả” Chuyện gì”
– Ông nói gì vậy” Hôm qua, nhà mình mới đi… phúng bác Châu. Bác ấy mất rồi! Ông quên rồi sao”
– Hả”””
Bà im lặng. Ông cũng im lặng. Không biết được bao lâu, rồi ông nghe bà nói khẽ:
– Ông đi nghỉ sớm nhé! Tôi đi tụng kinh đây!
– Ừ, đi… tụng kinh.
Ông cười nhẹ như để làm bà yên tâm.
Bà quay đi rồi, ông thơ thẩn ra sân. Ông đã nhớ lại, hôm qua cả nhà vừa mới đi đám bác Châu.
Ông cầm cây đàn lên. Đã lâu ông không đàn. Cây đàn guitar này là của thằng cháu nội. Ông nhớ một đoạn nhạc của Glen Campbell và ông khe khẽ hát. Bỗng nhiên trong tâm tưởng của ông, như một đợt sóng, những hình ảnh từ thuở xa xưa nào lần lượt sắp hàng trước mắt. Ông thấy mình và một bạn đồng đội đến trước căn nhà của bác Châu, ở một khu ngoại ô Sài Gòn. Hai bác cùng xuất hiện ở cửa, mời họ vào. Hai người lính, áo còn khét mùi chiến trận, vào nhà, và không dám ngồi. Trong một nghi thức tự lập ra, họ đứng nghiêm chào hai bác Châu, và báo tin con trai của họ đã tử trận. Ông thấy ông và bạn mình đứng thẳng, đông cứng như hai pho tượng bằng nước đá. Ông nghe tiếng kêu khô khan của bác Châu trai và tiếng nấc của bác Châu gái. Một hình ảnh khác tiến lên che mờ khuôn mặt của hai bác. Đó là gương mặt của người chiến hữu đang ngã xuống giữa khói đạn mịt mù. Ông thấy mình đang vuốt mắt cho bạn. Rồi ông thấy mình đang băng qua một hào sâu, tiếp tục cuộc chiến. Ông nghe một cái gì nhọn và nhỏ xoáy vào da, rồi cắm vào thịt rất nhanh, rất sâu, đi qua mạch máu. Ông ôm cánh tay, lết vào một chỗ nấp. Máu chảy quá nhiều. Ông nhắm mắt, nghiến răng chịu đau. Người lính cứu thương chạy đến gần. Ông như lịm đi…
Những cảnh gián đoạn trôi qua như trong một cuốn phim bị đứt. Ông thấy lại cảnh bệnh viện bên một con đường trồng đầy cây còng. Phải rồi! Cây còng. Ông nhớ như in. Hoa màu hồng nhưng sau những cơn mưa trông sao buồn quá! Ông hiểu vì sao nhìn cây phượng tím ông lại liên tưởng đến những con đường cây còng. Ông mỉm cười. Có một chút gì vui vui, như thể ông đang được xem một cuốn truyện cũ mà mình từng rất thích.
Bà đến ngồi bên ông. Ông nhìn qua, cười nhẹ:
– Bà muốn nghe hát không”
– Có.
– Bà muốn nghe nhạc gì”
– Gì cũng được. Ông đang chơi nhạc của Glen Campbell”
– Ừ. Tôi chơi tiếp nhé! Mà bà này, hình như Glen cũng bị…
– Bị gì” Ông hát đi! Bị gì… kệ người ta – Bà nói như át lời ông.
– Được. Bà không muốn tôi nói thì thôi. Tôi hát mà có quên lời thì bà nhắc nhé!
– OK.
Ông cười xòa. Rồi ông hát. Ông không quên một chữ.
“Galveston”. Gương mặt Glen Campbell thời trai trẻ hiện ra như đang song ca với ông. Ca sĩ thần tượng của ông, cùng tuổi với ông đấy! Ông thường nói với bà: “Tay này sướng hơn tôi nhiều, đâu có ra chiến trường như tôi, nhưng tôi cám ơn ổng vì ổng cho tuổi trẻ của mình những bản nhạc hay”.
“Galveston, oh, Galveston
I am so afraid of dying
Before I dry the tears she’s crying
Before I watch the sea birds flying in the sun…”
Ông dừng lại đột ngột. Bà nghĩ rằng ông quên lời. Bà nhắc:
– at Galveston.
Ông nhìn bà. Ông như người mê. Tôi sợ tôi chết trước khi tôi lau khô nước mắt của nàng, trước khi tôi được nhìn ngắm những cánh chim hải âu bay trong nắng… Ôi! Ông sợ ông sẽ quên trước khi ông nhớ được hết mọi điều. Bảy mươi mấy năm là một đoạn đời dài. Phải nói là những đoạn đời rất dài, nối với nhau ở những ngã rẽ. Ông đã để những đoạn đời lắng chìm. Đôi khi ông nhớ lại, nhớ rất rõ. Nhiều khi ông quên mất.
– Bà này! Tôi muốn nói với bà chuyện này, mà bà đừng có la tôi đấy!
– Ông nói đi. Về chuyện gì”
– Về Glen Campbell.
Bà như kêu lên:
– Lại nữa!
– Bà nghe này, Glen sẽ làm một “tour” hay một buổi “chia tay”, thấy cũng hay hay…
Bà ngập ngừng:
– Ông … ông muốn nói…”
Ông cười to:
– Bà khoan hiểu lầm đã. Tôi thì không. Hãy để cái gì đến sẽ đến. Tôi không muốn rùm beng đâu! Hơn nữa, mình không phải là nhân vật nổi tiếng gì cho lắm. Tôi muốn yên tĩnh.
– Nhưng nói cho mọi người, chia sẻ cho mọi người, thì cũng là một điều hay. Mà… ông ơi, nghe nói bệnh này có xác suất cao ở phụ nữ, sao ông lại…
– Bà lẩm cẩm chưa! Nam cũng bị vậy! Mà đúng ra nam là phải bị nhiều hơn chứ! Nam hút thuốc, nam uống rượu, nam ít vận động hơn nữ. Có gì đáng ngạc nhiên đâu! Có điều nữ bị nhiều hơn nam là ông Trời hơi bất công rồi đó!
– Tôi… tôi rồi… có sẽ bị không hở ông”
– Tôi tin là không. Bà kinh kệ hàng ngày, bà thông minh lắm đó, yên tâm đi!
Hai người cười vang, và lại trêu nhau vui vẻ. Ông như cất đi bớt chút gánh nặng. Nỗi ám ảnh đè lên tâm tư ông hàng ngày. Từ hôm lái xe đi như người mộng du đến khi vào bệnh viện để chẩn bệnh kỹ lưỡng, ông biết đã có một thay đổi rất lớn, như thể cuộc đời lại qua một ngã rẽ khác nữa. Nhưng ông vốn đã tập tính chấp nhận từ hồi còn trẻ, cho nên ông cố gắng bình tĩnh để đón nhận. Ông xin ngồi lại nói chuyện với bác sĩ. Bệnh ông chưa nặng, nhưng không thể coi thường. Bác sĩ cho ông xem hình chụp bộ não của ông, giải thích cho ông nghe về những chỗ có “vật lạ”. Những mảng bám! Người trong chuyên môn gọi đó là “amyloid plaque”. Vị nữ bác sĩ dễ thương lại còn lấy giấy bút ra vẽ và giải thích đơn giản cho ông biết đó là một loại chất đạm “cứng đầu”, bình thường nó tan rã, nhưng ở ông và những người đồng bệnh, chúng tích tụ lại và bám dính giữa những tế bào thần kinh, ngăn cản hoạt động của não. Cô lại vẽ thêm những “mớ tóc rối” nằm trong tế bào thần kinh, nói rằng đó là thủ phạm gây nên sự hủy hoại của các tế bào này. Đương nhiên là ông nhận được những loại thuốc đặc trị, rồi lời khuyên về một chế độ ăn uống và tập thể dục để “làm chậm tiến trình của bệnh”, ông chăm chú nghe theo.
“Làm chậm tiến trình của bệnh”, ông lẩm bẩm.
“Cho tôi lại trí nhớ!” – Ông thét vang trong giấc ngủ. Ông choàng tỉnh, thấy bốn bề yên lặng. Người bên cạnh ông vẫn đang ngủ say. Ông nhìn kỹ gương mặt này, nhờ ánh đèn mờ mờ của chiếc đèn ngủ. Trong giấc mơ ông đã thấy lại gương mặt của từng đồng đội. Ông nhớ rất rõ tên của từng người cùng những thói quen tốt hay xấu của họ. Cả những bản nhạc mà anh em cùng đàn hát với nhau khi về hậu cứ. Rồi đến những con sông, những ngọn núi, những khu rừng… tất cả sáng ngời trong một góc trí nhớ như người ta xem một phần sân khấu sáng choang nhờ ánh đèn chiếu tối đa vào. Bên ngoài khoảng sáng đó là một vùng đen thăm thẳm. Ông thức dậy thấy mình ở trong vũng đen ấy. Người bên cạnh ông vẫn ngủ say. Ông moi óc, tự hỏi: “Ai đây”..”
Ông đón cái cốc từ tay bà. Ông mỉm cười, nói:
– Cám ơn.
Bà nhìn ông hớp từng ngụm nóng hổi. Bà hỏi:
– Vừa uống không ông”
Ông gật gù:
– Ngon lắm, cháo ngon lắm!
Bà kêu lên:
– Ông nói sao”
– Cháo… cháo ngon lắm!
– Ông nè, ông hãy nhìn kỹ tôi pha cho ông cái gì đây!
Ông nhìn vào cốc, rồi bỗng như tắc hết ý, ông lắc đầu, ngơ ngác. Bà nói nhẹ nhàng:
– Cà phê, ông ạ! Ông muốn ghẹo tôi phải không”
– Ơ! Cà phê! Cà… phê!
Bà cười rồi quay đi như coi việc vừa rồi là chuyện ông cố ý trêu bà.
Nhưng ông thì không. Ông không đùa, không trêu. Mấy ngày nay ông đã thấy triệu chứng nhầm lẫn và quên tên những đồ vật thông thường nổi lên rõ ràng. Và đặc biệt hơn cả, đáng sợ hơn cả, là sự việc đêm hôm qua ông thức dậy không nhận ra bà bên cạnh. Ông biết đó là người rất quen nhưng không nhớ là ai, phải gọi là gì. Ông cảm thấy hoảng sợ với chính mình. Nhưng sáng ra thì mọi việc lại không có gì khác lạ. Ông đã mỉm cười chào bà khi bà ra sân, nơi ông đang ngồi sưởi nắng.
Ông đến bên bàn. Ông định thần một lát, nhìn vào cái vật quen thuộc hàng ngày mình vẫn dùng. Nó tên là gì nhỉ” Ông lại chơi vơi trong cái vũng tối. Bà đến bên cạnh, đoán ý:
– Ông định gọi cho ai”
– À… cho cái cô xinh đẹp hôm trước…
– Cô bác sĩ”
– Ồ đúng, đúng, cô bác sĩ. Cô bác sĩ có dặn khi nào muốn hỏi gì thì cứ gọi, không cần phải gặp.
– Vậy ông gọi cho cô ấy đi!
Ông cầm điện thoại lên, tần ngần một lát, rồi đưa cho bà:
– Bà … bà coi số rồi gọi giùm cho tôi. Nhiều số quá!…
Và ông nói chuyện với cô bác sĩ. Ông kể cho cô nghe về những giấc mơ, những hồi ức chính xác ông tìm về, cùng những điều lạ lùng xảy ra như quên tên các đồ vật, quên cách gọi người thân, nhầm lẫn và quên những việc vừa mới xảy ra, sự khó khăn với những con số… Rồi ông nghe cô bác sĩ khuyên nhủ ông hãy bình tĩnh, và cô giải thích về “trí nhớ ngắn hạn”, “trí nhớ dài hạn” bị ảnh hưởng ra sao trong căn bệnh của ông. Ông nghe thì ông hiểu. Nhưng ông e rằng sau đó ông sẽ quên hết. Chắc là cô bác sĩ hiểu điều này hơn nhiều, nên cô xin nói chuyện với bà. Ông trao điện thoại cho bà. Ông ngồi bên cạnh. Bà cũng nói chuyện rất lâu với bác sĩ. Khi bà chấm dứt câu chuyện, ông thấy đôi mắt bà đã đỏ hoe.
– Bà này, tôi không có làm sao đâu!
Bà cười gượng:
– Vâng, ông không có làm sao. Bác sĩ bảo ông ráng uống thuốc theo đúng toa. Ông sẽ khỏi bệnh. Có tôi chăm sóc cho ông, ông vui chứ”
– Vui lắm, tôi sẽ vui lắm! Cám ơn bà.
– Ông cám ơn tôi” Khách sáo vậy”
Ông cười to như để lây sự vui vẻ cho bà. Bà soạn trong tủ ra mấy cuốn album, đặt ngay ngắn trên bàn. Bà lẩm bẩm:
– Mình sẽ coi lại mấy cuốn album này nghen ông! Hy vọng những chuyện cũ ông không quên.
– Phải. Chuyện cũ tôi không quên.
– Vậy ông có nhớ lần đầu tiên hẹn tôi, ông thấy tôi mặc áo màu gì không”
– Không phải màu, mà là áo hoa. Bà mặc chiếc áo dài hoa vàng nền xanh rất nhã. Đúng không”
Bà cười trong nước mắt:
– Ông giỏi!
– Bà ơi, tôi xin bà một điều…
– Ông nói đi!
– Lỡ chăng… đến một ngày nào đó, khi tôi không còn nhớ bà là ai, xin bà đừng giận tôi nhé!
– Sao mà tôi giận ông được” Ông bệnh mà! Nhưng ông hãy vui lên, ông sẽ khỏi bệnh.
– Mình có thể làm chậm căn bệnh lại bà ạ, bác sĩ nói vậy. Làm chậm lại. Còn nếu mình muốn chậm lại mà nó không chậm, thì mình ráng chấp nhận nghen! Tôi cám ơn bà trước, vì lúc đó bà sẽ rất cực với tôi đấy! Bà và các con có thể gửi tôi vào viện dưỡng lão.
Bà ôm chặt lấy ông:
– Tôi sẽ chăm sóc cho ông, nếu trời không bắt tôi bị bệnh như ông.
Những mảng bám ngày càng nhiều trên óc. Ông có một thế giới khác. Một thế giới của riêng ông. Bà và các con, cùng với một người được thuê để phụ giúp, đã khá vất vả khi chăm sóc cho ông, bởi ông càng ngày càng khó khăn khi tự làm những công việc đơn giản cho chính mình. Cũng khá đau khổ, khi bà nhận thấy mình không còn quen thuộc với ông nữa. Nhưng ông tỏ vẻ vui thích khi nói về chuyện quá khứ. Ông chăm chú xem những cuốn album và nhận ra hết những người trong đó. Bà vui lây. Bà cũng đi vào cái thế giới đó với ông. Chỉ bằng cách đó. Đôi khi bà đứng lại phía ngoài. Bà để cho ông tự mình hồi tưởng, đắm chìm trong những kỷ niệm của đời người. Mỗi ngày hầu như ông chỉ sống cho hiện tại một vài khoảnh khắc ngắn ngủi. Còn với tương lai, ông không thể hoạch định.
Bà không có gì để than trách. Vì ông đã nói hết những lời “cám ơn, xin lỗi” với bà khi ông còn nhận ra bà. Ông chẳng đã hát “Tôi sợ tôi chết trước khi tôi lau khô nước mắt của nàng, trước khi tôi được nhìn ngắm những cánh chim hải âu bay trong nắng” rồi đó ư” Vậy thì hãy để ông sống với những ký ức cháy bỏng một thời của ông, những đoạn đời đáng sống mà ông luôn hoài niệm. Ít ra, trong giai đoạn này, “trí nhớ dài hạn” của ông vẫn còn nguyên vẹn, não của ông vẫn còn những vùng chưa bị tàn phá, đúng theo lời bác sĩ nói “Người bị bệnh Alzheimer vẫn có một điều hạnh phúc, đó là được sống với những ký ức tuyệt vời”.
Có một ngày, bà mở ti-vi cho ông xem. Ông không còn nhận ra Glen Campbell trên màn ảnh. Vì trên đó là một Glen Campbell bảy mươi mấy tuổi, bằng với ông hiện tại. Ông chỉ nhớ một Glen thời trai trẻ. Ông thấy chán, ông lim dim mắt. Ông nghe tiếng đàn guitar của chính mình. Ông nghe tiếng hát của đồng đội vang trong cánh rừng âm u sau một trận thắng. Rồi như lật qua một trang khác, ông thấy gương mặt của anh con bác Châu từ từ nhòa nhạt. Anh đã ngã xuống. Ông nghe lại tiếng đạn chui vào da thịt, vào đến mạch máu trong cánh tay mình.
Bà đem đến cho ông một ly nước gì không biết. Ông mở mắt, đón cái ly, uống mà không hiểu đó là gì. Rồi ông lại nhắm mắt, tiếp tục phiêu du vào cõi xưa, nơi ông thức dậy trong một bệnh viện. Người lính trẻ sức sống còn tràn đầy. Cánh tay bị thương đã được băng bó. Một gương mặt cúi xuống. Một mái tóc dài được bới gọn sau chiếc mũ trắng. Ông đón ly nước từ đôi bàn tay của người con gái. Nước! Nước ngon quá! Ông nhìn người đối diện. Một đôi mắt đen nhánh đầy tình yêu đang nhìn ông.
Cam Li Nguyễn thị Mỹ Thanh
Người Vợ Là Một Vĩ Nhân—Tràm Cà Mau
Có thời ông Tư thường hay đùa, trêu chọc bạn bè rằng: “Đời người đàn ông có hai lần sung sướng: Lần cưới vợ, và lần vợ chết. “Bây giờ vợ chết, ông mới ý thức được cái câu đùa nghịch đó vô cùng bậy bạ và bất nhân, không nên nói. Có lẽ anh chàng nào nghĩ ra câu nầy là kẻ độc thân, chưa có kinh nghiệm chết vợ. Ông ân hận và tự giận mình.
Ông Tư gieo mình nằm vật ra tấm ghế bành, hai tay ôm mặt khóc rưng rức như đứa bé đi về vắng mẹ. Tiếng khóc buồn bã vang dội trong căn phòng vắng. Ông ước sao chuyện thật hôm nay là một giấc mộng dữ, để khi ông thức dậy, thấy còn có bà bên cạnh. Có thể ông sẽ bị vợ cằn nhằn trách móc một điều gì đó như thường ngày, nhưng thà còn có những phiền hà của vợ, còn hơn là nằm đây một m
Sau khi chết vợ, ông như mất hồn, lãng đãng, trí óc để trên mây. Nhiều lần trên đường về nhà, ông đi lạc, lái xe qua khỏi nhà rồi mà không biết. Ngày xưa, ông hay bực mình mỗi khi được bà nhắc nhở đi lối nầy, quẹo góc kia, và bà cũng nổi nóng la nạt ông mỗi khi đi lạc đường. Bây giờ, mong được nghe lời cáu kỉnh gây gổ đó, mà không có được. Ông thở dài và đau nhói trong tim như có vật nhọn đâm vào. Không thể ngờ, vợ ông không còn trên đời nầy nữa. Bây giờ bà nằm ngoài kia, nghĩa địa hoang lạnh âm u. Không còn chầm chập kiểm soát từng hành động của ông để mà phê bình sửa sai.
Mở cửa, bước vào nhà, ông nói lớn như khi bà còn sống: “Em ơi! Anh đi làm về.” Trước đây, nếu không nghe tiếng trả lời, ông chạy vụt lên lầu tìm vợ. Bây giờ, ông lẳng lặng đến thẳng bàn thờ, thắp ba cây nhang, lạy bốn lạy. Ông thầm nghĩ, người ta chỉ lạy vợ khi vợ đã chết rồi, tại sao không ai lạy vợ khi vợ còn sống? Dù có gây nên tội lỗi tầy đình, cũng không ai lạy vợ bao giờ.
Ông nhìn tấm hình màu, ảnh bán thân của bà, có nụ cười thật tươi, hai vành môi uốn cong, đôi mắt sáng tinh anh, có ánh tinh nghịch. Ông thấy bà còn đẹp lắm, nét đẹp dịu dàng. Thế mà bao nhiêu năm nay, ông không hề biết, và chưa một lần nhìn ngắm kỹ cái nhan sắc của vợ. Sống lâu ngày bên nhau, thấy nhau, nhưng quên nhìn ngắm, chỉ thấy hình thể tổng quát của nhau. Cũng như nhiều ông có vợ thiếu nhan sắc, cũng không bao giờ biết vợ họ xấu. Những ông lấy được vợ đẹp, lâu ngày, cũng chẳng còn biết vợ mình là đẹp. Nhiều bà đi xâm môi, xâm lông mày xong, về nhà, ông chồng cũng không hề biết có sự thay đổi trên mặt vợ.
Ông Tư gieo mình nằm vật ra tấm ghế bành, hai tay ôm mặt khóc rưng rức như đứa bé đi về vắng mẹ. Tiếng khóc buồn bã vang dội trong căn phòng vắng. Ông ước sao chuyện thật hôm nay là một giấc mộng dữ, để khi ông thức dậy, thấy còn có bà bên cạnh. Có thể ông sẽ bị vợ cằn nhằn trách móc một điều gì đó như thường ngày, nhưng thà còn có những phiền hà của vợ, còn hơn là nằm đây một mình.
Ông đã khóc như thế cả tháng mấy nay, mỗi lần đi làm về. Bước vào căn nhà vắng vẻ lạnh lẽo, không còn bóng dáng người vợ thương yêu, làm trái tim ông se sắt, tâm trí ông trống rỗng mịt mờ. Nỗi đau cũng tan dần theo giòng nước mắt, rồi ông thiếp đi trong một giấc ngủ buồn, ngắn. Khi thức dậy, ông nhìn quanh, đâu đâu cũng có bóng dáng, có kỷ niệm với bà. Tất cả đều còn đó. Vật dụng, đồ đạc của bà trước khi chết, vẫn còn để y chỗ cũ, giữ nguyên trạng. Ông không muốn thay đổi chuyển dịch gì cả. Trên bàn trang điểm, vẫn còn chiếc lược nằm nghiêng nghiêng, thỏi son dựng đứng, hộp phấn, những chai thuốc bôi tay cho mịn da, tất cả đều không xê dịch, không sắp xếp lại. Ông tưởng như hương tay của bà còn phảng phất trên từng món vật dụng.
Mỗi bữa ăn, không còn ai thúc hối, hò hét dục ông ngồi vào bàn ngay, sợ cơm canh nguội lạnh. Bây giờ, ông tha hồ lần lửa, không tha thiết đến bữa cơm. Có khi chín mười giờ mới bắt dầu ăn, qua loa cho xong, miệng nhạt phèo. Thường ông để thêm chén dĩa đũa muỗng đầy đủ cho bà. Rồi thì thầm mời vợ ăn, tưởng như bà còn sống, ngồi đối diện và cùng chia vui hạnh phúc trong từng giây phút của thời gian. Ông có ảo tưởng như bà còn ngồi đối diện, đang lắng nghe ông nói. Hôm nay bà làm biếng phê bình, không mắng trách khi ông làm rơi cơm canh ra bàn. Với cách đó, ông tự dối lòng, để có thể nuốt trôi những thức ăn, mà vì buồn chán, ông không còn cảm được hương vị ngon ngọt.
Nhiều khi thức giấc nửa đêm, vòng tay qua ôm vợ, ôm vào khoảng trống, ông giật mình thảng thốt, chợt hỏi thầm, bà đi đâu rồi? Khi chợt nhớ bà không còn nữa, nước mắt của ông chảy ra ướt cả gối. Có khi úp mặt khóc rưng rức, khóc cho đã, cho trái tim mủn ra, và thân thể rã rời. Chiếc giường trở thành trống trải, rộng thênh thang. Ông vẫn nằm phía riêng, bên kia còn để trống, dành cho bà. Ông ôm hôn cái gối, mùi hương của bà còn phảng phất gợi bao kỷ niệm của tháng ngày hạnh phúc bên nhau. Khi không ngủ được, ông bật đèn nằm đọc sách, bây giờ ông không sợ ai cằn nhằn, ngăn cấm đọc sách giữa đêm khuya. Trước đây, nhiều khi ông tha thiết thèm đọc vài trang sách trước khi đi ngủ, mà vợ cứ cằn nhằn mãi, làm ông mất đi cái thú vui nầy. Bây giờ ông nhận ra vì thương chồng, sợ ngày hôm sau ông buồn ngủ, mệt, nên bà ngăn cản, bảo là chói mắt không ngủ được.
Ông tiếc, vợ chồng đã hay cãi vã những chuyện không đâu, chẳng liên quan gì đến ai, mà làm mất đi cái vui, cái hòa hợp của gia đình. Có khi chỉ vì tranh luận chuyện con khỉ bên Phi Châu, mà đi đến to tiếng, giận hờn, khóc lóc, làm vợ chồng buồn giận nhau, dại dột như hai đứa trẻ con ngu dại.
Tại sao phải gắt gỏng, đâu có được gì, mà làm nhau buồn. Bây giờ muốn nói lời ân hận, thì làm sao cho bà nghe được. Ông tự xét, ông là một con người tệ mạt, thiếu hiểu biết. Khi có hạnh phúc trong tay thì không biết trân trọng, để đến khi mất đi, mới ân hận, mà không còn kịp nữa.
Nếu được làm lại, ông sẽ đối xử với bà tử tế hơn, nói nhiều những lời êm ái dịu dàng. Sẽ không nổi giận khi bà làm chuyện ngang phè, sẽ nhường nhịn bà nhiều hơn, và sẽ phớt tỉnh mỗi khi bị bà chê bai, mai miả. Nhất là bày tỏ cái lòng ông, nói ông yêu thương bà, yêu thương lắm lắm. Đâu có gì ngăn trở, mà những ngày bà còn sống, ông không nói được những điều đó. Ông chợt nhớ có ngưòi viết rằng, vợ chồng phải đối xử như ngày mai thức dậy sẽ không còn nhau. Vì chẳng ai được sống mãi, và cũng không biết chắc chuyện gì sẽ xảy ra trong giờ sắp tới, cho ngày hôm sau. Cuộc đời con người vốn bấp bênh trong định mệnh.
Lấy kinh nghiện đó, nhiều lần nói với những người bạn mà vợ chồng còn được sống bên nhau, cho họ biết rằng, họ đang có hạnh phúc quý báu,nênhọ nên trân trọng giữ gìn, kẻo mai đây, khi chiếc bóng, thì tiếc thương cũng đã muộn màng. Đa số có lắng nghe, và tin lời ông là đúng, nhưng họ quên phứt ngay sau đó, và không thực hành điều hiểu biết.
Mẹ ông mất trước vợ sáu tháng. Ông cũng buồn, thương. Nghĩ rằng mẹ già thì chết là chuyện thường tình. Nhưng khi mất vợ, ông cảm thấy đau đớn và buồn khổ vô cùng tận. Buồn hơn mất mẹ mười lần. Ông tự cảm thấy xấu hổ, vì mất mẹ mà lại không đau buồn bằng vợ chết! Có phải ông đã thương vợ hơn thương mẹ chăng? Có phải ông là đứa con bất hiếu? Ông cũng không biết, và không so sánh được hai cái đau vì mất mát. Nhưng rõ ràng, ông đã ngã gục khi chết vợ.
Có khi quẩn trí, ông muốn chết theo bà. Sao cuộc sống vô vị quá chừng. Rồi mai mốt cũng già, bệnh, đâu có thoát được cái chết. Chết bây giờ, nếu còn linh hồn, thì còn gặp lại vợ ngay. Nhưng ông sực nhớ nhiều lần bà nói không muốn gặp ông lại trong kiếp sau. Bà đâu có thù ghét ông mà nói câu đó nhỉ. Nói chi cho ông đau lòng lúc nghe, và còn đau cả đến tận bây giờ. Ông nghe nói, có một loài chim, khi một con chết đi, thì con kia ngày đêm kêu thương, bỏ ăn bỏ ngủ, than gào cho đến chết. Chim còn chung tình đến thế, mà ông thì còn sống, còn ăn, còn ngủ, còn đi làm, còn giữ tiền bạc. Chẳng bằng được loài chim sao?
Trong căn nhà nầy, đâu đâu cũng có dấu vết của bà. Mở tủ đựng ly chén ra, ông đứng nhìn xem, bên trong sắp đặt thứ tự, gọn gàng. Có những thứ mà bây giờ ông mới thấy, và không biết công dụng nó làm gì, khi nào thì dùng đến. Bà đã mua sắm, sắp đặt cẩn thận. Ông cầm một cái ly, biết vật nầy đã có bàn tay vợ đụng đến, ông ghé môi hôn, tưởng đang hôn bàn tay bà. Ba bộ ấm pha trà xinh xắn, bà mang về trong dịp đi du lịch bên Nhật, để cho ông thù tiếp bạn bè. Bà thương ông đến như vậy đó.
Hơn cả chục chai rượu nho, rượu mạnh trong tủ kiếng, cũng do một tay bà mua. Bà không biết uống, nhưng hễ nghe ai khen rượu ngon, rượu quý, thì bà cũng cố mang về cho chồng một vài chai. Ông thường dặn nếu không biết uống rượu thì đừng mua, vì khẩu vị của mỗi người khác nhau. Cũng như mình khen mắm nêm thơm ngon, nhưng cho Tây ăn, thì họ bịt mũi mà oẹ ra. Bây giờ đứng đây, đưa tay sờ vào những chai rượu màu nâu sẫm, lòng ông đầy ân hận, đáng ra lúc đó, ông phải nói những lời tử tế ngọt ngào cám ơn, và bày tỏ cái hân hoan với tình thương chăm sóc của vợ. Những khi đó, ông đã nói những lời chân thật như đất ruộng, làm phụ tấm lòng yêu thương của bà. Ông định nhấp vài hớp rượu để tưởng nhớ đến ơn vợ, nhưng rồi đặt chai xuống, và thì thầm hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương: “Em ơi! lửa tắt bình khô rượu. Đời vắng em rồi say với ai?” Mắt ông cay cay, tim đập sai nhịp.
Tủ áo quần của bà còn nguyên vẹn đó. Những chiếc áo giản dị, màu sắc khiêm tốn. Bà phải chờ cho đến khi bán hạ giá thấp nhất mới dám mua. Bà cần kiệm, không dám hoang phí. Đi đám cưới, tiệc tùng, bà không cần phải thay đổi áo mới, kiểu nầy, kiểu kia. Bà nói: “Ngay cả ông chồng, còn chưa nhớ được kỳ trước mình mặc áo nào, màu gì, huống chi thiên hạ. Họ đâu có dư thì giờ mà vớ vẩn nhớ đến cách phục sức của cả trăm người trong bữa tiệc. Mà dù cho họ có nhớ đi nữa, cũng không sao, đâu có gì quan trọng. Chắc cũng chẳng ai chê mình không có áo quần mới khi tham dự tiệc tùng.” Cái đơn sơ giản dị chân thành của bà làm ông thương và mến phục.
Áo quần của ông, cũng do bà tìm tòi mua giúp. Khi thấy cái áo quần tốt, màu sắc trang nhã, giá cả tương đối được, bà hối hả kêu ông chạy gấp đến tiệm thử liền. Ngay cả áo quần lót, vớ, cà-vạt, cũng do bà mua cho ông. Bà đem áo quần đã cũ sờn vất đi, thay vào các thứ mới. Ông cứ tự nhiên dùng, chưa bao giờ biết kích thước đúng của chính ông. Đã có bà lo hết. Bây giờ không còn bà, ông mới thấy rõ ràng hơn những gì đã nhận được xưa nay mà vô tình không nghĩ đến. Cầm chiếc quần được lên lai trong tay, nhìn đường kim mũi chỉ cẩn thận, ông thấy rõ tình thương của bà gói ghém trong đó. Áo quần mùa đông, mùa hè của ông cũng được bà sắp xếp riêng từng ngăn cẩn thận. Bà đã cho giặt sạch, kỹ lưỡng trước khi được treo xếp vào ngăn tủ áo quần, để dành mặc vào mùa sau. Từ khi có bà trong đời, ông mất dần đi khả năng tự lo, tự lập mà ông vô tình không biết.
Ông nhớ những khi tham dự tiệc tùng, trong lúc ăn uống, khi có chút rau, thịt mắc vào kẽ răng, không dùng lưỡi cạy ra được, bà nhìn ông, biết ngay. Bà len lén mở ví, kín đáo chuyền tay cho ông một cây tăm bọc trong giấy. Ông xem đó như chuyện tự nhiên. Cũng có khi ông quay qua bà hỏi khéo: “Em còn cây tăm nào không?” Bà mở ví, đưa cho ông ngay. Trong lúc ăn, có món ngon vừa ý, bà thì thầm nhắc ông. Hoặc khi lấy thức ăn, bà chọn cho ông miếng ngon nhất. Những lúc đó, ông hơi ngượng, liếc mắt nhìn quanh bàn. Phần ông, thì cứ gắp đại, chưa bao giờ phân biệt miếng ngon, miếng dở. Gắp được cục xương không dính chút thịt cũng cứ vui. Trong bữa ăn, khi thấy ly nước của ông cạn, bà châm, thêm, ông hoàn toàn không quan tâm đến.
Bà biết rõ ông ưa thích món ăn gì, để mỗi ngày nấu nướng. Khi nghe ông khen món nào đó, thì hôm sau, bà nấu ngay cho ông ăn. Ông chỉ lờ mờ nhận ra hảo ý của bà, nhưng không biết nói một câu nịnh cho vui lòng vợ.
Nhiều lần ông bà rủ nhau đi du lịch xa, ông có nhiệm vụ lên mạng mua vé máy bay, đặt thuê khách sạn. Thế là xong. Phần bà lo cho tất cả các mục còn lại. Từ áo quần thường, áo lạnh, áo ngủ, đồ lót, vớ, giày phụ, dép, bàn chải răng, kem, kiếng phụ, tăm, thuốc cấp cứu, thuốc dùng ngừa bệnh, điện thoại di động, giây cắm điện thoại, máy hình, máy điện toán xách tay và các thứ phụ tùng cần thiết. Danh sách của bà đủ bốn mươi tám món. Bà cũng không quên mang theo một ít thức ăn khô, phòng khi lỡ đường. Nhiều khi thấy va-li căng kè, nặng nề, ông gào to: “Đi chơi chứ đâu phải là dọn nhà? Sao không mang theo cả cái tủ lạnh cho tiện.”
Một lần đi Âu Châu, cuộc đình công kéo dài, điện tắt và trời bão tố. Ông bà bình tâm nằm trong khách sạn, không chút nao núng, vì đã có sẵn một ít thức ăn khô mang theo. Thường trước khi đi, bà đọc kỹ và kiểm soát lại chuyến bay, lộ trình, các hãng đưa đón, khách sạn, ngày giờ của các tua du lịch. Bà bắt ông xuất trình giấy thông hành, căn cước, thẻ tín dụng, tiền bạc, kiểm soát lại từng chút một, để khỏi quên bất cứ vật gì. Ông cảm thấy khó chịu vì bị vợ xem như đứa trẻ con. Nhưng khi vợ mất rồi, ông đi xa mà để quên đủ thứ, nghĩ lại càng thương bà hơn.
Ông thường ham mê xem các trận đấu thể thao. Nhiều lần ông đang đi chơi với bạn, bà sợ ông bỏ mất trận đấu, kêu điện thoại nhắc nhở: “Anh nhớ chiều nay 5 giờ có trận chung kết bóng rổ đó nghe!” Ông cám ơn bà, và thu xếp về cho kịp giờ khai đấu.
Từ khi có gia đình, ông phụ thuộc quá nhiều vào vợ. Không có bà, ông như rơi xuống một vực sâu, tối tăm mù mịt, ngày tháng tẻ nhạt. Không gian và thời gian dường như thành trống rỗng.
Mỗi chiều tan sở, ông bâng khuâng không biết đi đâu, về đâu cho đỡ thấy quạnh hiu. Khi vợ còn sống, phải lo về ngay, không dám ngồi quán cà phê lai rai, về nhà vợ hạch hỏi không dám trả lời thật. Có khi ông điện thoại cho bạn, hỏi chiều nay ông đến chơi được không, và xin được ăn cơm tối. Bạn biết ông đang buồn, đơn lẻ, nên thường niềm nở chấp nhận. Nhiều lần, ông mua một vài món ăn ở tiệm, đem đến nhà bạn góp vào mâm cơm chiều và sau bữa ăn, uống trà, cà phê. Ngồi trong ghế bành, đôi khi không nói gì, cầm tờ báo lật qua lật lại, thế mà thấy bớt cô đơn trong lòng yên ổn. Rồi cũng phải về cho gia chủ đi ngủ. Ông ra xe, nỗi buồn lại dấy lên thấm thiá. Trời đất như rộng thênh thang. Đường về nhà hiu quạnh. Nghĩ đến căn nhà trống vắng, lòng ông rưng rưng.
Mỗi khi mở tủ lạnh tìm thức ăn, thấy trống không, chẳng có thứ gì ăn được. Vài ba cây trái đã đen điu rồi? rữa thối. Mấy bó rau đã đổi màu đen, khô quéo. Chai nước lọc cũng cạn. Không còn gì. Trong nhà không có bàn tay đàn bà, thì xem như chẳng còn có cái gì cả. Ông thầm thán phục những người bạn độc thân. Không biết làm sao họ có thể sống sót đến tuổi già, mà vẫn vui vẻ, yêu đời, nói cười. Họ đã làm gì cho tiêu tán quãng thời gian trống rỗng sau giờ tan sở nhỉ?
Như một thói quen, những chiều tan sở, ông chạy thẳng ra nghĩa địa, thơ thẩn bên mộ bà. Trong nghĩa địa hoang vắng nầy, ông thấy bớt cô đơn hơn là về nhà một mình. Cắm vài bông hoa, thắp nén hương. Rồi ngồi trò chuyện, như khi bà còn sống. Nói đủ thứ chuyện, nói nhiều hơn cả khi ông bà còn bên nhau. Ông độc thọai, và ông cứ tin ở dưới lòng đất, bà đang lắng nghe ông tâm sự. Khi có người lạ đi đến gần, ông hơi xấu hổ, nói nhỏ lại, chỉ thì thầm thôi. Ông sợ thiên hạ lần tưởng ông đau bệnh thần kinh. Rồi ông hát cho bà nghe. Hát những bài kỷ niệm, mà ngày trước, ông bà cùng song ca trong những buổi “Karaoke” tổ chức tại nhà bạn bè. Tai ông, vẫn còn văng vẳng giọng bà thánh thót hoà lẫn với tiếng hát trầm ấm trên môi ông. Ông hát từ bài nầy qua bài khác đến khô ran cả cổ. Nhiều khi ông nằm dài trên cỏ, bên tấm bia mộ ngang bằng, nhìn lên trời cao mênh mông và tưởng tượng có bà đang thân thiết nằm bên cạnh. Nghe được cả hơi thở của bà. Hơi thở có mùi hương quen thuộc của ngày nào. Ông thèm nghe vài lời cằn nhằn trách móc của bà.
Khi bóng đêm bắt đầu phủ xuống trên nghĩa địa, ông mới uể oải đứng dậy ra về. Ông nấn ná không muốn rời khu mộ, nhưng vốn yếu bóng viá và sợ ma, không dám ở lại khi đêm đen bao trùm khu nghĩa địa hoang vắng. Ông thì thầm: “Ngày mai anh sẽ đến thăm em.” Có những ngày chủ nhật, ông cứ mãi thơ thẩn quanh khu mộ. Ông nhận ra rằng, bây giờ ông yêu thương yêu vợ hơn nhiều lần khi bà còn sống. Tình cảm ông tha thiết, nồng nàn hơn xưa rất nhiều.
Mùa đông mưa dầm dề, gió thốc từng cơn trên nghĩa địa trống trải, ông trùm áo mưa, ngồi co ro run rẩy trong buốt giá bên mộ bà. Ngày nghỉ ông ngồi từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều. Tâm trí miên man mơ hồ vô định.
Chỉ mới một năm thôi, ông hốc hác, gầy rộc, vì mãi miết đắm chìm trong thương nhớ, khổ đau. Nhiều người khuyên ông nên đi bác sĩ tâm lý để điều trị, để tránh sa vào tình trạng suy sụp trầm trọng.
Ông nghĩ, bác sĩ cũng không giúp gì được khi trong lòng ông thương nhớ bà. Bác sĩ không thể làm bà sống lại, không thể làm phép lạ cho ông quên buồn.
Một buổi sáng khi nắng vàng rực rỡ nhảy múa trên khu nghĩa địa, gió mát mơn man cỏ cây, tiếng chim kêu văng vẳng. Ông Tư rầu rĩ mang bó hoa hồng đến đặt lên mộ bà, định than vãn vài câu cho bớt nỗi buồn thương không dứt được trong lòng. Ông ngạc nhiên thấy một tờ giấy cuộn tròn trong bình đựng hoa. Ông giật mình, ô kià, lạ chưa, có nét chữ của bà. Ông mở tờ giấy ra đọc. Một bài thơ của ai chép tay chữ viết giống hệt nét chữ bà. Những chữ h, chữ g và cả cách đánh dấu hỏi ngã. Ông run run đọc:
“Đừng đứng khóc lóc bên mồ em. Bởi em đâu còn dưới đó nữa. Em đang là ngàn gió bay cao trên đồng nội, là ánh dương quang lóng lánh giữa biển trời. Em đang tắm trong mưa thu mát dượi. Em đang trên cao, ngàn sao của giải ngân hà. Và một sáng mai kia, tiếng chim đánh thức anh. Thì hãy biết đó là tiếng em kêu anh. Thôi đừng khóc bên mồ em, chúng ta sẽ gặp lại nhau sau…”
Ông đọc đi đọc lại đến ba lần, và chợt nhớ ra đây là lời bản nhạc phổ từ bài thơ của bà Mary Elizabeth Frye viết trong cơn xúc động trên một mẫu giấy vụn. Trước đó bà Frye nầy chưa hề bao giờ làm thơ. Bài thơ nầy về sau rất nổi tiếng, phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới, được phỏng dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau. Ông đã từng nghe trong các đám tang người Mỹ. Nhưng khi đó, ông chẳng hề để ý. Bây giờ được đọc lại, ông thấm thiá và ngộ ra: Đúng. Bây giờ bà đâu còn nằm dưới đó nữa. Bà đang ở trên miền cực lạc. Bà đang sung sướng trong một thế giới khác, không có khó khăn, vất vả, không giận hờn ganh ghét, không có chiến tranh giành giựt, và không phải “Đổ mồ hôi trán mới có được miếng cơm vào mồm.” Thế thì, tại sao lâu nay ông phải âu sầu thương tiếc khóc lóc. Ông đã tự làm khổ ông, tự đọa đày trong vũng đau thương. Nếu bên kia thế giới mà bà biết được ông khổ sở rầu rĩ như thế nầy thì bà vui hay buồn? Ông tự hỏi, ông đau đớn vì thương bà hay tự thương mình? Bà đang hưởng lạc phúc, thì ông phải mừng, chứ sao lại sầu khổ? Nếu ông tự thương mình, thì phải chống tay đứng dậy, làm cho ngày tháng còn lại nầy được vui vẻ, hạnh phúc và lành mạnh hơn là chìm đắm trong tối tăm mịt mù. Ông đến trước bia mộ và thì thầm: “Đúng, em đâu còn nằm dưới lòng đất nầy nữa. Thân xác là cát bụi phải về với cát bụi. Không còn là em nữa. Em đã bay cao với gió trên mây vàng long lanh, đang rong chơi nơi thiên đường cực lạc. Anh phải biết mừng cho em. Phần anh, phải đi nốt tháng ngày còn lại trên hành tinh nầy với những bước chân vững vàng, vui vẻ và hạnh phúc cho riêng mình. Đó là bổn phận cấp thiết đối với bản thân.”
Ông lái xe ra về, lòng nhẹ thênh thang. Con đường có nắng vàng reo vui, cây cỏ xanh ngắt yêu đời. Tiếng nhạc vui rộn rã vang vang trong xe, ông đã tìm được ý nghiã cho tháng ngày vắng bóng vợ. Ông tin rằng, nếu chết là chưa hết, chưa vĩnh viễn tan biến, thì ông sẽ gặp lại bà trong tương lai, ở một nơi an bình hạnh phúc hơn ở cõi trần thế nầy. Nhưng nếu chết là hết, là xong, thì cũng khỏe. Bà đã khoẻ, và mai đây ông cũng sẽ theo bước bà tan vào hư không.
Về nhà, ông ngồi vào bàn, lập một chương trình sinh hoạt mới cho ngày tháng còn lại. Trước đây ông không dám về hưu vì sợ cô đơn, sợ không có việc chi làm bận rộn rồi sinh ra quẩn trí mà phát bệnh. Nhưng bây giờ, ông đã có một chương trình năng động, phủ kín thời gian trong tuần, còn sợ không đủ thì giờ để thực hiện. Nhưng không sao, với ông thì thi hành được chừng năm mươi phần trăm cũng đã là thành công rồi.
Mỗi sáng ông dậy sớm, đi đến phòng tập thể dục, chạy bộ trên dây?, cử tạ, bơi lội, tập yoga, tắm nước nóng. Sau đó họp bạn già uống cà phê, bàn chuyện trời đất thời thế. Về nhà đọc vi thư bạn bè, giải quyết các công việc lặt vặt. Rồi ngủ ngay một giấc ngắn. Tự nấu nướng lấy, mặc dù có thể đi ăn tiệm, hoặc mua thức ăn về. Ông học cách nấu ăn trong liên mạng vi tính. Đọc bốn năm bài dạy khác nhau, rồi chọn lựa, kết hợp, tìm ra cách nấu hợp với khẩu vị mà ông nghĩ là ngon nhất. Từ đó, ông ghiền xem truyền hình dạy nấu ăn, Ông nấu được những món ngon tiếp đãi bạn bè.
Có một bà góa ỡm ờ đề nghị: “Anh nấu ăn ngon thế nầy, mà ăn một mình cũng buồn và uổng quá. Hay là nấu cơm tháng cho em đi, mỗi ngày tới bữa em đến ăn. Hôm nào anh bận, thì báo trước, em sẽ đi ăn tiệm.”
Ông cười lịch sự đáp: “Cám ơn chị quá khen và đề nghị. Xin cho tôi suy nghĩ lại, xem có đủ sức phục vụ chị không, rồi sẽ trả lời sau.”
Ông bóng bẩy nhấn vào hai chữ phục vụ”làm bà kia đỏ mặt e thẹn. Ông không thể tưởng tượng nổi có người nào đó thay thế được vợ ông. Mỗi khi nói chuyện thân thiết với bà nào đó, mà trong lòng ông có dấy lên một chút cảm tình, thì ông thấy như mang tội với người vợ đã khuất, ông đã thiếu chung thủy. Cứ áy náy mãi.
Ông tham gia các chương trình du lịch xa, đi chơi trên du thuyền. Ông gặp nhiều bạn bè, đàn ông, đàn bà, cùng vui chơi. Tham dự các trò đùa tập thể trên du thuyền. Nhiều bà góa thấy ông cô đơn, nhắm muốn tung lưới bắt mạng, nhưng ông cũng đủ khôn ngoan để né tránh. Ông nói với bạn bè rằng, mình già rồi, khôn có lõi, không còn ngu ngơ dại dột như thời trai trẻ, để nhắm mắt chui đầu vào tròng.
Đôi khi ông cũng muốn có bạn gái, có chút chất “mái”, dù không làm gì được, nhưng mơ hồ thấy có sự thăng bằng nào đó trong tâm trí.
Ông đã cùng bạn bè tham gia các chuyến du lịch xa, Âu Châu, Ấn Độ, Phi Châu. Bây giờ còn đủ sức để đi, có điều kiện tài chánh thong thả, tham gia kẻo mai mốt khi yếu bệnh, khỏi luyến tiếc. Đi theo đoàn đông đảo bạn bè, thì giờ rất sát, eo hẹp, làm ông không kịp nghĩ, kịp buồn.
Trên du thuyền, gia đình người bạn giới thiệu bà Huyền cho ông, bà đẹp, duyên dáng, hơi trầm tư, đôi mắt mở to như khi nào cũng ngạc nhiên ngơ ngác, cánh mũi thon, môi hình trái tim chúm chím. Bà Huyền xa chồng đã hơn ba năm. Lòng ông Tư mơ hồ dấy lên chút cảm tình vì bà đẹp, hiền thục, ít nói. Mấy lần hai người ngồi gần nhau trong bữa ăn. Bà Huyền hé lộ một chút tâm sự riêng tư cho ông nghe, rằng bà may mắn chạy thoát đến Mỹ vào năm 1975, bà lặn lội thân cò nuôi chồng theo đuổi đại học trong bao nhiêu năm. Nhờ may mắn trong thương trường, tiền bạc có thời vô như nước. Gia đình vui vầy tràn đầy hạnh phúc. Rồi tai họa đổ xuống, chồng bà say mê một cô nhỏ tuổi hơn con gái ông, cô nầy làm công cho cơ sở thương mãi của gia đình. Ông chồng li dị bà để vui duyên mới. Bà nói rằng, chẳng trách gì ông, một phần cũng lỗi tại bà không phòng xa, để cho ông chồng và cô gái có dịp tiếp xúc thường xuyên. Lửa gần rơm thì phải cháy. Chia đôi gia tài, bà cho ông cơ sở kinh doanh, bà không cần làm nữa, tài sản có thể sống đến khi già chết.
Ông Tư cũng cảm mến bà Huyền vì cái giọng nói dịu dàng ngọt ngào, trái tim nhân ái, và tâm từ bi của bà cùng tấm lòng cao thượng. Khi nhắc đến ông chồng cũ phản bội mà không thù hận, không gay gắt giận hờn.
Bà Huyền biết kiên nhẫn lắng nghe, tôn trọng ý của người khác, dù có khi bất đồng quan điểm. Ông Tư cảm thương cho một người đàn bà biết điều như thế mà gặp phải hoàn cảnh không may. Cái tình cảm trong lòng ông đâm mầm nhú mộng êm ái. Đôi khi ông cũng giật mình, sợ trái tim ông yếu đuối, đổi cái quan hệ bạn bè với bà Huyền thành tình yêu. Ông không muốn mang mặc cảm phản bội bà vợ bên kia thế giới. Nhưng cũng là chuyện lửa gần rơm, mối giao hảo thân thiết của ông với bà Huyền càng ngày càng khắng khít. Đã có vài lần ông toan tính thổ lộ cho bà Huyền mối tình cảm chân thành của ông, nhưng rồi vốn nhát, nên lại thôi. Ông tự cười, đã chừng nầy tuổi, trên đầu tóc trắng nhiều hơn tóc đen, mà vẫn còn nhút nhát như thời mười sáu tuổi. Cuối cùng, chính bà Huyền đã mở đường dẫn ông vào cuộc tình già. Khi ông đi gần đến quyết định mời bà Huyền về sống chung, thì bạn bè can gián, cho ông biết bà Huyền là một trong ba người đàn bà nổi danh đanh đá độc ác nhất của thành phố nầy. Ai cũng biết, mà chỉ riêng ông Tư không biết mà thôi. Ông không tin một vài người, nhưng phải tin khi nghe nhiều người khác nói. Ông quyết tâm tìm hiểu, và vô tình gặp ông Duẫn là người chồng cũ của bà Huyền trong một buổi họp mặt. Ông lân la đến làm quen. Thấy ông Duẫn hiền khô, không rượu, không trà, không cả cà phê thuốc lá, và nói năng lịch sự dịu dàng. Bạn bè lâu năm của ông Duẫn cũng xác nhận anh nầy là một ông Phật đất. Hoàn toàn không hề có chuyện gian díu với một người đàn bà nào. Bà Huyền cũng không nuôi ông Duẫn một ngày trong đời như bà nói, bà đã đặt chuyện, cứ nói mãi, nên tin là có thật.
Ông Tư mạnh dạn hỏi thẳng Duẫn: “Anh nghĩ sao, nếu tôi cưới bà Huyền, vợ cũ của anh?”
Ông Duẫn gãi đầu, và nói ngập ngừng: “Ô… ô, không nghĩ sao cả. Đó là chuyện riêng của bà ấy với anh. Tôi không can dự gì. Chúng tôi đã ly hôn lâu rồi. Tại sao anh hỏi tôi câu đó?”
Ông Tư hạ giọng: “Không phải tôi xin phép anh, mà tôi muốn hỏi ý kiến của anh về bà ấy. Nhận xét của riêng tôi, thì bà Huyền là một người đoan trang, trinh thục, hiểu biết, có trái tim nhân ái. Nhưng theo nhiều người khác thì đó là một trong ba bà ác độc nhất của thành phố nầy. Có thật vậy không?”
Ông chồng cũ của bà Huyền ngửng mặt lên trời mà cười ha hả: “Khoan khoan, đừng nói thế mà tội cho người ta. Phần tôi, nếu không nói tốt cho bà ấy được, thì cũng không có quyền nói xấu. Tôi không dám có ý kiến gì cả. Có thể bà ấy không hợp với tôi, nhưng lại hợp với người khác. Có thể tại tôi bất tài, không tạo được hạnh phúc cho gia đình. Biết đâu, bà ấy với anh đồng điệu, hai người có thể tạo nên thiên đàng dưới trần thế nầy.”
Ông Tư ngại ngần và chùn chân, âm thầm lảng xa dần bà Huyền. Bà nầy biết được ý định, mắng ông Tư một trận nên thân, chưởi ông hèn nhát, bần tiện, keo kiết, không đáng xách dép cho bà. Ông Tư nghe xỉ vả chưởi mắng mà mừng húm. May mà chưa có cam kết gì với bà Huyền. Từ đó, ông đâm ra có thành kiến với bất cứ người đàn bà nào muốn tiếp cận với ông. Ông Tư đã hết suy sụp tinh thần, tự tổ chức cho ông một đời sống có ý nghĩa, có nhiều niềm vui nhỏ nhặt trong đời sống, tránh xa mọi phiền toái của thế gian. Trong nhà ông treo một tấm biển lớn, chữ viết theo lối bút họa, ghi lời của một người bạn: “Có thì vui. Không cũng vui. Được mất đều vui.”
Tràm Cà Mau
Mùa Thu Và Mối Tình Già-Cao Đắc Vinh
Chồng già hưu trí, vợ trẻ đi làm. Mỗi sáng cuối tuần em không bận đến sở, anh lại có dịp pha ly cà phê sữa cho em rồi chúng mình cùng ngồi thưởng thức…
Mặt đối mặt, hít thở hương thơm tràn ngập gian nhà bếp giúp đôi ta tỉnh giấc. Nhìn em, làm dáng qua lớp phấn hồng vừa thoa lên má, mái tóc chải vội còn ướt long lanh buông xuống cạnh bờ môi có nụ cười muôn thuở… Anh thấy xuân về giữa mùa thu.
Phải nói ngay, anh thích cử chỉ làm dáng ấy vì ý tứ không suồng sã làm tăng phần tươi mát ở người đàn bà dày dạn ân tình mà tuổi 20 đã qua từ mấy thập niên! Người cũ nhưng vẫn mới khi đứng bên anh như cảnh đầu ngày trước ánh bình minh… Anh âu yếm chiêm ngưỡng mùa xuân mang lớp vỏ mùa thu bọc ngoài.
Câu chuyện cuối tuần về tin tức các con được trao đổi tự nhiên giữa vợ chồng. Hôm vui thì lạc quan như nắng ban mai nhảy múa trên những đóa hoa vừa nở nhưng cũng có lúc u sầu giống cơn mưa đêm nặng hạt chưa dứt vào lúc hừng đông.
Trách chi những con chim non rời tổ ấm, cất cánh bay xa tìm sự nghiệp và hạnh phúc phía chân trời… Chúng đang bươn chải sống đời tự lập nên đành tạm xa bố mẹ già với bao kỷ niệm êm đềm năm xưa. Ở thời đại đảo điên hôm nay, khó đoán trước nền hòa bình vững chãi cho xã hội và thế giới tương lai, làm cha mẹ hai đứa mình chỉ còn biết chắp tay cầu nguyện mong chúng may mắn sẽ có một thế hệ ngày mai tươi sáng.
Còn lại đây trong căn nhà nhỏ, mối tình già của đôi ta đang đi vào thu. Thu tháng 10 trên vạn vật là nghĩa bóng, bên cạnh còn hình ảnh mùa thu âm thầm lướt qua hình hài chúng ta là nghĩa đen. Chân dung hai mùa thu chẳng hẹn mà cùng đến theo chu kỳ, định luật của một kiếp người.
Anh biết mình đã già! Chiếc lá vàng bắt đầu cằn cỗi và người tình trăm năm ngồi trước mặt cũng chẳng còn thuở lá xanh nhưng sáng nay lòng anh bỗng se lại… Chẳng phải tại hơi thu lành lạnh thổi vào từ khu vườn nhỏ mà vì chợt thấy những nét tàn phai bắt đầu đậm rõ trên khóe mắt, làn môi em: Dấu chân chim mỗi ngày một dài cộng với bờ môi đã lạt màu theo năm tháng…
Ba mươi năm trước, cũng đôi mắt to ấy đã in toàn cảnh ngày hạnh phúc của cuộc đời cô thiếu nữ sửa soạn về nhà chồng… Đến bây giờ, sức quyến rũ vẫn đầy nhưng nét tinh anh ẩn hiện bóng dáng một mùa thu ảm đạm. Đôi môi khêu gợi này đã bao lần hôn say đắm, yêu đương bỏng cháy để rồi hôm nay in dấu những nếp nhăn tình ái.
Em đã qua mùa xuân con gái, kế tiếp sẽ là mùa thu cuộc đời. Mùa thu của em từ nay mất hẳn hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà chỉ có lá vàng khô la đà rụng từng ngày! Vẻ đẹp mỗi mùa khác nhau… nếu xuân rộn ràng thì thu hiu quạnh nhưng mùa nào chúng ta cũng có thể mang vào nhịp sống buồn vui lãng mạn của riêng mình.
Em vẫn đẹp nhưng cái đẹp của mùa thu như những bài thơ tình mùa thu bất hủ. Anh nguyện sẽ làm phu quét đường, đêm đêm gom lá vàng dưới chân em cho con đường tình cuối ta đi gọn gàng thông suốt rồi nếu có thể, lẳng lặng đếm từng chiếc lá để làm bằng chứng yêu em… Bao nhiêu lá bấy nhiêu tình! Hãy giữ mùa thu bên mình, đừng đi mỹ viện bởi hoa có bao giờ nở hai lần…
Còn lại những mùa thu tha hương cuối cùng bên nhau. Trời sắp vào thu ở Cali nhưng nơi đây, thiếu cảnh mưa phùn gió bấc, gió heo may bên nhà. Anh nhìn thấy em cũng vừa sang thu. Anh yêu mùa thu… cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

Giữ mãi dáng thon gọn, vẻ đẹp đơn thuần giản dị giống khuôn mặt trong sáng trước ly cà phê buổi sáng hôm nay em nhé! Nó đã tạo niềm vui và hứng khởi cho anh viết những dòng cảm xúc chân tình này…
Mai đây, khi đông về, có một mùa thu sẽ vĩnh viễn ra đi, mùa thu ấy không bao giờ trở lại để rồi người đi kẻ ở chỉ còn nỗi niềm thương tiếc khôn nguôi. Hiểu chân lý đó, chúng ta nên lãng mạn và lạc quan chấp nhận mùa thu cuộc đời rồi điều chỉnh hạnh phúc mối tình già với những gì đang có hôm nay.
Cao Đắc Vinh
5 Ngày Đi “Cruise”—Phương Hoa
Những năm gần đây, phong trào “đi Cruise” của người Việt Nam ở Mỹ và khắp nơi trên thế giới, kể cả bên Việt Nam, coi bộ khá thịnh hành. Nhưng đối với vợ chồng tôi cách giải trí này vẫn còn xa lạ lắm, dù tôi đã từng “nghe ké” rất nhiều về chuyện đi ngoạn cảnh bằng tàu thủy qua bài viết của các “du lịch gia”.
Người viết và ông xã trên tàu Carnival Imagination
Năm vừa rồi, sau khi nghỉ hưu, “cái nhà” của tôi coi bộ không khỏe. Ăn Tết Đinh Dậu xong tôi bàn với ông tìm một chuyến du thuyền ra biển để “xả xui”, may ra tốt hơn cho sức khỏe nhà tôi. Ông xã dễ dãi đồng ý ngay. Ừ thì đi. Coi như là ăn mừng kỷ niệm năm chục năm ngày cưới sớm hơn… mười hai tháng. Chàng đùa.
Nghe thế tôi muốn đi ngay. Nhưng mãi đến nay tôi mới kiếm được chuyến du lịch đường biển ngắn năm ngày, qua Mễ Tây Cơ.
Tàu khởi hành từ bến cảng Long Beach, California, nên những người sống ở Nam Cali rất may mắn, mua vé xong chỉ chờ ngày lên tàu. Chúng tôi ở miền Bắc, phải xuống “Tiểu Sài Gòn” mới đi taxi ra bến cảng. Tôi xếp thời gian đặt vé máy bay cùng ngày tàu khởi hành để khỏi mất công ở khách sạn. Xin ghi lại đây vài kinh nghiệm và kỷ niệm của chuyến hải hành, hầu chia sẻ với quý độc giả ai có ý định đi du thuyền ngắm cảnh trong tương lai. Bắt đầu bằng chuyện taxi.
– Uber đã lấy “Job” của người đồng hương taxi
Tôi tuy ở miền Bắc nhưng rất thường bay xuống Nam Cali, mỗi năm ít nhất vài lần, khi thì dự lễ phát thưởng Viết Về Nước Mỹ của Việt Báo, khi thăm bà con, tham dự các việc quan, hôn, tang, tế của bạn bè. Thời gian qua có người giới thiệu cho tôi một tài xế taxi đồng hương rất vui vẻ dễ mến. Hẹn là anh đến đúng giờ, tôi xuống máy bay ra cổng là anh có mặt. Thường khi làm hẹn tôi hỏi giá trước và chuẩn bị sẵn số tiền cộng thêm chút tiền “tip”, đến nơi là đưa cho anh rồi xuống xe. Để phòng hờ khi cần thiết, tôi có mở một tài khoản với công ty Uber “Taxi trên ứng dụng” trong điện thoại, nhưng chưa bao giờ tôi đi xe họ.
Lần này sau khi đặt vé chuyến “Cruise”, tôi tò mò lấy điện thoại bấm thử Uber thì thấy từ phi trường đến cảng Long Beach 12 miles, họ cho cái giá $15. Ông xã tôi cản, thôi em, mình hẹn anh taxi quen cho có tình nghĩa trước sau, dù anh ấy có tính hơn Uber chút đỉnh cũng được. Tôi nghe lời gửi tin nhắn cho anh đồng hương làm hẹn khứ hồi. Từ phi trường ra cảng, rồi lúc về từ cảng đưa chúng tôi lại phi trường. Tôi hỏi giá để chuẩn bị tiền như mọi khi, thì anh tính cho tôi giá cao“gấp ba lần” giá của Uber. Tôi giật mình, nói nhẹ nhàng nhờ anh xem lại có nhầm địa chỉ hay không vì đường đi chỉ có 12 miles, và Uber tính giá khác xa. Anh cũng… rất nhẹ nhàng giải thích, vì anh phải chạy từ nhà ra phi trường, từ phi trường ra bến cảng, rồi từ bến cảng phải chạy về! Ồ tôi hiểu rồi! Tôi nói, và chân thành xin lỗi anh.
Ngày đi, sau khi máy bay hạ cánh, trên đường ra cổng tôi bấm vô Uber, cho địa chỉ đến bến cảng. Một cái danh sách tài xế hiện lên,và tôi chọn ngay chiếc Toyota Camry có đăng kèm hình một thanh niên Mỹ tên David nằm đầu tiên trong danh sách. Thú vị thay, hệ thống internet tự động nối máy cho tôi với tài xế. Anh ta nói tôi biết hiệu và màu xe để tôi dễ nhận, hỏi tôi cổng ra, và nói năm phút nữa sẽ tới. Tôi vừa… cà kê cho biết cổng ra, nói màu áo quần của chúng tôi đang mặc thì David đã thắng xe cái rẹt ngay trước mặt!
Trên đường ra bến cảng, tôi hỏi chuyện David cậu sinh viên đại học làm thêm nghề tài xế Uber, và vô cùng ngạc nhiên khi khám phá ra sự tuyệt vời của Uber. Lý do mà Uber “giật khách” của các taxi là sự nhanh chóng và giá rất rẻ, còn rẻ hơn cả Shuttle của chuyến tàu du lịch. David nói “bộ chỉ huy” Uber quản lý và theo dõi đường đi nước bước của các tài xế nhân viên. Trong lúc làm việc, điện thoại cài trên xe tài xế được mở online. Có khách cần, Uber kết nối cho liên lạc ngay với tài xế nào đang ở gần nhất hiện lên trong hệ thống. Hôm ấy David chở người đến phi trường vừa quay xe về thì được kết nối với tôi, cậu lập tức trở lại. Tiện lợi vô cùng. Tôi lẩn thẩn nghĩ, không biết rồi đây trong tương lai khi Uber ngày càng thịnh hành, thì công ty taxi và các taxi tự do như anh tài xế Việt tôi quen sẽ ra sao.
– Ngày Thứ Nhất: Lên Tàu, gặp gỡ con gái người tử sĩ
Theo thông báo, tàu sẽ khởi hành lúc 5:30 chiều. Nhưng chúng tôi đến cảng mới hơn11 giờ sáng,đã có nhân viên đón nhận hành lý,nói sẽ đưa qua check cổng an ninh dùm, rồi đem đến tận phòng. Chúng tôi rảnh taythong dong chụp vài tấm hình đầu tiên. Chiếc tàu to đến nỗi không thể nào thu hết vào ống kính, nhà tôi bèn chạy vào trạm quan sát nhờ người nhân viên trực chụp dùm một tấm rồi cùng tôi vô cổng xét an ninh. Sau đó lên tàu làm thủ tục nhận phòng. Tàu rộng thênh thang, cao14 tầng với nhiều trung tâm, hồ bơi, sòng bài, nhà hàng,khu giải trí,shopping, trung tâm thể dục…xen lẫn với nhiềudãy phòng ngủ nên phải mất một thời gian chúng tôi mới tìm được phòng của mình. Hai vali hành lý đã nằm sẵn trước cửa.
Phòng rất sạch sẽ, đầy đủ tiện nghi, có bàn ghế ngồi trang điểm, bàn ăn, TV và két sắt an toàn. Cửa sổ“Oceanview” thật tuyệt. Nhìn ra ngoài thấy nước biển xanh lơ êm ả lặng lờ vì tàu đang đậu. Phòng tắm cũng rất thoải mái, sạch sẽ thơm tho, nếu đem so sánh thì không thua những phòng ngủ cỡ 4 sao trên bờ. Tờ chương trình cho ngày đầu tiên được đặt sẵn trên bàn. Chúng tôi tắm rửa nghỉ ngơi một lát, rồi dậy “diện đồ đẹp” đi lên nhà hàng Lido ở tầng10 dự bữa trưa đầu tiên.
Thức ăn tự chọn của nhà hàng Lido thật là đa dạng và phong phú. Hôm nay đặt biệt có nhiều món Ý như mì xào, cá chiên bột, bò xào thập cẩm rosemary, thêm bít tết của Mỹ. Ăn xong, chúng tôi bắt đầu đi dạo “Get to know your ship” theo lời khuyên, để khám phá các nơi trên tàu, chuẩn bị cho những bước tiếp theo lịch trình trong ngày. Nơi đây còn có 24 giờ pizza và nhiều món khác như bít tết, Carnival Deli, Swirl Soft Serve sẵn sàng chờ đợi những ai cảm thấy cái bao tử đòi hỏi trong đêm khuya hay sáng sớm, khi mà các bữa chính chưa sẵn sàng. Chúng tôi cũng tìm được, buổi trưa ở tầng 10 có “Guy’s Burger Joint” là món Berger tự chọn nhân cho mình,và “Chef’s Choice Italian” món ăn Ý rất lạ. Dinner thì có các nhà hàng Pride Dining Room, Spirit Dining Room trên tầng 8, và hàng chục bar rượu với các giàn nhạc quy mô. Giữa khoang tàu tầng 10, là khu vực hồ bơi, nhiều hồ nước nóng spa xoa bóp, nước xoáy ào ào bọt văng tung tóe. Mới mấy giờ đầu mà nơi đây đã rộn ràng, người lớn trẻ em lớp tắm lớp bơi lớp nằm phơi nắng trên những dãy ghế.
Nhìn lên thấy còn mấy tầng trên cao ngất ngưởng, tôi lôi ông xã dắt tay chàng bắt trèo bộ lên cầu thang chứ không đi thang máy. Vừa trèo vừa hì hục thở, cuối cùng chúng tôi cũng leo tới trên boong, tầng 14, ở phía đầu tàu. Đuôi tàu xa tít mù tận phía bên kia. Gió thổi lồng lộng trên boong. Phó mặc mái tóc đã sấy chải kỹ càng cho gió tốc, tôi đứng tựa vào thành tàu hít từng hơi dài, cố nhét bầu không khí trong lànhvào cho đầy hai buồng phổi. Cả khu vực này là công viên với sân cỏ (giả) xanh rờn, có con đường lớn dành cho người chạy bộ, mỗi vòng khoảng chừng mười lăm phút. Nhiều người đang chơi golf trên cái sân mini giữa bãi cỏ. Đi dạo mấy vòng quanh công viên, thấy đã sắp đến giờ tàu ra khơi nên chúng tôi phải trèo xuống về phòng để chuẩn bị.
Hồi trưa trước lúc ra ngoài tôi tiện tay lấy ít tiền lẻ bỏ lên bàn, ghi vào tờ giấy chữ “Tips” đặt lên đó để cho bồi phòng ngày mai. Không ngờ trên tàu họ dọn phòng hai lần/ngày. Khi chúng tôi trở về thì gặp người bồi phòng vừa đóng cửa bước ra. Chúng tôi chào chàng trai nhanh nhẹn vui vẻ, vừa nói vài câu thì nghe loa thông báo mọi người phải có mặt ở sảnh đường để họp với thuyền trưởng.
Chúng tôi được chào đón trước cửa và đưa vào ngồi trong đại sảnh chờ thuyền trưởng đến. Bên trái tôi là một phụ nữ Mỹ trắng, hai tay cô đeo hai chiếc vòng chống ói. Tôi chào làm quen, hỏi có phải cô thường say sóng. Cô ta cười chào lại:
– Tôi bị say sóng ghê lắm, ngồi xe hơi cũng ói đến mật xanh, nếu tôi tự lái thì không sao. Nhờ những chiếc vòng này mà từ trưa đến giờ tôi có thể ăn uống đi đứng bình thường như mọi người. Cô đưa hai tay cho tôi coi.
Nói chuyện một lúc, thì ra phòng cô cùng khoang với chúng tôi. Vậy mình là hàng xóm rồi. Tôi đùa. Cô tên Kathy làm nghề y tá, đến một mình từ Arkansas. Anh chồng nhường cô đi chơi giải trí vì việc làm của cô căng thẳng, còn anh ở nhà trông hai đứa con nhỏ. Cô có vẻ cảm tình vì biết tôi là người Việt. Khi Kathy nói ba cô là một bác sĩ quân y Hoa Kỳ đã từng phục vụ trong chiến tranh Việt Nam, tôi kêu lên thích thú.
Nhưng tôi chưa kịp hỏi thêm thì thuyền trưởng Pierluigi Lanaro tới, nên cuộc trò chuyện đành bỏ dở. Sau khi tóm tắt điều lệ và dặn dò những việc cần thiết để giữ an toàn cho bản thân và mọi người trên tàu, du khách được chia làm nhiều nhóm theo số tầng của khoang thuyền và khu vực phòng ngủ. Chỉ có hai chúng tôi là dân “đầu đen” trong nhóm đủ sắc dân này. Và suốt cuộc hải hành chúng tôi không gặp người Việt nào, cho đến khi lên bờ chờ xe Uber nhà tôi có gặp và trò chuyện cùng một vị HO cư ngụ ở Nam Cali. Tiếp đến, người trong thủy thủ đoàn đưa chúng tôi lên boong chỉ dẫn cách sử dụng áo phao phòng khi hữu sự. Kathy cũng ở trong nhóm, nhưng cô đứng cách xa nên dù tôi nôn nao muốn hỏi thăm về ba cô mà không thể bắt chuyện được.
Đúng 5:30pm tàu nhổ neo, kéo còi rời bến. Tôi xí xọn rủ ông xã trở về phòng thay đồ khác, trang trọng hơn, cho bữa tối đầu tiên ở nhà hàng Pride Dining Room trên tầng 8 theo lịch hẹn 6 giờ khi tôi đặt vé.
Đội ngũ nhân viên mặc đồng phục đứng nghiêm trang tại cửa nhà hàng đón chào chúng tôi với vẻ nồng ấm, đưa đến tận bàn, và trang trọng kéo ghế mời ngồi. Tôi thầm nghĩ, thật không uổng công chúng tôi “ăn diện” lịch sự. Điều thú vị là, bàn này họ “book” cho chúng tôi suốt tất cả các buổi dạ tiệc của chuyến đi. Khung cảnh nhà hàng đẹp lung linh huyền ảo, buổi trình diễn mở màn chào đón vui nhộn của đội ngũ đầu bếp, nhiều món ăn thật lạ mắt và quá ngon, cộng thêm chút men nồng của ly cocktail, làm cho chúng tôi có cảm giác như là đang đi… lạc vào động thiên thai trong huyền thoại.
Ăn xong chúng tôi ra ngoài rồi lại trèo lên boong tầng 14 lần nữa, để tiêu bớt số năng lượng vừa nạp vào hơi quá tải vì thức ăn ngon. Nhưng lần này đi bên phía đuôi tàu, khu vực dành cho sân chơi và trượt nước của trẻ em. Vì còn trong giờ ăn nên ở đây vắng vẻ. Tàu đã khá xa bờ, chạy thật nhanh vì trời yên biển lặng. Tôi dạo quanh, mải mê ngắm cảnh trời nước mênh mông dưới ánh chiều tà, và quên mất chàng “người dưng khác họ”của tôi hết một lúc. Đến chừng quay lại thì không thấy chàng đâu. Đi hết mấy vòng tìm kiếm, cuối cùng tôi bắt gặp anh đứng lặng lẽ phía sau đuôi tàu. Tay vịn thành lan can, mắt anh mơ màng dõi về hướng xa xăm với vẻ thất thần. Tôi bước lại thật gần anh mới giật mình như sực tỉnh:
– Đứng đây nhìn cảnh biển nước bao la xa tít mù khơi không thấy bến bờ, anh chợt nhớ lại cái cảm giác lần vượt biên ngày ấy. Thật là kinh hoàng! Chiếc ghe câu bé xíu chở những mười bảy mạng người, lắc lư trên sóng, mong manh như chiếc lá…
Nghe anh nói tôi chợt lạnh mình. Ôm vội lấy anh mà rưng rưng nước mắt. Nhớ lại cái ngày anh rời nhà xuống thuyền ra đi bỏ lại tôi và bốn đứa con thơ dại, tôi đã sợ hãi đến mức nào. Hàng ngày bị triệu tập lên đồn công an tra hỏi. Họ bắt cả đám thân nhân có người vượt biên ngồi trước cửa cái cầu tiêu thúi hoắc viết tường thuật, chứ không cho ngồi trong phòng. Vừa viết tôi vừa tự trách mình sao lại đồng ý để anh đi, giờ này bóng chim tăm cá không biết sống chết thế nào, còn bị hành hạ tinh thần, bỏ bê con cái ở nhà khổ sở. Nhưng nhớ lại các con tôi thường nói, nhờ sự hy sinh của ba mà chúng con mới có ngày hôm nay, tôi thấy sự liều lĩnh của anh rất là xứng đáng.
– Cũng may nhờ ơn phước thiêng liêng, anh đã may mắn đến được bến bờ tự do, nếu không thì em và các con sẽ chẳng biết ra sao ngày đó, và giờ này mình đâu có cơ hội được đứng nơi đây phải không anh. Tôi nói.
Anh cũng ôm lại tôi thật chặt. Nỗi ám ảnh sóng nước hiểm nguy ngày trước hiện về đã khiến cho anh xúc động gần như nghẹn lời. Cuối cùng anh khẽ nói: – Đúng lắm, trải qua bao nhiêu sóng gió mà mái gia đình nhỏ của chúng ta vẫn còn giữ được đến ngày nay, tương lai các con sáng lạng, cũng là nhờ ơn phước Bề Trên.
Đứng im lặng bên nhau một lúc thật lâu, chúng tôi lại dắt tay trèo xuống, về phòng chuẩn bị đi xem diễn kịch. Buổi tối, chúng tôi đi xem“Welcome Aboard Show” là sô chào mừng, ở sân khấu Dynasty Lounge tầng 8 do Jase, giám đốc chuyến hải hành điều khiển. Đến gần 11 giờ, chúng tôi lên tầng 9 vô “Illusions Nightclub” bar gọi hai ly sâm banh và xem đêm dành cho phụ nữ “Ladies Night” do DJ Mad Mike dẫn chương trình, rất hay và vui nhộn. Chúng tôi về đến phòng là đã nửa đêm, buồn ngủ ngất ngư nhưng niềm vui thì đầy ắp theo vào cả trong giấc ngủ. Thật là một bắt đầu tuyệt diệu.
– Ngày Thứ Hai: Lênh Đênh Trên Biển
Đúng 6 giờ, tôi đánh thức ông xã dậy thay đồ thể dục, lò dò trèo lên boong chạy bộ nửa tiếng rồi về phòng mặc đồ lên tầng 10 ăn sáng để còn chuẩn bị cho các hoạt động trong ngày. Đó là một ngày dày đặc các hoạt động vui chơi trên tàu. Có đến hàng trăm chương trình giá trị như Live Show with Jase, Art Guess The Price có thưởng tại phòng tranh, Raffle xổ số, $1,000 Bingo lô tô, Thriller Dance Class… Nhiều lắm, nhưng chúng tôi chỉ tham gia được một số tiết mục vì không đủ thời gian.
Sau khi ăn trưa ở Spirit Dining Room, chúng tôi lấy hai ly nước trái cây và trèo lên tầng 10 ngồi tắm nắng trên dãy ghế đặt dọc theo hai bên thành tàu quay mặt ra phía hồ bơi. Một phụ nữ mặc đồ rất “mát mẻ”che mặt bằng chiếc mũ rộng vành nằm phơi nắng trên chiếc ghế bên cạnh tôi. Khi cô ta lấy mũ ra, tôi vui mừng thấy đó là Kathy, cô y tá tôi quen ngày trước. Chúng tôi bắt đầu tán chuyện. Đang nói bỗng Kathy nhìn tôi và hỏi:
– Chị ở Việt Nam có biết nơi gọi là Long Khanh? Kathy đọc không dấu nên phải mất một hồi lâu, tôi bắt cô lập đi lập lại đánh vần từng chữ mới nhận ra đó là Long Khánh. Tôi giật mình:
– Biết chứ! Nơi đó thuộc miền Nam, gần Sài Gòn, làm sao cô biết chỗ này?
– Bố tôi đã tử trận ở đó. Cô nói, mắt nhìn vào khoảng không, vẻ mặt rất buồn. Năm năm trước tôi và mẹ có qua Việt Nam tìm đến vùng ngày xưa bố tôi đóng quân…
– Kathy, tôi vô cùng xin lỗi! Tôi nói trong xúc động, vói tay vỗ vào bờ vai trần của cô và an ủi: – Cuộc chiến Việt Nam thật là tồi tệ. Chồng tôi cũng là quân nhân thời đó, sau cuộc chiến anh đã liều thân vượt biển đến Philippines,và cuối cùng được sang Mỹ định cư.Có lẽ chuyện nhà tôi cũng từng là quân nhân trong chiến tranh Việt Nam làm Kathy thấy gần gũi hơn. Cô kể tôi nghe thêm về cha cô. Ngày ông rời Mỹ sang Việt Nam Kathy mới lên năm tuổi.
– Ba thương tôi lắm. Tôi còn nhớ ngày tiễn đưa ở sân bay ba ôm hôn tôi, mắt ba ngầu đỏ, dặn tôi ở nhà phải học giỏi, và ba hứa năm sau sẽ trở về. Nhưng rồi một năm sau người ta đưa ba về trong chiếc quan tài có phủ lá cờ Mỹ! Mẹ tôi thì ngã bệnh,còn tôi vì cú sốc nên bị chứng trầm cảm nặng trong nhiều năm. Do vậy mà khi lớn lên dù bớt bệnh, tôi vẫn không thể học nổi bác sĩ như lời tôi từng hứa với ba, lớn lên tôi sẽ làm bác sĩ như ba. Cố gắng lắm tôi cũng chỉ học xong được y tá!
Tôi bỗng cảm thấy muốn khóc. Trường hợp Kathy sao mà giống tôi quá thể! Ba tôi ngày xưa cũng yêu tôi vô vàn! Người cũng mất lúc tôi bắt đầu đi học, và tôi từng hứa với ba sau này lớn lên tôi sẽ làm nghề dạy học như ba. Nhưng rồi vì chiến tranh tôi đã bỏ học nửa chừng. Cho nên khi sang Mỹ có cơ hội dù tuổi không còn trẻ tôi vẫn ráng vào đại học để trở thành cô giáo cho tròn lời hứa với ba và mơ ước của tôi. Quả thật đã là con người thì dù có khác màu da sắc tóc, trái tim người cha người mẹ người con nào trên trái đất cũng chứa đựng lòng thương yêu ngút ngàn. Ngồi bật dậy, tôi bỏ hai chân xuống đất quay về phía Kathy và nói, mắt tôi đỏ hoe:
– Ôi Kathy! Ba tôi cũng mất khi tôi còn rất nhỏ. Cô còn khá hơn tôi là đã thực hiện lời hứa với ba sớm, dù không phải là bác sĩ nhưng y tá cùng ngành là tốt rồi. Còn tôi mãi đến lúc làm… bà nội mới hoàn thành được lời hứa với ba tôi, làm cô giáo.
Kathy nhìn tôi với vẻ mặt buồn đồng cảm. Một lát cô tiếp tục tâm sự. Sau ngày ba cô tử trận, mẹ cô có nhiều ác cảm với người Việt Nam, nếu không nói là rất ghét. Thông tin sai lạc từ những người phản chiến, TV, báo chí, là nguyên nhân. Lý do nữa là vì bịnh trầm cảm của Kathy ngày càng tồi tệ làm mẹ cô đau lòng, oán trách người Việt Nam. Nhưng về sau Kathy lớn lên, đọc được bài viết của các cựu chiến binh Mỹ, những người sống trở về thì cô và mẹ đã hiểu ra, nên mới cùng nhau đi Việt Nam. Kathy cho biết, tuy chuyến đi đó không gặt hái gì nhiều, nhưng phong cảnh và sự hiền hoà của người dân Việt Nam đã dành được cảm tình của hai mẹ con.
Tiện dịp, tôi kể cô nghe về bài viết Bảo Tàng Của Người Lính Bị Bỏ Quên, giải Nhất Viết Về Nước Mỹ Việt Báo của tôi, nói bản tiếng Anh hiện đăng trên trang nhà Viện Bảo Tàng Marysville, nếu cô muốn đọc để hiểu thêm về cuộc chiến Việt Nam ngày trước tôi sẽ đưa cho. Kathy hào hứng xin tôi địa chỉ trang web. Vì không có bút mực, tôi đánh máy địa chỉ trang web Bảo Tàng vào điện thoại cho cô. Kathy rất vui, hứa sẽ tìm đọc và đưa mẹ cô cùng đọc khi về nhà. Tôi còn hẹn cô sau dạ tiệc tối nay sẽ cùng nhau đi dự buổi hòa nhạc, “80S Music Trivia Party” do giám đốc Jase điều khiển.
Khi trở về phòng để nghỉ trưa, vừa bước vào cửa, ông xã tôi bỗng phá ra cười ngặt nghẽo. Trên giường ngủ, ra mền gối đã thay mới, sắp xếp thẳng băng như hôm qua chúng tôi mới đến. Nhưng lần này ở đuôi giường có đặt thêm một đôi thỏ dính liền nhau đầy đủ tay chân, tai to mũi vểnh mắt đen, thắt bằng tấm khăn lông trắng nuốt. Có lẽ cậu bồi phòng hôm qua gặp mặt tưởng chúng tôi là “tân lang tân giai nhân” đi hưởng tuần trăng mật, nên đã tặng cặp thỏ trong tư thế “tình hết biết” này. Cho đến cuối chuyến đi, mỗi ngày trên giường chúng tôi đều có đôi thú dễ thương thắt dính liền nhau, khi thì cặp ếch, lúc đôi chim ngộ nghĩnh.
Tối hôm thứ nhì là đêm dạ tiệc “Cruise Elegant” quan trọng nhất của chuyến đi. Họ yêu cầu mọi du khách phải ăn mặc lịchsự, không được mặc áo thun, quần sọt, mang sandals hay áo quần xuề xòa. Nếu ai không mang theo “đồ lớn” có shop cho thuê đồ dạ hội trên tàu. Và đó quả là một buổi tiệc nhớ đời. Nhiều món ăn lạ tôi không nhớ tên và đồ biển thì ngon đặc biệt, với bài nói chuyện vui của thuyền trường, giàn nhạc chơi nhộn nhịp, ban nhiếp ảnh đến từng bàn chỉ cách tạo dáng chụp hình kỷ niệm cho mọi người, và đội vũ “nhà bếp nhà hàng” thật là thú vị.
– Ngày Thứ Ba: Cập Bến Catalina
Catalina là một đảo nhỏ, nguyên thủy của người da đỏ bản xứ, thuộc tiểu bang California, với chiều dài chỉ 35 km và chiều rộng 13 km. Nhưng đây là điểm dừng của nhiều tàu thuyền du lịch vì lịch sử của nó. Trên đảo có rất nhiều chuyến du lịch ngoạn cảnh độc đáo, như đu dây ngang qua hẻm núi sâu, lên tàu thuỷ coi cá heo và các loại thủy sản, thăm sòng bài cổ kính… Chúng tôi đặt tour đi thăm thành phố Avalon, tháp William Wrigley và ngồi Thuyền Thủy Tinh xem cá lội dưới biển. Đường lên tháp Wrigley là con dốc đứng trèo mệt hụt hơi. Vườn Botanic Garden có rất nhiều loại hoa lạ và xương rồng quý hiếm, dù mệt mỏi ai cũng cố gắng dừng lại chụp vội vài tấm hình. William Wrigley là người sáng lập loại kẹo cao su có vị trái cây của Mỹ nổi tiếng trên thế giới đến ngày nay. Ông từ Philadelphia đến Catalina và yêu thích phong cảnh nơi này, ông bỏ tiền xây dựng nhiều cơ sở hữu ích cho cộng đồng, mua tàu chạy bằng hơi nước, xây Casino, trồng cây xanh và nhiều hoa lạ, tạo công ăn việc làm cho nhiều người dân trên đảo. Sau khi viếng tháp và vườn xương rồng, tàu đưa chúng tôi xem cá cũng đầy thích thú. Đáy tàu thủy tinh, chạy ra khơi gặp đủ loại cá bơi lội dày đặc dưới nước nhìn thật đã mắt.
Buổi chiều về tàu sớm, chúng tôi vào trung tâm mua sắm lựa vài món đem về làm quà, rồi ghé vô sòng bài kéo máy. Gặp may mắn, chúng tôi kéo trúng “lô độc đắc” tới cả chục nghìn… pennies. Ngồi chơi thêm lúc nữa, thua lại hơn một nửa thì tới giờ cơm tối nên phải ra đổi tiền mà về. Thật vui, vì dù sao thì cũng gọi là…thắng.
– Ngày Thứ Tư: Cảng Ensenada, Mễ Tây Cơ
Trong cái danh sách giới thiệu các điểm du lịch trên đảo Ensenada,Mễ Tây Cơ, tôi chọn một chuyến đi có giá cả nhẹ nhàng nhưng địa danh đến thì nghe ngồ ngộ. “Water Sproud”, Nước Mọc. Tại một góc biển, có dòng suối tự nhiên nước từ trong lòng núi phụt lên từng cây cao như mái nhà. Từ chỗ đậu xe đến nơi Nước Mọc, du khách phải đi ngang qua những dãy hàng hóa và thức ăn bày bán dọc hai bên đường. Người ta kêu réo, mời chào inh ỏi, có người còn đem thức ăn ra mời du khách ăn thử miễn phí. Ai nấy tha hồ mua sắm vì thứ gì cũng đẹp mà rất rẻ.
Tôi đã biết Mễ Tây Cơ là một nước nghèo nên nhiều người dân vượt biên giới vào Mỹ tìm phương kiếm sống và gửi tiền về giúp gia đình. Hôm nay ngồi trên xe ngoạn cảnh vòng vòng Ensenada, tôi mới thấy hết cái nghèo của họ. Đây là thành phố biển, tiện lợi cho các du thuyền từ Mỹ đổ khách du lịch vào nườm nượp. Nhưng nhìn quang cảnh hai bên đường sao mà nghèo xác xơ. Nhà cửa nhỏ xíu, đa số là những căn nhà cỡ chừng bốn, năm mét vuông, thấp lè tè, nhem nhuốc cũ kỹ. Có rất nhiều nhà xây mới nửa chừng nhưng đã cũ mốc, hoặc chỉ xây tường mà chưa có mái, hay một vài bên vách đứng chơ vơ, rồi có chỗ chỉ vỏn vẹn mảnh nền để đó cho cỏ mọc, tất cả đều nhìn cũ kỹ như nhà từ thời tiền sử còn sót lại.
Bà hướng dẫn viên gốc Mễ giải thích, người dân ở đất nước này thường tự xây nhà cho họ. Khi để dành được tiền họ mua chút đất, rồi kiếm tiền mua gạch đá xây dần dần từng phần cho đến chừng nào xong, có nhà vì nghèo quá nên không bao giờ xây xong, phải chờ đến đời con cháu tiếp tục. Ở Hoa Kỳ, tôi từng ngạc nhiên thấy nhà cô bạn Mễ bốn gia đình mười mấy trẻ con cùng bà mẹ già sống chung vui vẻ, nấu nướng tiệc tùng hát ca trong căn nhà ba phòng ngủ. Bây giờ thì tôi đã hiểu.
Bến cảng Ensenada rất sâu, du thuyền cập bến sát cầu tàu. Du khách chỉ bước lên bờ là thuộc về nước Mễ. Vậy mà khi trở lại Mỹ, an ninh rà soát kỹ vô cùng. Phải kê khai tất cả những thứ từ Mễ mang về. Thức ăn hay trái cây đều bị cấm tuyệt.
Chúng tôi trở về tàu khi trời còn nắng nên vội thay đồ chạy ra hồ bơi. Đây là lần bơi duy nhất trong chuyến đi. Ít nhất cũng cho “đáng công” đi mua mấy bộ đồ tắm, tôi nói với ông xã. Bữa tối sau cùng trước lúc tàu nhổ neo về lại California cũng khá thịnh soạn. Nhưng chúng tôi ăn vội vàng để tận dụng thời gian đi xem văn nghệ các nơi. Tới Comedy Club coi Doug Williams diễn hài “Spare The Rod”, Thương-Cho-Roi-Cho-Vọt, cười một trận ngả nghiêng, rồi chạy qua Shangri La Loinge xem thi hát Karaoke có thưởng, sau cùng xuống tầng 8 vô Mirage Piano Bar kêu hai ly rượu đỏ ngồi xem Ewart điều khiển chương trình nhạc yêu cầu. Rượu vào…hành động ra, có hơi men chúng tôi cũng cao hứng vỗ tay nhịp chân ầm ỹ, lắc lư cùng mọi người, và cảm thấy mình như đang trong thời kỳ tuổi trẻ. Rất vô tư, quên hết mọi phiền toái thường ngày.
Tuy mãi đến quá nửa đêm mới về phòng ngủ, lòng vẫn còn tiếc nuối vì quá nhiều chỗ nhiều nơi chưa đi hết.
– Ngày Thứ Năm: Về Lại Cali
Buổi sáng chúng tôi thức dậy tàu đã cập bến Long Beach. Tuy là ngày cuối trêntàu, các nhà hàng vẫn mở cửa phục vụ khắp nơi, với nhiều loại thức ăn đặc biệt ngon và có nhiều món khác với thực đơn của mấy ngày trước. Người ta rộn ràng ăn uống trước khi rời tàu. Hành lý ai đặt trước cửa phòng đều có nhân viên đem đi check an ninh rồi đưa lên bờ trước, khi rời tàu chỉ việc đi nhận lại. Đáng tiếc, ngày cuối tôi đã không gặp lại Kathy để chào tạm biệt. Không biết cô còn nhớ đến tôi.
Chút kinh nghiệm muốn chia sẻ với các bạn, là trong suốt thời gian đi tàu chúng tôi ăn uống kiểu…thả giàn, thứ gì cũng thử, chứ không kiêng cữ như lúc ở nhà. Nhưng lại không bị tăng cân, có lẽ nhờ trèo lên trèo xuống cầu thang mười mấy tầng lầu ngày mấy bận, cộng với sáng nào cũng chạy bộ trên boong, và canh giờ về phòng nghỉ trưa vài chục phút. Điều đáng mừng, nhờ bận rộn với chương trình dày đặc như thế, chàng của tôi hầu như quên mất mình là người bệnh, cái chứng Vertigo “lắc lư con tàu đi”, và tôi cũng quên mất sự lo âu về sức khỏe của anh. Có thể nói chuyến đi này là một món quà quý chúng tôi “tự thưởng” cho nhau, sau hơn bốn mươi chín năm khổ sướng chung đường.
Về nhà kể chuyện, cô con dâu tôi trầm trồ kiểu như người Mỹ: Wow! Ba má đi du lịch chuyến này thật đáng giá từng penny!
Các bạn nếu ai có ý định… hấp hôn, thì đưa nhau lên tàu đi một chuyến Cruise là lựa chọn tuyệt vời nhất.
Phương Hoa
Happy Father’s Day

Papa—Paul Anka | Uniart
Khách Sạn 22—Khôi An
Lisa choàng dậy, ngóc đầu nhìn. Xe bus vừa đi qua Palo Alto Highschool, nghĩa là chỉ còn vài phút nữa thì tới trạm. Nó gạt cái chăn mỏng sang một bên, chống tay ngồi dậy. Bên cạnh, Ba vẫn đang ngủ, đầu dựa vào cửa kính, miệng hơi há ra. Trong giấc ngủ mà trông ổng cũng như đang lo lắng chuyện gì, đôi lông mày nhíu lại. Lisa lặng lẽ xếp cái chăn rồi nhét vào túi xách dưới chân.
Đèn trong xe bật sáng, tiếng nói quen thuộc từ chiếc loa tự động phát lên “Xe bus đang vào trạm Palo Alto Transit Center, trạm cuối của tuyến đường 22. Xin mọi người chuẩn bị xuống xe.” Trong khoảnh khắc, trong xe ồn ào hẳn lên với tiếng ngáp, tiếng ho, tiếng lôi kéo hành lý, tiếng càu nhàu. Ba nó dụi mắt lia lịa, gài lại áo ấm rồi khoác mấy túi đồ đạc lên vai. Xe ghé trạm rồi từ từ ngừng lại. Người ta đổ xô ra cửa, Lisa và Ba cũng hòa vào dòng người, xuống xe.
Lisa đút hai tay vào túi áo. Tháng Mười rồi, đứng ngoài trời đêm mà không dấu kỹ thì chỉ một lát là hai bàn tay nó lạnh như nước đá. Từ xa, hai con mắt khổng lồ, vàng rực của chuyến xe đi hướng Đông đã hiện ra sau lớp sương mỏng. Lisa thở phào, nó sắp được chui vào trong xe ấm áp…
Chuyến xe về Eastridge Mall cũng gần đầy người. Như thường lệ, hai ba con Lisa nhanh chân giành được băng ghế cuối. Nó ngồi sát cửa sổ, nhìn ra ngoài. Con đường El Camino Real ở khúc này là đẹp nhất vì đi ngang qua thành phố Palo Alto, nơi nó nghe nói rằng chỉ có những người giàu kinh khủng mới có nhà ở đó. Xe đang đi dọc theo khoảng đất rộng hút mắt với những cây thông thật cao, dọc hàng rào có treo những tấm hình rực rỡ về trường đại học Stanford. Cái trường này nó biết vì mùa hè rồi trong những ngày trời nắng ấm hai ba con nó có lang thang đi bộ từ bến xe bus vô đó. Nó mê cái bãi cỏ mênh mông, xanh rờn ở phía trước tòa nhà mái đỏ ngay giữa trường, nhìn xéo qua ngọn tháp cao có cái nóc tròn trông giống như cây viết khổng lồ. Nằm ở đó nhìn lên thì trời xanh biếc, cây xanh nõn nà, nhìn chung quanh thì ai cũng tươi tốt, mạnh khỏe, tự tin. Nó nghĩ cảnh đó chắc giống như ở thiên đàng. Nó mê bãi cỏ đó đến nỗi có lần buột miệng hỏi “Ba ơi, nữa lớn con xin vô học trường này, được không Ba?” Ba nhìn nó, miệng há ra mà không nói được tiếng nào, một lát sau ổng mới thốt nên lời “Ờ…ờ…được chứ con… Con ráng hết sức thì… chắc được…” Nghe nói vậy nhưng nó không tin tưởng lắm vì điệu bộ của Ba nó giống y hệt như lần nó hỏi “Ba ơi chừng nào Mẹ về? “. Chỉ khác là hồi đó nó mới sáu tuổi và chưa hiểu “chết” nghĩa là không bao giờ về nữa.
Áp trán vào khung kính lạnh buốt và nhớ lại, nó nghĩ là muốn vô trường Stanford thì nó phải có cây đũa thần. Mà cũng chưa chắc, vì nếu cây đũa chỉ cho một điều ước thì nó sẽ ước cha con nó có một nơi để ở. Nó rất sợ thời gian ngủ lang thang trên mấy băng ghế lạnh ngắt trong những công viên tối thui. Có những đêm trời mưa lâm râm, hai ba con nó nằm ngược đầu đuôi trên băng ghế, đắp chung tấm nylon. Tiếng mưa lơi lộp độp trên nylon làm nó không ngủ được, thêm nữa nó cứ sợ ngủ quên mà trời mưa lớn thì ướt hết sách vở ở trong cái backpack gối dưới đầu. Sau mấy đêm như vậy, giờ hễ thấy trời âm u chuyển mưa là hai lòng bàn chân nó tự nhiên lạnh ngắt.
Cũng may mà hai cha con nó khám phá ra Khách Sạn 22.
Đó là cái tên mà những người không nhà đặt cho tuyến xe bus số 22.
Buổi chiều hôm đó, Lisa cứ nấn ná trên bãi cỏ xanh của trường Stanford nên tới hơn 8 giờ tối mới lên xe bus 22. Hai cha con định đi về khu phía Đông San Jose kiếm chỗ ngủ để ngày mai Ba còn đi xin việc làm ở mấy cái chợ Á châu gần đó. Lên xe, nó ngờ ngợ vì thấy xe đông hơn hẳn những chuyến bình thường, và ai cũng mang nhiều đồ đạc. Một bà ngồi ở băng ghế trước còn có cả một cái xe đẩy chất túi xách, chăn mền. Hơn hai tiếng sau, xe ghé trạm cuối ở Eastridge Mall, nó thấy phần đông khách trên xe lại xếp hàng chờ chuyến xe đi ngược lại. Lúc đó, hai ba con nó mới hỏi thăm và biết là có ba chiếc xe bus chạy vòng vòng trên tuyến đường này cho tới sáng. Từ ngày đó, hai cha con nó gia nhập Khách Sạn 22.
Đây là tuyến xe duy nhất chạy suốt ngày đêm của quận hạt Santa Clara, cũng là tuyến đông khách nhất và chạy con đường dài nhất. Bắt đầu từ Eastridge Mall ở phía Đông thành phố San Jose xe chạy qua đường Tully, quẹo trái đường King, dọc theo đường Santa Clara qua downtown San Jose, nối qua đường Alameda, lên El Camino Real, chạy qua ba thành phố Santa Clara, Sunnyvale, Mountain View trước khi vào thành phố Palo Alto rồi ghé vô trạm chót.
Bây giờ thì Lisa rành lắm rồi. Nó biết rõ đi một chuyến xe thì phải trả hai đô la. Nhưng hầu hết những người trên Khách Sạn 22 đều dùng vé tháng, mỗi tháng bảy chục đô la. Valley Transportation Authority của quận hạt Santa Clara, mà mọi người gọi là VTA, thỉnh thoảng còn cho những người không nhà hoặc những người sắp mất chỗ ở một tấm vé dùng được trong ba tháng. Mấy tấm vé miễn phí đó cũng hiếm hoi như một chỗ ngủ trong những nhà tạm trú (homeless shelter). Dù sao, chỉ tốn bảy mươi đô la mà có phương tiện đi lại và chỗ ngủ trong cả một tháng dài, đối với cha con nó lúc này, là một sự may mắn và vô cùng quan trọng.
Dù đã lang thang không nhà gần năm tháng, Lisa vẫn không nghĩ hai cha con nó là người homeless. Nó thấy chữ “homeless” nghe buồn bã quá, và chỉ hợp với những người chấp nhận là từ nay về sau họ sẽ không có nhà ở nữa. Ba con nó là những người “between homes”, nghĩa là đang kiếm chỗ ở.
Hồi xưa, lúc còn Mẹ, gia đình nó cũng có “home” trong một khu chung cư rất dễ thương, ở gần cái công viên thật rộng. Cuối tuần Ba tập cho nó chạy xe đạp còn Mẹ thì trải khăn trên thảm cỏ xanh rờn và nướng thịt bay mùi thơm phức. Tới giờ thỉnh thoảng nó vẫn còn nằm mơ thấy Mẹ cười thật tươi dưới tàn lá xanh lấp loáng ánh nắng công viên, và khi tỉnh dậy nó gần như chắc chắn là trong mơ nó đã ngửi thấy mùi thịt nướng.
Ngày đầu tiên nó vô lớp Một, Mẹ nó còn dắt nó đi học, còn đứng lấp ló ngó chừng, khi thấy nó không khóc Mẹ mới đi làm. Ngày Giáng Sinh năm đó nó còn vẽ tấm hình có nó, Ba, và Mẹ đánh son đỏ chót thiệt là đẹp. Vậy mà chỉ vài tháng sau Mẹ vô nhà thương. Bữa cô Cindy, em của Ba, hớt hải chạy vô xin cho nó về thăm Mẹ, cô giáo nắm tay nó và nói “Poor baby” (tội nghiệp cưng). Đó là lần đầu tiên nó thấy Ba khóc, nước mắt chảy ròng ròng. Và đó cũng là lần chót Mẹ mở mắt ra nhìn nó.
Sau đó Ba con nó dọn về ở chung với cô Cindy và chú Ben. Những chuyện xảy ra trong vài năm sau khi Mẹ mất, Lisa chỉ nhớ lác đác, tựa như đầu óc nó lạc trong một giấc ngủ dài sau khi Mẹ ra đi. Nhưng những chuyện gì đã nhớ thì nó nhớ rõ, thí dụ như là nó mới vô lớp Bốn thì Ba bị đau lưng. Chú Ben nói tại Ba làm cực, khiêng nặng mà không đeo thắt lưng bảo vệ. Ba bịnh chưa hết thì chú Ben mất việc làm. Ngày chú tìm được việc làm ở xa, hai cô chú và mấy đứa con phải dọn đi. Cô Cindy ôm hôn nó và nói “Con ráng ngoan nha”. Giọng cổ nghẹn ở mũi, nó nghĩ cổ nói vậy để khỏi khóc chứ ở chung mấy năm trời, cổ biết lúc nào nó chẳng ngoan.
Từ đó, hai cha con dọn một qua căn phòng nhỏ xíu. Ba vẫn đau lưng rề rề. Ba thuờng phải nghỉ làm, nằm một mình trong căn phòng đóng cửa tối mờ. Một ngày kia đi học về nó thấy trước nhà dán một phong thư. Đem vô đưa Ba coi, Ba không nói tiếng nào. Mãi đến khi ăn xong bữa tối Ba mới lấy thùng dọn đồ đạc vô và nói mình không có trả tiền nhà tháng rồi, chủ nhà gởi thư bắt dọn đi.
Bữa đầu hai cha con tới Commercial Street Inn ở San Jose. Sau khi đứng chờ ở một hàng dài, tới phiên hai cha con nó, cô thư ký lắc đầu:
– Ở đây là nơi tạm trú của các bà mẹ có con nhỏ.
Ba nó nài nỉ:
– Con tôi cũng nhỏ nhưng mẹ nó chết rồi. Cô làm ơn!
Cô ta vẫn lắc đầu:
– Mỗi phòng có bốn, năm đàn bà, con nít ở chung, làm sao tôi cho ông vô? Mà không có ông, ai chịu trách nhiệm cho con bé?
Thấy cha con nó ngần ngừ, ngơ ngác, không biết đi đâu, cô thư ký thương tình cho nằm đỡ dưới đất ngay trong phòng chờ đêm hôm đó. Hôm sau hai cha con lại dắt nhau đi.
Ba dắt nó vô thư viện coi nhờ Internet và xin tài liệu để đi tìm những shelter (nhà tạm trú) khác. Được bà coi thư viện tốt bụng in ra cho một danh sách các shelter trong quận Santa Clara con Lisa mừng quá. Nhìn thấy tới mười chỗ trong danh sách, nó chắc là cha con nó sẽ tìm được một nơi ở tạm vài tuần. Nhưng coi vậy mà không phải vậy…
Tuần lễ đó, hai cha con nó chỉ được ngủ trong shelter có hai ngày vì ở đâu cũng đầy người, nếu tới sau sáu giờ thì chắc chắn không còn giường trống. Có những shelter chỉ dành riêng cho những người bị bệnh tâm thần, và chỉ có một shelter dành cho gia đình chịu cấp phòng cho cha độc thân và con nhỏ. Có lần nó hỏi tại sao quận Santa Clara có tới hai chỗ cho những người mẹ có con nhỏ mà không có chỗ nào dành cho cha với con nhỏ, cô thư ký suy nghĩ một chút rồi nói:
– Bởi vì hầu hết những người có con nhỏ đến nhờ giúp đỡ đều là đàn bà. Em thông minh lắm, nhưng rất tiếc tôi không giúp được em. Người ta đặt ra những chương trình để phục vụ số đông. Cha con em là trường hợp đặc biệt.
Nó thấy buồn nhưng chỉ nắm tay Ba và trả lời: Vâng, cha của con là người rất đặc biệt.
Chỉ có một câu vậy thôi mà cả hai người lớn, cha nó và cô thư ký, đều chớp mắt như muốn khóc.
Trong mấy tháng cha con nó ngày nào cũng vô thư viện tìm thêm tài liệu về những shelter rồi đi xin khắp nơi. Nhờ đọc nhiều nên nó biết được là cứ mỗi đêm ở trong quận Santa Clara có tới hơn năm ngàn người không nhà cần chỗ ngủ. Mỗi shelter thường chỉ có mấy chục phòng, và có những nơi chỉ mở cửa vào mùa Đông. Hèn gì mà cha con nó thường phải ghi tên chờ tới phiên, có khi cả mấy tuần mới được.
Thời đó, cứ sau bữa ăn trưa là hai cha con lo tìm chỗ ngủ. Đi mấy chuyến xe bus mới tới nơi, người ta hết chỗ, đứng ngẩn ngơ vài phút rồi lại ráng đoán xem chỗ nào còn chỗ, leo lên xe đi tiếp. Rồi đêm xuống, vẫn còn ngoài đường, hai cha con thất thểu dắt nhau kiếm tòa nhà nào có chút mái che và sáng sủa cho đỡ nguy hiểm, rồi ráng quấn chăn cho ấm và ráng ngủ. Có nhiều đêm nó biết Ba sợ cho nó, bắt nó nằm vô sát vách rồi lấy chăn trùm kín mít. Vậy mà khi nó giật mình thức giấc vẫn thấy Ba mở mắt nằm thao thức.

Khách Sạn 22 và những hành khách không nhà (Mercury News’ Photos)
Từ khi có Khách Sạn 22 làm nơi trú mỗi đêm, Lisa thấy đời sống của nó khá hơn nhiều.
Lúc đầu nó hơi khó ngủ vì xe cứ chạy rung rung rồi lại thắng ken két. Mỗi lần tới trạm loa phóng thanh còn phát tiếng nhắc nhở làm nó giật mình hoài. Những khi không ngủ được nó ngồi ngắm các hành khách. Lúc đầu khuya còn có những người đi làm ca đêm hoặc đi chơi về trễ. Những người này có vẻ vội vã, họ thường chăm chú bấm lia lịa trên điện thoại di động trong suốt chuyến xe. Qua hai giờ đêm, xe chỉ còn toàn là những người đi xe mà không có chỗ đến như cha con nó. Họ ngồi gật gù trong giấc ngủ chập chờn hoặc nằm co ro trên các băng ghế. Rồi nó cũng từ từ nằm xuống, gối đầu lên chiếc backpack, và thiếp đi.
Sau vài tuần nó đã quen. Nó có thể ngủ say nhưng luôn thức dậy khi xe tới bến chót, rồi lại ngủ tiếp trên chuyến xe ngược lại.
Điều làm Ba nó mừng nhất là trên xe bus an toàn. Về phần nó, nó thích nhất vì Khách Sạn 22 giúp mọi chuyện trở nên đều đặn. Mỗi sáng nó đi xe tới trường học, chiều về đón xe bus tới thư viện ở đường Alum Rock học bài. Tới giờ thư viện đóng cửa thì nó đi bộ qua tiệm Goodwill ngay gần đó. Tiệm này là nơi bán đồ cho người nghèo, những ngày Ba không đi xin việc thì ổng làm không có lương ở đây.
Những người lái xe chuyến 22 đều biết rõ là nhiều người không nhà dùng chiếc xe làm nơi ngủ nhưng họ không làm khó dễ. Chỉ cần những “hành khách đi không bao giờ tới” này tuân theo luật lệ, không ăn uống, hút thuốc, xả rác, hay làm ồn ào trên xe. Ông Tom, một trong những người lái xe, có lần nói:
– Đối với tôi, những người không nhà cũng như mọi hành khách khác. Nếu họ có vé thì họ được đi xe. Thường thường họ đều là người tốt, chỉ đang gặp khó khăn.
Thoát khỏi nổi lo lắng về chỗ ngủ đeo đuổi suốt ngày, Lisa học giỏi hơn trước. Có lẽ nhờ ngày nào cũng học trong thư viện nên năm nay nó đạt nhiều điểm cao nhất. Từ khi khai trường vô lớp Năm, nó thường xuyên được điểm A. Lần đi họp phụ huynh về, Ba nó ôm nó thật chặt rồi nói “Ba thiệt không dám tưởng tượng là con giỏi vậy!”
Bạn bè nó không ai biết là nó không có nhà, có lẽ vì hai cha con nó luôn giữ sạch sẽ, gọn gàng. Ngày nào sau giờ học nó cũng tới một trung tâm sinh hoạt cộng đồng có hồ bơi và phòng tắm cho người đi bơi. Nó hòa vô đám người đó tắm rửa rồi giặt quần áo, vắt khô bỏ vô bịch, sau đó trải một tấm nylon phơi lén ở cái bãi đậu xe đằng sau Goodwill.
Từ hồi tháng Chín, mỗi sáng khi xuống xe ở trạm gần trường, nó đều gặp một cặp vợ chồng với một đứa con trai nhỏ đón xe ở đó. Đứa bé chắc đang học lớp Một, giống như nó thời còn Mẹ. Lần đầu tiên nó nhìn họ từ trên xe bus, bà mẹ đang cúi xuống gài lại áo lạnh cho thằng bé. Không hiểu sao nó thấy cái cử chỉ đó, cái dáng điệu đó, giống in như mẹ nó ngày xưa. Lần đó, sau khi xuống xe, nó chậm bước nhìn họ cho rõ. Từ đó, lần nào gặp họ nó cũng phải nhìn, vừa nhìn vừa thầm mong cái buồn buồn xốn xang trong bụng đừng hiện ra trong con mắt. Có lẽ vì nó nhìn họ hoài, họ cũng nhớ mặt nó. Gần đây, ngày nào hai bên cũng nói Hello chào nhau. Thỉnh thoảng có ngày không gặp họ, nó cảm thấy chút gì như là mong nhớ…
Một đêm cuối tháng Mười, trên Khách Sạn 22 xuất hiện vài khuôn mặt lạ. Họ tự giới thiệu là phóng viên của báo San Jose Mercury News, nghe nói về nơi này và muốn tìm hiểu thêm. Lisa không muốn nhắc đến chuyện không có nhà nên kéo chăn che mặt, làm bộ ngủ. Ba chỉ miễn cưỡng trả lời vài câu hỏi và không đưa tên tuổi gì hết.
Lá phong trên hàng cây dọc con đường Alameda đã đổi màu, cửa kính của các nhà hàng đã xuất hiện hình vẽ gà tây bên cạnh những trái bí rợ. Màu cam, màu đỏ của mùa lễ làm Lisa thấy buồn buồn. Cái vui vẻ, ấm áp của người ta làm nó chợt nhớ rằng lâu lắm rồi nó không được nhìn thấy một nồi súp đang bốc khói, trên cái lò cháy đỏ, trong một căn bếp. Nơi mà các gia đình quây quần ăn bữa tối…
…Thứ Bảy, buổi sáng trời nắng ấm. Hai cha con nó xuống xe ở đường Santa Clara rồi đi bộ tới công viên Cesar Chavez. Có một nhóm người đang phát những thức ăn nóng tại đó. Nghe nói có súp đậu, gà nướng, khoai tán, và cả bánh nhân bí đỏ nữa. Những món ăn tuyệt vời, chỉ nghĩ thôi mà đã phát thèm! Nó nắm tay Ba nối đuôi xếp hàng, và háo hức chờ đợi. Chỉ còn năm, bẩy người nữa là tới phiên nó.
Bỗng tim nó thót lại!
Nó vừa nhìn thấy bà-mẹ-của-thằng-bé mà nó gặp hàng ngày đang tươi cười đứng trong đám múc đồ ăn cho đoàn người không nhà. Nó lôi Ba tách khỏi hàng, quay ngoắt đi, vội vàng như chạy trốn. Ba nó vừa rảo bước theo vừa hỏi “Sao vậy? Cái gì vậy? Lisa?” Nó không nói gì, chỉ cắm đầu đi. Qua một khúc quẹo, khi biết chắc là bà ta không thể thấy hai cha con nó, Lisa mới đứng lại. Rồi tự nhiên nó thấy giận. Giận vì mình không có nhà, giận vì mình sợ người ta biết, giận vì mình đã làm Ba mất một bữa ăn ngon. Nó bật khóc nức nở…
– Lisa, con ăn đi!
Tiếng Ba nó nhắc nhở làm nó trở về hiện tại. Nó đang ngồi trong một nhà hàng sang trọng ngay trung tâm thành phố San Jose, đối diện với ông Sam, bà Nancy, và thằng bé Danny (bây giờ nó đã biết tên của họ.) Ánh mắt của bà Nancy thật là vui và ấm áp. Nhưng nó vẫn thấy ngại ngùng, thắc mắc không hiểu tại sao họ cất công mời Ba và nó đi ăn. Không lẽ bà Nancy đã thấy nó bỏ chạy từ đoàn người xếp hàng xin thức ăn hôm nọ, và muốn đền bù cho hai cha con một bữa?
Sáng hôm qua, thứ Sáu, Ba và nó cũng mỉm cười chào gia đình thằng bé như mọi ngày. Bỗng ông Sam tiến tới bắt tay Ba rồi nói:
– Chào ông. Tôi là Sam, đây là vợ tôi, Nancy, và cháu trai Daniel. Chúng ta biết nhau khá lâu rồi, hôm nay tôi muốn được hỏi tên ông và cháu gái.
– Chào ông bà. Tôi là John, con gái tôi là Lisa.
Sau vài câu trao đổi, họ mời cha con nó đi ăn vào ngày mai. Ba nó cũng rất ngạc nhiên, ấp úng từ chối. Nhưng họ thuyết phục mãi, và bây giờ cha con nó đang ngồi đây.
Dù sao những món ăn trên bàn cũng quá hấp dẫn, và vẻ cởi mở, ân cần của hai ông bà cũng không có dấu hiệu gì đáng lo. Lisa bắt đầu cắn vào miếng thịt gà vàng rộm và mỉm cười với thằng bé Danny.
Khi Lisa vét xong muỗng kem tráng miệng cuối cùng, bà Nancy ngồi thẳng lên. Bà nhìn Lisa, rồi nhìn Ba, rồi nói:
– Cách đây hai tuần tôi thấy hình ông và cháu Lisa trên báo San Jose Mercury News.
Lisa nghe máu chạy một cái rần lên mặt. Nó không biết mặt nó đang đỏ bừng hay tái mét. Bên cạnh nó, Ba cũng có vẻ sững sờ. Hai cha con mở to mắt nhìn những người phía bên kia bàn.
Bà Nancy phác một cử chỉ như muốn nắm lấy tay nó. Bà tiếp tục nói, thật dịu dàng:
– Tôi có đưa bài báo đó cho nhà tôi coi. Ổng là giám đốc chương trình của một cơ quan thiện nguyện tên là Dịch Vụ Về Chỗ Ở Vùng Vịnh, và tôi là giáo sư ở trường Đại Học San Jose. Chúng tôi muốn giúp ông và cháu rời khỏi chiếc xe bus 22. Từ đó tới nay, chúng tôi đã gọi cho những người quen biết và tìm được một nơi có thể giúp ông và cháu. Thứ Hai, mời ông tới văn phòng…
*
Bây giờ hai cha con Lisa đã được cấp một căn phòng tại một nơi tạm trú cho các gia đình đang gặp khó khăn. Trong thời gian ở đây, Ba nó được đi học những lớp dạy nghề, và người ta hứa sẽ giúp Ba đi kiếm việc.
Mỗi khi nghĩ lại, Lisa thấy có nhiều việc liên hệ với nhau một cách diệu kỳ. Không biết có phải Mẹ đã đưa đẩy cho nó quen được những người tốt bụng để họ giúp đỡ cha con nó hay không.
Bây giờ ước mơ của nó là khi lớn lên sẽ làm giám đốc chương trình giúp đỡ nhà cửa cho người nghèo, giống như người ân nhân của nó. Khi đó, nó cũng có thể làm điều kỳ diệu cho những đứa bé không nhà khác, những đứa bé mà nó biết là có rất nhiều ở khắp nơi. Nó tin là nó sẽ làm được, chỉ cần ráng học thật giỏi và quyết tâm.
Và Lisa còn học được một điều mới nữa trong thời gian nương náu trên Khách Sạn 22.
Rằng, có những người thật sự có chiếc đũa thần, nhưng khi mới gặp mình không thấy được.
Bởi vì, chiếc đũa đó, họ cất ở trong tim.
Khôi An
Bùi Bảo Trúc | Giữa ma-trận của ngôn ngữ & cuộc đời—Bùi Vĩnh Phúc
1.
Lại một người bạn nữa của tôi ra đi. Bùi Bảo Trúc. Sự lên đường của anh làm tôi, cũng như rất nhiều người khác, buồn, tiếc. Riêng tôi, lại còn có một điều gì đó như nghèn nghẹn. Một nghèn nghẹn trong nỗi hồi tưởng. Và tôi bắt đầu cuộc nhớ miên man của mình về anh. Một nỗi nhớ có mình ở trong.
Khi từ bỏ bạn bè mình, anh chỉ mới 72 tuổi. Nói chung, với cái sống của người đời, ra đi vào độ tuổi này là đúng nhẽ. Người xưa còn bảo là “thất thập cổ lai hy”, 70 tuổi xưa nay hiếm thấy. Thế nhưng, với con người của Bùi Bảo Trúc (BBT), một người hết lòng thiết tha với việc viết lách, việc “làm báo”, một người năng động, thích chia sẻ đủ mọi thứ chuyện với bằng hữu cũng như với người đọc, người nghe, cùng với bao nhiêu việc mà anh đang dự định hoàn tất nhưng vẫn còn đang dang dở, sự ra đi của anh, trong cảm nhận riêng tôi, vẫn là khá sớm.
Từ những năm hai mươi mấy tuổi, khi còn là sinh viên, BBT đã bắt đầu chính thức bước vào nghiệp chữ nghĩa. Trước hết là trong những bài viết trên mục “Lá Thư Tân Tây Lan” (nơi tác giả du học) trên nhật báo Tự Do ở Sài Gòn, sau đó là trong vai trò phát ngôn nhân chính phủ của Việt Nam Cộng Hòa vào giai đoạn cuối cuộc chiến, rồi đến những ngày làm việc tại đài VOA (Tiếng Nói Hoa Kỳ), cùng lúc bắt đầu viết tạp ghi trên tờ Văn Nghệ Tiền Phong ngay từ những năm đầu thập niên ’80. Trong tất cả những vùng đất, những không gian đòi hỏi phải sử dụng chữ nghĩa ấy, BBT đã cho thấy anh là một người của ngôn ngữ. Anh gắn bó với chữ nghĩa. Và cũng thích đùa cợt với nó. Một cách sâu sắc. Nhiều khi đi kèm với một thái độ châm biếm. Nhưng hầu như lúc nào anh cũng giữ được sự duyên dáng trong cung cách tiếp cận với ngôn ngữ của mình.
Bùi Bảo Trúc là một người “phức tạp”. Có nghĩa, khi nói về con người anh, người ta có thể đứng từ nhiều góc độ, để xét về những khía cạnh khác nhau. Có nhiều mặt rất tích cực; nhưng ở một vài phương diện (như đời sống của hầu như bất cứ ai trong chúng ta), người ta cũng có thể phê phán, thậm chí chê trách anh. Đó là số phận của những con người có cá tính mạnh. Sống thẳng. Nhất là những con người đó, ở một số khía cạnh, lại là những người thuộc về quần chúng, những người tự phơi bày cuộc đời mình dưới những ngọn đèn hàng trăm nến của dư luận. Có lẽ, hơn nhiều người trong chúng ta, anh đã sống hết sức mãnh liệt, thậm chí có những lúc rất cực đoan, và anh sẵn sàng bày tỏ ý kiến riêng của mình trước công luận trên nhiều mặt. Có rất nhiều điều, thuộc phạm vi “nhậy cảm”, anh đã lên tiếng trên những trang báo của mình. Như những vấn đề chính trị, phái tính. Những cái yêu, cái ghét, cái giận, cái bực, cái thương, cái chủ quan của con người trong cuộc sống. Vân vân. Loạt bài “Thư Gửi Bạn Ta” của Bùi Bảo Trúc, được viết liên tục mỗi ngày từ năm 1989 cho đến tháng Chín 2016, tức là gần 30 năm, lúc đầu trên các báo Người Việt ở Westminster và Việt Nam Nhật Báo ở San Jose, và sau này trên nhiều tờ báo khác (và sau đó lại được phổ biến rộng khắp trên nhiều diễn đàn mạng), trước khi tác giả của nó ra đi khoảng hai tuần trước lễ Giáng Sinh 2016, đã cho anh rất nhiều cơ hội để nói lên bao suy nghĩ của mình về đủ mọi mặt của cuộc sống. Tất cả những hỉ nộ ái ố ai lạc dục của người đời, kể cả của anh nữa, đều được anh bày biện trong đó. Một cách rất duyên dáng, tài hoa, gần như lúc nào cũng với ít nhiều châm biếm. Và sâu sắc.
Bây giờ Bùi Bảo Trúc đã nằm xuống. Rất nhiều điều anh đã làm, đặc biệt những điều anh đã viết ra, đều có thể được nhìn ngắm và đánh giá ở những góc cạnh khác nhau, tùy theo vị trí nhìn ngắm cũng như chủ kiến của những người có thể đưa ra những lời phẩm bình, phê phán, khen tặng và đánh giá. Sau khi anh không còn nữa, tôi đã được đọc một số bài báo/tùy bút viết về anh. Có thể nói tất cả đều cho rằng anh là một nhà báo chuyên nghiệp, tài hoa và sâu sắc. Và tận tụy với nghề. Tôi cho rằng tác giả những bài viết ấy có những lý do khách quan, chính đáng và có cơ sở để lên tiếng như thế. Ở đây, trong vị trí của một người có khá nhiều kỷ niệm riêng tư với anh, cũng như đã chia sẻ với anh một số sở thích, tôi muốn viết về Bùi Bảo Trúc chủ yếu như một người bạn. Một người bạn yêu văn chương, chữ nghĩa. Và đã để hết cả cuộc đời mình để học hỏi, dùi mài cái sở thích cũng như cái niềm vui có nhiều nét cao nhã này.
Tôi sẽ thử viết về Bùi Bảo Trúc, một kẻ lăn lộn giữa ma-trận (matrix) của ngôn ngữ và cuộc đời. Và, một cách nào đó, ở một khía cạnh nào đó, viết về một người bạn, như thế, cũng có nghĩa là viết về chính mình.
2.
Bùi Bảo Trúc, Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Quốc Bảo, và Ngọc Hoài Phương (hình Interrnet)
Bùi Bảo Trúc hơn tôi 9 tuổi. Và anh đã “vào đời” trước tôi trên một số phương diện. Tôi không quen biết anh những ngày chúng tôi còn ở Việt Nam trước năm 1975. Nhưng, ở một khía cạnh nào đó, tôi lại được biết và “quen” với ông cụ thân sinh anh, nhà giáo Bùi Văn Bảo, một người được tiếng rất tốt là yêu mến chữ nghĩa Việt và luôn khuyến khích, khuyên nhủ các bậc phụ huynh Việt sau cuộc “xảy đàn tan nghé”, trôi dạt khắp nơi trên quả địa cầu, chăm lo cái gốc tiếng Việt cho con cái mình. Một câu nói nổi tiếng, nếu tôi nhớ không lầm là của cụ, trong những đợt cụ hô hào phụ huynh Việt Nam quan tâm và giúp cho con em mình, hiện trong cảnh sống xa quê hương, đặc biệt sống ở các xứ nói tiếng Anh, học hỏi ngôn ngữ và văn hóa Việt. Đó là câu khuyên nhủ mà nhiều người trong chúng ta còn nhớ: “Chỉ sợ đàn con quên tiếng Việt / Đừng lo lũ trẻ dốt Anh văn”. Đúng là như vậy, trẻ con Việt Nam ở ngoài nước, học tiếng Anh hay những thứ tiếng bản xứ nơi các em, các cháu cư ngụ rất nhanh. Nhưng nếu bố mẹ, ông bà không quan tâm, thiết tha đến tiếng Việt và văn hóa Việt, để dạy dỗ (hoặc nhờ dạy dỗ qua các trung tâm Việt ngữ trên khắp các nước trên thế giới có người Việt định cư), và khuôn nắn các em, các cháu trong tinh thần văn hóa Việt, chắc chắn việc lũ trẻ đánh mất nguồn cội dân tộc là điều ta có thể nhìn thấy trước mắt.
Tôi quen cụ Bùi Văn Bảo, là thân sinh của bạn tôi, trước khi quen biết anh, từ những ngày còn ở Việt Nam như thế này. Khi tôi lớn lên, có một số tờ báo dành cho thiếu nhi và thiếu niên ở Việt Nam mà tôi được tiếp cận và, qua đó, được học hỏi nhiều điều bổ ích; ngoài ra, cũng qua những tờ báo này, tôi nhìn thấy lòng yêu thích chữ nghĩa, văn hóa Việt Nam phát triển nơi tâm hồn mình. Đúng hơn, những tờ báo ấy đã gieo những cái mầm tươi tốt trong lòng tôi, một đứa trẻ có lẽ cũng đã có sẵn cái mảnh đất tinh thần nhỏ bé khá mầu mỡ mà bố mẹ và gia đình đã cày xới trong lòng nó từ những ngày còn nhỏ. Hai trong những tờ báo loại đó còn tạo được những ấn tượng đẹp đẽ trong lòng tôi là tờ “Phụ trương Ngôn Luận / Văn Nghệ Học Sinh-Gia Đình” của nhà văn Phạm Cao Củng và tờ “Tuổi Xanh” của nhà giáo Bảo Vân. Bảo Vân đây chính là cụ Bùi Văn Bảo.
Ngày ấy, dạo học những năm Đệ Lục, Đệ Ngũ, tức là khoảng năm 13 hay 14 tuổi, tôi bắt đầu tập làm thơ. Và tôi ngồi mơ mộng làm những bài thơ học trò gửi cho “anh” Bảo Vân. Cụ Bảo Vân rất sõi tâm lý. Trên những trang báo của mình, Cụ xưng “anh” với các em độc giả thiếu nhi/thiếu niên rất thoải mái. Tôi chẳng biết “ất giáp” gì về cái mẹo tâm lý ấy nên cứ ngồi viết thư cho “anh” Bảo Vân, mà tôi nghĩ là chắc chỉ hơn mình chục tuổi là nhiều, như là viết… thư tình. Và gửi các bài thơ mình làm cho tờ báo. Thơ tôi (dĩ nhiên là được ký với “bút hiệu” cho đúng… phong cách) đã được “anh” Bảo Vân đăng khá nhiều trong suốt thời gian đó. Tôi nhớ có lần, vào một buổi chiều Chủ Nhật, trên căn gác nhà mình, làm được mấy bài thơ đắc ý, tôi ngồi nắn nót chép lại. Rồi, tôi lấy một tờ giấy trắng ra viết thư cho “anh” Bảo Vân để gửi những bài thơ tâm đắc ấy. Tôi say sưa để lòng mình… phơi trên trang giấy mà không hề biết là ông cụ của tôi đã đứng sau lưng mình tự lúc nào. Chắc ông cụ, khi lên gác, thấy thằng bé con ngồi cặm cụi say sưa viết lách nên tò mò đứng im sau lưng quan sát. Xem hắn viết cái gì. Một lúc sau, có lẽ đã quan sát đủ và biết được đứa con mình đang viết “tình thư” cho ai, ông cụ khẽ đằng hắng một cái. Tôi giật mình quay lại và xấu hổ lấy tay che đi lá thư. Ông cười một cách hóm hỉnh và đáng yêu rồi bảo, “Con viết cho xong lá thư đi, rồi ngủ một giấc ngắn. Chốc nữa còn xuống ăn cơm!” Tôi choáng cả người, nhưng cũng thầm cám ơn bố vì ông đã không bảo tôi đưa lá thư cho ông xem. Dù sao, tôi nghĩ ông cũng đã đọc hết lá thư mà tôi đã viết gần xong cho “anh” chủ bút Bảo Vân.
Sau này, khi đã ở bên Mỹ, có dịp liên lạc lại với cụ Bùi Văn Bảo, cụ cám ơn tôi, “một người đã ‘hợp tác’ với tờ báo”, còn nhớ đến cụ. Và cụ quý mến gọi tôi là “một người đồng tông”. Vì mối “quan hệ” này mà, về sau, đôi khi để trêu cợt người bạn lớn tuổi của mình, tôi bảo với anh là tôi có quen biết lớn với ông cụ của anh, anh liệu mà cẩn thận… Những lúc ấy, có chuyện gì Bùi Bảo Trúc cũng chẳng dám “nho nhoe”. Anh rất yêu quý ông cụ của mình. Và, dĩ nhiên, cả bà cụ của mình nữa.
Nhưng dù cho có liên hệ với cụ Bùi Văn Bảo như thế, tôi và BBT cũng chẳng hề biết gì về nhau. Cho đến khi tôi chung tay làm nguyệt san Văn Học Nghệ Thuật (bộ mới), rồi nguyệt san Văn Học, với anh Nguyễn Mộng Giác và một vài văn hữu khác từ tháng Năm, 1985.
Bùi Bảo Trúc lúc ấy đang làm tại đài VOA, sau khi anh đã thành công trong việc xin chuyển nơi cư trú từ Canada sang Hoa Kỳ. Anh Trúc, dù lúc ấy đang viết loạt tạp ghi, nếu tôi nhớ không lầm, đặt tên là “Nói Với Đầu Gối”, và ký tên là Ngụy Trúc, trên báo Văn Nghệ Tiền Phong trên Washington, D.C., có lẽ cũng cảm thấy dòng máu văn chương đang chảy thêm một nhịp chảy khác, đằm thắm hơn, thơ mộng hơn, trong trái tim mình, nên đã làm một số bài thơ và, đặc biệt, dịch một số đoạn thơ trong tập “The Lover’s Gift” (“Tặng Vật của Tình Nhân”) của R. Tagore. Có lẽ anh muốn tìm một nơi xứng đáng và trang trọng để gửi gấm các sáng tác của mình. Nguyệt san Văn Học, lúc ấy, có lẽ là một trong những diễn đàn mà anh có lòng yêu và đánh giá cao. Anh không quen với nhà văn Nguyễn Mộng Giác. Và chắc cũng không quen với một ai khác trong nhóm chủ biên. Lúc ấy, tôi là một người đang âm thầm giúp cho anh Giác trong việc lựa lọc bài vở cho tờ báo. Tôi cũng đã viết nhiều tiểu luận văn học trên trang báo này cũng như ở một số diễn đàn khác. Dù sao, Văn Học Nghệ Thuật (bộ mới), rồi sau đó là Văn Học, đã là “trú sở” chính của tôi. Là người, cùng với một vài văn hữu khác, gầy dựng tờ báo từ trong trứng nước, và cùng sắp xếp bài vở để tờ Văn Học Nghệ Thuật bộ mới, rồi sau đó là Văn Học, sau khi chuyển tiếp từ tờ Văn Học Nghệ Thuật bộ cũ (còn dính dáng nhiều đến tên tuổi của nhà văn Võ Phiến), tôi có cái duyên gắn bó lâu bền với những tờ báo này. Chúng tôi đã cùng nỗ lực phân công trong việc sắp xếp và đóng góp bài vở ngay trong số đầu tiên của cả hai tờ báo. Rồi trong suốt trên 230 số báo cho đến tháng Tư, 2008. Sống trong cùng một địa bàn với Nguyễn Mộng Giác, và, trong giai đoạn đó, có điều kiện phụ giúp trong việc chọn lựa bài vở, trao đổi ý kiến về nội dung của các bài được chọn để đưa lên trang báo hàng tháng với Nguyễn Mộng Giác, tôi trở nên một trong những khuôn mặt khá quen thuộc của diễn đàn này.
Tôi không nhớ rõ là từ ai mà Bùi Bảo Trúc có địa chỉ của tôi. Anh viết cho tôi một lá thư, tự giới thiệu, và cho biết đã đọc nhiều bài tiểu luận văn học mà tôi đã viết. Anh muốn được quen biết tôi trong tình văn chương, và gửi cho tôi một ít bài thơ của anh. Tôi chọn một vài bài mình thích và đưa cho anh Giác. Từ đó, BBT là một thân hữu cộng tác với Văn Học. Ngoài thơ ra, có lần, như đã nhắc ở trên, anh gửi cho tôi vài chục đoạn thơ từ tập “The Lover’s Gift” (mà anh dịch thành “Tặng Vật của Tình Nhân”) của R. Tagore trong một tập tài liệu đánh máy và đóng lại thật cẩn thận. Dạo ấy, cuộc sống của chúng ta nói chung, của người Việt và các nhà văn Việt nói riêng, chưa có computer, chưa có desktop hay laptop gì cả, chưa nói đến các thiết bị tiện nghi khác như bây giờ. Anh Trúc đánh máy và sắp xếp tập sách một bên là tiếng Anh, một bên là tiếng Việt, rất công phu. Tôi đọc và thấy ngoài một ít bài thơ tình mang nhiều nét thi ca rõ rệt, những bài thơ khác của anh được viết một cách có vẻ chân chất, giản dị nhưng, nếu đọc kỹ, đầy nét thơ mộng và văn chương. Tôi cho rằng phải là một người có bản lĩnh, có tay nghề chữ nghĩa cao thì mới viết được những câu thơ vừa giản dị mà lại vừa nhiều chất thơ như vậy.
Tôi nhớ bài thơ “Gửi Căn Nhà Cũ” của anh (cùng với nhiều bài thơ của những nhà thơ khác mà tôi yêu mến và thấy thích hợp) mà tôi đã đưa vào trong giáo trình giảng dạy tại các lớp học về Ngôn Ngữ & Văn Hóa Việt Nam tại đại học của mình. Bài thơ đó, ngôn ngữ giản dị nhưng nói lên và mang lại được nét hoài cảm thiết tha cho những người xa quê. Một nỗi nostalgy mang nhiều chất thơ:
Hãy tưởng tượng khi bước vào cuối ngõ
Căn nhà xưa rêu phong kín tường vôi
Khung cửa sắt sơn đã bong lỗ chỗ
Chìa khóa mòn trong ổ bỗng reo vui
(…)
Hãy tưởng tượng trong khu vườn thuở trước
Cây ngọc lan ngày đó đã ra hoa
Mấy bụi trúc và một hàng thược dược
Mùi đất thơm cơn mưa nhỏ đầu mùa
Hãy tưởng tượng khi bước chân lên gác
Bàn ghế còn nguyên, sách vở còn bầy
Bỗng nghe thoáng tiếng mưa khuya dìu dặt
Những giọt buồn rơi mãi xuống đêm nay
Hãy tưởng tượng đêm sẽ nằm nghe gió
Trên chiếc giường thân thiết mấy năm xưa
Mấy con muỗi nhận ra người bạn cũ
Chú thạch sùng trong vách cũng bò ra
Hãy tưởng tượng trở về nơi hẹn cũ
Thăm hàng sao và bể nước đầy mây
Trên ghế đá vọng âm lời tình tự
Nét chữ mờ quấn quýt vẫn còn đây (…)
Cũng với tâm tình thiết tha, và chữ nghĩa giản dị một cách thần tình, như thế là bài “Trở Về Căn Nhà Cũ Ở Sài Gòn”:
Hỡi căn nhà của ta thời tuổi trẻ
Của những chiều mưa buồn gõ xuống mái tôn
Những buổi sáng nắng lùa qua khe cửa
Vẫn theo ta những đêm tuyết mịt mùng
Hãy ngỏ cửa, đêm nay ta trở lại
Cánh cửa ơi có còn nhớ nhau không?
Chiếc chìa khóa năm xưa ta làm gẫy
Mấy chục năm trời trên cổ vẫn tòn ten (…)
Còn tập thơ dịch những bài thơ xuôi của Tagore thì đẹp và thật thơ mộng, chưa kể sự chính xác trong cách dịch chúng. Tôi đề nghị anh Giác đăng vài đoạn thơ dịch Tagore của BBT. Nhiều độc giả cũng yêu mến thơ anh và tài năng dịch của anh. Tình thân của chúng tôi mỗi ngày mỗi khăng khít hơn.
Sau này, vào những năm trước khi BBT xuống định cư hẳn ở Nam California và làm việc cho một số cơ sở truyền thông tại đây, mỗi khi có dịp lên vùng Washington, D.C. vì chuyện này hay chuyện nọ, tôi gần như đều “ở trọ” tại nhà anh. Lúc đầu tại Falls Church; sau, tôi nhớ là ở một vùng khác cũng gần đó. Anh lo cho tôi thật chu đáo, đón từ phi trường, đưa về nhà, lại đưa đi thăm đủ mọi nơi mọi chỗ của các thân hữu. Qua anh, tôi cũng có thêm được một vài người bạn trên vùng thủ đô này. Tôi nhớ những buổi tối ở nhà anh, ngoài việc hí hửng khoe với tôi những chiếc máy bay mà anh đã công phu tự lắp ráp lấy, và nói rằng đó là hobby của mình (lúc ấy, khuôn mặt của “chàng” ánh lên nét thơ trẻ, hồn nhiên, đầy hạnh phúc), anh còn khoe và có những khi tặng tôi một số sách vở, tài liệu quý. Tôi nhớ lần đó anh tặng tôi một cuốn sách nhỏ bằng tiếng Anh, không biết anh đã mua được ở đâu, tập hợp những bài thơ tiếng Anh, Pháp, Đức, v.v., của một số học giả và “tài tử gia” thế giới giới thiệu, dịch và bình bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu. Những bản dịch thơ rất hay, nhưng cũng có những bài rất “choáng”, rất diễu và … “tưng tửng”; trong đó, có một bài dám biến cánh “hoàng hạc” của Thôi Hiệu thành một “tên lửa” (fire rocket) chở ông già thơ bay vào tận không gian mù mịt. Bùi Bảo Trúc rất thú cái phong cách dịch của kẻ tài tử kia. Dù sao, anh cũng nói với tôi, “Cái thằng hỗn thật. Dám mang “ông cụ” [Thôi Hiệu] ra diễu!”
Dịp này, tôi cũng nhân tiện góp ý về những bài viết của anh trong loạt bài “Nói Với Đầu Gối” (tiền thân của loạt “Thư Gửi Bạn Ta”) anh đi trên Văn Nghệ Tiền Phong. Tôi cho rằng các bài anh viết rất thú vị, hoạt và rất hóm hỉnh, sinh động. Nói được nhiều vấn đề trong cuộc sống. Dù sao, tôi nghĩ nếu anh bỏ bớt đi phần bực giận (cho dù bực giận trong châm biếm), đôi khi đi đến chỗ hơi thô, mịch, thì các bài viết của anh sẽ đạt được nhiều hiệu quả hơn nữa. Tôi thấy, anh có tone down về mặt đó sau này. Nhất là trong loạt “Thư Gửi Bạn Ta”. Dẫu sao, tính cách con người, đổ xô lên mặt chữ, lên phong cách văn học, của một nhà văn, nhà báo, cũng là nét đặc thù của mỗi người cầm bút. Nó làm cho họ ghi được cái dấu ấn của mình. Cách này hay cách khác. Với những hiệu ứng tích cực hay tiêu cực riêng.
Tôi nhớ chúng tôi đã ngồi nói chuyện suốt mấy đêm về gần như tất cả mọi thứ trên đời. Phim ảnh, âm nhạc, tranh, thơ Việt, thơ Tàu, thơ Pháp, thơ Nga, thơ Ái-nhĩ-Lan, thơ Mỹ… Thơ dịch. Văn dịch. Phong cách dịch. Pipi. Caca. Những cây cối cùng đám lá ướt lóng lánh, những con ngõ cũ kỹ, những đêm mưa nhòa nhạt, những vũng lầy trong đường phố Sài Gòn xưa. Những hồn ma cũ. Ôi, cái “nostalgie de la boue” (“nỗi nhớ bùn nhơ”) của những hình ảnh quê nhà. Có thể nói, tất cả mọi chuyện, cuối cùng, giữa chúng tôi, lại chỉ quy về chuyện văn chương. Hay, nói đúng ra, nói về bất cứ chuyện gì, chúng tôi cũng đều tìm ra được “một sợi chỉ đỏ xuyên suốt” của văn chương chạy lần qua đó. Cái “sợi chỉ đỏ xuyên suốt”, ở đây, là một thành ngữ của văn chương thế giới (như trong danh ngữ “the red thread of narrative”) để chỉ cái cốt lõi chạy suốt một tác phẩm hay một câu chuyện kể, không có dính dáng gì đến chủ nghĩa Cộng Sản cả. Tôi yêu và gần Bùi Bảo Trúc ở điểm này. Nói chuyện gì rồi thì, giữa chúng tôi, cũng chỉ là những câu chuyện văn chương!
Bùi Bảo Trúc thích nghịch và chòng ghẹo bạn bè. Anh hay làm thơ chòng ghẹo mọi người. Ngoài ra, những bài thơ theo “trường phái” Bút Tre ở hải ngoại, theo tôi biết, là đã phát xuất từ anh. Rất sớm. Trên 30 năm trước. Trước khi trên mạng và trong nước có những rộn ràng và cập nhật về “trường phái” thơ này. Những chuyện vừa nói làm tôi nhớ đến một người bạn văn chương khác của tôi, cũng tài hoa …đa dạng như BBT, và có lẽ cũng trạc tuổi anh, cũng hay thích trêu chọc bạn bè như thế. Đó là Nguyễn Bá Trạc. Tác giả của Ngọn Cỏ Bồng và Chuyện Của Một Người Di Cư Nhức Đầu Vừa Phải. Nguyễn Bá Trạc, dù sao, cũng còn khỏe, đang chịu giá rét một cách hạnh phúc (bên người yêu dấu) ở mãi tận đất Phần Lan, ngay cạnh con gấu Putin Nga Xô. Cái tính nghịch ngợm, tinh quái, nhưng lại đầy nét tài hoa ấy của BBT đã được anh đưa vào loạt tạp bút Thư Gửi Bạn Ta mà trong suốt khoảng gần 30 năm anh đã đeo đuổi hay bị nó đeo đuổi (Có lẽ anh có hơn cả ngàn bài, hay gần hai ngàn bài trong loạt này? Vì chỉ trong ba quyển “Thư Gửi Bạn Ta” do nhà xuất bản Văn Nghệ in trong ba năm 1995, 1996 và 1997, mỗi quyển đã có khoảng trên dưới 100 bài, tập hợp các bài trong khoảng sáu tháng mỗi cuốn).
Cái thu hút độc giả khi đọc loạt bài này của BBT là do nơi anh đọc nhiều, nhớ kỹ, trình bày vấn đề lôi cuốn, hấp dẫn, lại rất duyên dáng, nói chung. Nhất là anh có trí liên tưởng nhạy bén, dễ “bàn ngang tạt dọc” đủ mọi vấn đề trong đời. Nhảy múa rất khéo. “Lăng ba vi bộ” rất hay. Kết bài thường như xạ thủ bắn trúng hồng tâm. Cái tính cách ấy, của một ký mục gia, một người dọc ngang, từng trải “sự đời”, một kẻ tài tử, thậm chí cũng được anh đưa vào trong lời “góp vui” đám cưới của anh. Đăng trên báo chí cẩn thận. Trong sự vụ này, anh còn lôi kéo thêm bạn bè cùng đứng chung với mình để “đùa yêu” cho vui! “Chàng” là như thế:
“Kẻ tài tử” Bùi Bảo Trúc và phong cách nghịch ngợm trong chúc mừng đám cưới (báo Người Việt)
Cái ngày đám cưới của tôi, chàng từ Washington, D.C. bay xuống, cùng một vài văn hữu khác. Không những có mặt, BBT còn là một trong mấy người MCs, mỗi người một phong cách, làm cho dịp vui ấy “ồn ào” và sinh động hơn. Tôi đã có được bao bạn bè và thân hữu văn học bên cạnh trong cái ngày “bị phát vãng” ấy (a transport: người bị đầy, bị phát vãng (nghĩa lịch sử, pháp lý) / a transport of delight: niềm hạnh phúc, vui thích). Nhiều bạn hữu vẫn còn nhớ chàng trong dịp ấy. Bao nhiêu khuôn mặt thân tình mà giờ đây nhiều người trong đó đã trở thành những “người muôn năm cũ”. Mai Thảo, Phạm Duy, Võ Phiến, Cao Xuân Huy, Nguyễn Mộng Giác… Và, bây giờ, cả “chàng” nữa.
Nghịch thì như thế, nhưng khi để lòng nhớ về một cơn mộng cũ, về một sợi tóc còn bay trong bóng chiều của quá khứ, lòng của kẻ tài tử kia cũng trở nên thiết tha, đằm thắm:
Những ngày Chủ nhật em đi đâu?
Ngày treo trên một chiếc ly sầu
Hàng cây lá mục nghiêng mình ngóng
Mây cũng chờ em, em ở đâu?
Hôm nay Chủ nhật, em đi đâu?
Chiều loang một chút nắng không mầu
Gió ơi, giữ hộ mùi hương cũ
Thuở những cầu vai chưa xa nhau (…)
(K. khúc 1)
Và, chưa chi ta đã thấy nhau trong ngàn dặm quan san. Tình yêu, tự nó, là sự nhớ nhung. Người ta nhớ nhau ngay cả khi còn đang tay trong tay, đang lúc còn đang bên nhau hạnh phúc. Có lẽ chính vì thế nên Thanh Tâm Tuyền đã viết trong một bài thơ nổi tiếng của mình: “Anh(…) ôm em trong tay / Mà đã nhớ em ngày sắp tới”. Tình yêu là thế. Luôn là nơi chốn để trông mong, hướng về. Trái tim của Bùi Bảo Trúc cũng rung theo nhịp dao động ấy:
Lỡ mai tóc có thay mầu
Nét son có nhạt, môi sầu có phai
Lỡ mai có lạnh trên vai
Lòng vùi dưới tuyết, hồn ngoài trường giang
Lỡ mai bóng đã ngút ngàn
Dấu chim xưa cũng sẽ tan cuối đường
Lỡ mai người có quan san
Nhớ xanh bia đá, chờ vàng lũng sâu
Lỡ mai sông sẽ qua cầu
Có trong đáy nước, cơn đau một đời
(K. khúc 3, tháng 12.1987)
Sau này, vào năm 2000, khi cố gắng ra được tập “Tặng Vật của Tình Nhân”, dịch “The Lover’s Gift” của Rabindranath Tagore, trái tim chàng, dù qua thơ của người thi sĩ đáng yêu xứ Bengal, vẫn đập một nhịp thi thiết cũ:
Trái cây trong vườn mọc chi chít, chen chúc nhau trên cành, vươn mình ra phía ánh sáng trong nỗi đớn đau tràn đầy.
Hãy bước những bước chân kiêu kỳ vào vườn cây, nữ hoàng của ta ơi, hãy ngồi xuống dưới bóng mát, hãy hái những trái chín trên cành, và hãy để chúng dâng lên đôi môi của người vị ngọt tuyệt vời.
Trong vườn của ta, những con bướm tung đôi cánh trong ánh nắng, những chiếc lá rung mình, và hoa trái rộn ràng chờ đón giây phút hoàn thành.
(Đoạn thơ số III)
(The fruits come in crowds into my orchard, they jostle each other. They surge up in the light in an anguish of fullness.
Proudly step into my orchard, my queen, sit there in the shade, pluck the ripe fruits from their stems, and let them yield, to the utmost, their burden of sweetness at your lips.
In my orchard the butterflies shake their wings in the sun, the leaves tremble, the fruits clamour to come to completion.)
Và, trong một đoản khúc khác, giọng thơ vẫn thiết tha như thế:
Chỉ còn sót lại một chút này, còn bao nhiêu tôi đã phung phí hết trong một mùa hè đầy phóng đãng. Chỉ còn đủ để phổ vào khúc ca hát cho em nghe, để đan vào vòng hoa dịu dàng ôm lấy cổ tay em, để đeo trên tai em như một viên hồng ngọc, như một lời thầm thì bẽn lẽn, để liều lĩnh trong canh bạc chiều đã cầm chắc phần thua.
Thuyền của tôi quá mong manh, e không vượt nổi những con sóng dữ của trận mưa. Nhưng nếu em nhẹ nhàng bước xuống, tôi sẽ chèo đưa em men theo những nơi trú ẩn bên bờ, ở đó, làn nước đầy bóng tối gợn lên những con sóng nhỏ như giấc ngủ đầy mộng mị, và tiếng gù của những con chim câu đậu trên những cành lá rủ la đà cũng làm cho bóng trưa hóa thành ảo não. Lúc cuối ngày, tôi sẽ hái một bông hoa súng đẫm nước, cài lên tóc em rồi mới ra đi.
(Đoạn thơ số XII)
(It is little that remains now, the rest was spent in one careless summer. It is just enough to put in a song and sing to you; to weave in a flower-chain gently clasping your wrist; to hang in your ear like a round pink pearl, like a blushing whisper; to risk in a game one evening and utterly lose.
My boat is a frail small thing, not fit for crossing wild waves in the rain. If you but lightly step on it I shall gently row you by the shelters of the shore, where the dark water in ripples is like a dream-ruffled sleep; where the dove’s cooing from the drooping branches makes the noon-day shadows plaintive. At the day’s end, when you are tired, I shall pluck a dripping lily to put in your hair and take my leave.)
Sách, hoa và tranh (hình tư liệu riêng)
Bùi Bảo Trúc dịch Tagore rất thơ mộng. Anh như đưa ta vào lòng những con ngõ nhỏ, những bến nước, những vườn cây xứ Bengal. Và mùi thơm của hoa lá, tiếng những con chim câu gù nhau. Hai người yêu đứng bên nhau dưới tàng cây rậm mát, xanh sẫm màu lá cây. Tiếng nước chảy của những lòng sông, khe suối… Tôi đã có dịp viết ít lời giới thiệu cho anh trong tập sách này:
“Những lời thơ, tâm tình và hình ảnh của Tagore mang đầy tính nhân loại. Không gian thơ của ông bao la bát ngát, trong đó có những đàn chim bay ra từ tổ trời làm ngất ngây những đôi cánh đập của tình yêu, làm tươi mát thêm những buổi bình minh còn vương đầy những giọt sương mai của xuân thắm. Tình yêu trong thơ ông là tình yêu đầy tha thiết, thủy chung, với những lời nói đắm đuối dịu dàng, với những cặp mắt luôn âm thầm hướng vọng, và với những trái tim lặng lẽ đợi chờ, phập phồng một cung điệu yêu thương. Nó giống như hình ảnh của những đêm tối có sao canh chừng; của một con thuyền kiên nhẫn nằm chờ trong tối, nơi một bến rêu, tiếng bước chân của người mang bình minh đến. Thời gian của Tagore là thời gian vĩnh hằng. Và, cũng thế, thơ của ông là những tiếng nói mang những âm điệu vĩnh hằng. Chúng vỗ mãi trong trái tim ta những nhịp đập yêu thương tha thiết cho đời, cho người, và cho những ước vọng còn tồn tại mãi với thời gian.
Bản dịch của Bùi Bảo Trúc có được những đoản khúc mà những bản dịch trước đây không có. Đây là một bản dịch tài hoa, cho người đọc đến gần được với không gian thơ của Tagore. Ở đó, có những khung cảnh mộc mạc đằm thắm của quê hương Tagore và có những bóng dáng đi về của những người nam, người nữ cùng với những lời nói yêu đương thầm thì dịu dàng tha thiết của họ. Với bản dịch Việt ngữ này, Bùi Bảo Trúc cho thấy, hình như, đó cũng có lẽ chính là bóng dáng những kỷ niệm hay bóng dáng của những giấc mơ cũ càng mà mỗi một chúng ta vẫn hằng ôm ấp…”
3.
Bùi Bảo Trúc yêu thích ngôn ngữ. Biết tôi cũng yêu mê tự điển và từ điển, cũng như những cuốn sách bàn về ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ, anh hay chia sẻ với tôi những ý kiến của William Lewis Safire, một học giả Mỹ, cũng một nhà bỉnh bút, một ký mục gia sâu sắc về ngôn ngữ và chính trị của tờ New York Times, và là tác giả của cuốn sách nổi tiếng “On Language” (“Về Ngôn Ngữ”). Safire cũng là một nhà báo và người viết diễn văn cho các tổng thống. Vốn thông minh, có khiếu và yêu thích ngôn ngữ, lại thích đọc và tự tìm hiểu thêm về ngôn ngữ qua các tác giả nổi tiếng của Mỹ về phương diện này như William L. Safire và Richard Lederer, nên, tuy không được đào tạo trường ốc trong lĩnh vực này, Bùi Bảo Trúc đã cho chúng ta thấy anh là một người có cái nhìn sắc sảo và tài sử dụng ngôn ngữ đến độ “phù thủy”, ít nhất là trong lĩnh vực báo chí.
Tôi nhớ có lần anh than phiền với tôi về cụm từ “ngân hàng tinh trùng”, dịch từ cụm “sperm bank” trong tiếng Mỹ, của làng báo chí Việt. Tôi thấy anh rõ ràng có lý. Từ “bank” trong cụm này không thể nào dịch thành “ngân hàng” được. “Ngân” là bạc; “ngân hàng” là, trong một nghĩa chung, nơi có những giao dịch về tiền bạc, rút tiền, gửi tiền, v.v. “Ngân hàng tinh trùng” đúng là chối tai và không đúng về mặt ngữ nghĩa. Vốn là người đã làm việc tại đài VOA, có một số đồng nghiệp người Hoa, anh cho biết là những đồng nghiệp ấy dịch cụm từ này từ tiếng Anh thành “tinh tử khố”. “Khố” ở đây, tôi hiểu, là theo nghĩa của từ “khố” như trong “ngân khố” chẳng hạn. Nó là một cái kho, là nơi lưu giữ một thứ gì đó. Trong từ “ngân khố” thì đó là nơi giữ tiền, giữ bạc, mở rộng ra là giữ cả vàng nữa. Cụm “tinh tử khố”, dù sao, vẫn không thấy được dùng trong báo chí Việt. Có lẽ vì đa phần người Việt, kể cả những người làm báo hay viết lách, đều không quen với cách dùng này. “Ngân hàng” thì được; “phần tử” thì được; “tinh trùng” thì được. Nhưng… “tinh tử khố”!!! Đặc biệt, từ “khố”, ngoài trường hợp được dùng trong “ngân khố”, nghe ra dễ đưa người ta đến những hàm nghĩa “trần tục”. Cái hàm nghĩa phát xuất từ cái nghĩa trong tiếng Nôm, tiếng thuần Việt của nó. Khổ thế! Nhưng “tinh tử khố”, theo tôi, vẫn là một cách dịch danh ngữ “sperm bank” chính xác nhất.
Nói đến “tinh tử”, có lần BBT khoe với tôi là anh đã tìm được cách dịch cụm “coitus interruptus”, một cụm từ tiếng Latin để chỉ một phương pháp thông dụng và… không tốn tiền trong chuyện ngừa thai; tóm lại là chuyện “rút lui có trật tự” trước khi hoàn tất “nhiệm vụ rất khả thi” trong chuyện chăn gối, chuyện truyền/trồng tử gieo tôn. Anh bảo là anh sẽ dịch cụm này thành “khóc ngoài quan ải”. Tôi bảo, ừ, hãy tiếc thương cho những tinh cầu rơi rụng!
Lại có lần Bùi Bảo Trúc than với tôi về cách dùng cụm“tái bầu” (có nghĩa là được bầu lại lần nữa) của nhiều người làm trong lĩnh vực truyền thông. Kể cả một số người có tiếng là chuyên nghiệp. Anh bảo “tái” là tiếng Hán Việt, còn “bầu” là tiếng thuần Việt. Đâu có thể trộn lộn tứ tung như vậy được! Tôi đồng quan điểm với anh. Dĩ nhiên có những từ Hán-Nôm đề huề đã được sử dụng từ lâu đời, và chúng trở thành quen thuộc và được sử dụng tự nhiên trong tiếng Việt. Nhưng “tái bầu” không nằm trong trường hợp đó. Nếu muốn tạo tân từ, ta phải nắm vững vấn đề từ pháp, và biết rõ về những cách thức tạo từ. Không thể “sáng tạo” bừa bãi. Đối với BBT, “tái bầu” chỉ làm anh nghĩ đến hoặc là “phở tái”, hoặc là “có bầu, có thai thêm một lần nữa”!
Trong tiếng Hoa, “bầu” là “bảo” (保). “Bảo” còn có nghĩa là “giữ”, “gánh vác”, “nhận lấy trách nhiệm”. Như “tửu bảo” (酒保) là “kẻ làm thuê cho hàng rượu”. “Bầu cử” của mình được gọi là “bảo cử” (保舉) trong tiếng Hán. Tôi không chắc, để diễn ý “được bầu lại”, người Hoa có dùng từ “tái bảo” hay không, cho dù là người ta đã có “tái bút”, “tái bản”, “tái sinh”, “tái chế”, “tái phát”, thậm chí “tái bảo hiểm”, “tái bảo lãnh”, v.v. Nhưng, trong trường hợp… “tái bầu” này, tôi nghĩ có lẽ người Việt chúng ta nên dùng một nhóm từ giản dị như “được bầu lại”, hay “được tái tín nhiệm”, “được tái đắc cử”, v.v… Dùng “tái bầu” thì nghe sợ thật!
Còn nhiều trường hợp tương tự như thế nữa. Về vấn đề dùng Hán-Nôm hoặc Nôm-Hán loạn xạ. “Út nữ” cũng nằm trong trường hợp như thế. Dù cho có là “con gái út” đi nữa, thì “út” cũng không phải là một từ Hán-Việt để đi với “nữ”. Vẫn phải gọi là “thứ nữ” thôi. Nhưng bây giờ thì “út nữ” lan tràn trên các trang cáo phó. Biết đâu theo thời gian, khoảng vài chục năm nữa chẳng hạn, nó sẽ trở nên một từ có thể được đa số chấp nhận!
Bùi Bảo Trúc cũng đã khoe với tôi về cách dịch những từ “Pepsi Cola” và “Coca Cola”, những biểu hiệu nổi tiếng của văn hóa Mỹ. Anh bảo là, theo mấy đồng nghiệp người Hoa của anh trong Ban Hoa ngữ tại đài VOA, thì hai từ này được dịch, theo thứ tự, là “Bách-Sự-Khả-Lạc” và “Khả-Khẩu-Khả-Lạc”. Có nghĩa là “Trăm sự có thể (đưa đến) hạnh phúc” và “Vừa có thể đã miệng, vừa có thể hạnh phúc” (hay, “Trăm sự đã đời” và “Vừa ngon miệng vừa đã đời”). Hay thật! Vừa dịch được âm, vừa dịch (chế) được nghĩa.
Tôi đã có cơ hội kiểm soát lại điều này, và, đúng thế, khi đưa loại nước ngọt có gas này vào nước Tàu, những người của Coca Cola đã cho dịch “Coca Cola” thành 可口可乐,“Ke kou ke le”, có nghĩa là “Tasty Fun” hay “Delicious tasty happiness”. Đúng là “khả khẩu khả lạc” rồi còn gì! Còn “Pepsi Cola” thì được dịch thành 百事可乐,“Bai Shi Ke Le” , có nghĩa là “Everything laughable”, hay “100 ways to good luck”. Đúng là “bách sự khả lạc” rồi! Dù sao, tìm hiểu tiếp, tôi thấy là Pepsi đã bị “hố” trong vụ quảng cáo để đưa Pepsi vào lục địa Trung Hoa. Họ có cả một chiến dịch quảng cáo Pepsi cho giới trẻ Trung Hoa. Và họ có những slogans như “Pepsi generation”, rồi “Come alive with Pepsi.” và “Helps ‘em come alive!”. Trong sự dịch sang tiếng Tàu những slogans này, hãng Pepsi, trong khung cảnh xuyên-văn hóa, một cách vô tình đã làm cho người Tàu hiểu sai lạc ý nghĩa của chuyện “come alive” này. Họ hiểu nó thành “Come alive out of the grave with Pepsi.”, hoặc “Pepsi will bring your ancestors back from the dead.”, hoặc “Bring dead ancestors back from heaven.” Pepsi sẽ … đem tổ tiên bạn về từ cõi chết. (!) Thật ra, Coca Cola cũng không thoát khỏi cái bẫy “dịch” để đưa hàng của mình vào lục địa Trung Hoa thuở ban đầu. Người của họ (hay chủ những quán ăn, những nhà hàng tại địa phương) đã dịch theo lối phiên âm Coca Cola ra thành “Keke Kenla”, dùng lối viết Trung Quốc, khiến nó trở nên có một cái nghĩa quái dị là “Tadpoles bite wax” (“Nòng nọc cắn sáp”) (!) Cơ khổ! Sau đó, hết sức “phấn đấu” để sửa sai, họ mới đi đến “Ke kou ke le” (“Khả khẩu khả lạc”). Và Coca Cola trở nên thành công vượt mức.
Cũng thế, khi KFC đưa món ăn của mình vào Trung Hoa, họ đã để cho cái slogan “Finger-licking good” [Ngon đến chịu không nổi, phải liếm láp, phải mút ngón tay—còn dính mỡ và thịt gà rán—cho đã, cho đỡ phí!] của họ bị dịch sang tiếng Tàu một cách sai lầm thành “Eat your fingers off!” [“Hãy ăn (tươi nuốt sống) mấy ngón tay của bạn!”]. Còn hãng Coors khi mang cái slogan “Turn It Loose” (“Mở Nó Ra”, hay “Hãy thư giãn, thoải mái”) sang Tây-ban-nha, họ quên đi vấn đề tiếng lóng. Thế là chiến dịch quảng cáo biến cái slogan này thành “Bị khốn khổ vì tiêu chảy” (“Suffer from Diarrhea”) (!). Rồi chuyện của công ty sữa American Dairy Association khi đưa cái slogan rất thành công của họ là “Got Milk?” sang Mexico. Thật khốn khổ cho họ, cái slogan này được dịch ra thành “Are You Lactating?” (“Bạn Có Đang Cho Con Bú Không?”, hay “Bạn Có Đang Vắt Sữa (để cho con bú) Không?”). Trong văn hóa Mỹ, tại nhiều công sở có “Lactation room” (hay “Lactorium”) là một phòng riêng để các phụ nữ đang trong giai đoạn cho con bú có thể vào và sử dụng thiết bị bơm sữa để tạo sữa và lưu giữ trong tủ lạnh cho con mình.
Ôi, ngôn ngữ! Chừng nào ngôn ngữ còn thì chuyện “mistranslation” và “misunderstanding” như thế này sẽ tiếp tục còn làm cho con người dở khóc dở cười như thế.
4.
Có lần, giữa đường, trong khung cảnh khá náo nhiệt của chốn Bolsa, một nơi vừa ấm áp vừa ồn ào, đầy tình thân nồng nàn của người Việt nhưng đôi khi cũng có những xáo trộn nho nhỏ trong chính cuộc sống chung ấy (như bất cứ ở đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào có một cuộc sống chung), đang sửa soạn quanh xe gần một ngã tư, bất chợt thấy hai vợ chồng tôi cũng đang quành xe gần đó, Bùi Bảo Trúc đưa xe lại gần sát chúng tôi, cười và ra hiệu. Hai bên đều hạ cửa kính xe xuống. Anh nói nhanh là nếu không bận, anh mời ghé nhà anh chơi một lúc. Anh cho biết mình vừa có được một “trú sở”, một căn nhà nhỏ ngay trên đường Bushard, giữa trung tâm quận Cam, không xa nơi nhà văn Mai Thảo sống trước kia là bao.
Thế là chúng tôi có một dịp đầm ấm, dù chỉ trong vòng trên dưới nửa tiếng đồng hồ, tại “biệt thự” của anh. Đó chỉ là một căn hộ khá nhỏ, nhưng trong một chung cư xinh xắn, yên tĩnh. Ở đây, anh có thể dễ dàng tìm đường xuống “phố thị” với những hàng quán, những cơ sở báo chí tiếng Việt, và đầy ắp những cửa hàng, những sinh hoạt của người Việt gần ngay đó. “Nhà tôi” có lúc đứng loanh quanh ở bên bếp, nghe anh nói chuyện. Anh cười bảo, “Tôi hay xuống chỗ bếp này, nhưng chỉ là để nấu mì gói thôi. Tôi không biết làm bếp!” Thật khổ cho Bùi Bảo Trúc, bạn tôi! Dù sao, anh sống một đời sống ngăn nắp, có kỷ luật. Ngoài một kệ sách nhỏ với một số sách của bạn bè, thân hữu, những quyển mà anh thích, ít quyển sách ngoại ngữ và mấy cuốn tự điển và từ điển, có một cái bàn nhỏ trên đặt một cái laptop. Bên cạnh là một hệ thống nghe nhạc vừa phải. Và, nếu tôi nhớ không nhầm, anh còn có cả một cái máy quay đĩa, loại 45 vòng, thuở xưa.
Anh vui vẻ giới thiệu nhà cửa và nói với chúng tôi về những sinh hoạt cũng như thời khóa biểu làm việc của anh trong giai đoạn ấy. Anh làm cho vài cơ quan truyền thông, viết lách, thu âm, thu hình cho những chương trình của mình. Anh bảo một tuần anh phải chạy lên một studio gần Los Angeles một, hai lần để làm việc ở trên đó. Còn phần lớn thì giờ anh “cư ngụ” và “lăn lộn” tại đây, anh đưa tay “quét” một vòng căn hộ nhỏ. Chúng tôi quý anh về sự giản dị, ngăn nắp và kỷ luật mà anh có. Và sự thân tình với bạn bè nữa. Trước khi để chúng tôi đi, anh tặng tôi hai trong ba thứ rất nguy hiểm mà Tú Xương đã nhắc đến trong một bài thơ để đời nổi tiếng của mình: “Một trà, một rượu, một đàn bà / Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta…” Đó là một bộ tách trà cổ, bằng sành, có cả ấm, khay và bốn cái chung nhỏ. Và một chai rượu Pinot Noir, đựng trong hộp gỗ cẩn thận. Chàng không dám cho tôi chai Remy Martin hay Hennessy XO, là những thứ rượu mạnh mà chàng và nhà văn Mai Thảo yêu thích, vì biết tôi không chia sẻ “niềm yêu” ấy. Nhưng chàng cũng nói là mình rất thích hương vị của Pinot Noir và Passion Merlot, những loại rượu vang đỏ được làm bằng các loài nho “quí tộc”, với hương vị nồng nàn và độ say đằm quyến rũ. Như đã nói, chai rượu mà chàng tặng được để trong một hộp đứng dài dùng để đựng rượu, bằng gỗ, của Pháp, rất cổ và đẹp, có quai bằng đồng để cầm, có khóa đồng để đóng lại, và được đánh verni, trang trí với hình vẽ Khải Hoàn Môn của Paris, cùng hình một chai rượu Pháp. Hoa văn trang trí có những chữ Vin de Bordeaux / Paris 1921 / Arc de Triomphe. Chàng nói, “Tặng ông cả rượu lẫn hộp đựng đấy nhé! Có ‘quần áo’ đàng hoàng.” Tôi cám ơn anh và nói nhỏ, “Hai thứ đầu của Tú Xương đây rồi. Thế còn “món” thứ ba đâu?” Rất nhậy, chàng nói ngay, cũng nhỏ và chỉ vừa đủ nghe, “À, cái đó thì tôi không dám ‘mời’ ông!”
Trong khoảng năm, bảy năm trở lại đây, ngoài việc tiếp tục viết loạt bài Thư Gửi Bạn Ta, anh còn có chương trình “Ngày Này Năm Xưa”, “Anh Ngữ trong đời sống” trên đài Little Saigon Radio và Hồn Việt TV, phát thanh, phát hình đủ mọi nơi. Cũng trên Little Saigon Radio, anh còn có chương trình giới thiệu nhạc ngoại quốc nữa.
Các bài viết của Bùi Bảo Trúc trong loạt Thư Gửi Bạn Ta, như tôi đã nói phớt qua ở trên, đã là một chất men quyến rũ rất nhiều người đọc. Người ta đọc nó vì cái chất dí dỏm, hóm hỉnh, đôi khi châm biếm chua cay, sâu sắc về đủ mọi loại đề tài trong cuộc sống con người. Đặc biệt, nó hay xoay quanh các vấn đề về phái tính và chính trị. Nó bay nhảy với các dữ kiện, các ý tưởng, các liên tưởng. Và nó “tung tẩy” với ngôn ngữ. Nhưng luôn luôn đánh đúng mục tiêu. Nó lại gợi cho người ta những hoài niệm, những nostagies về những hình bóng cũ, đặc biệt là những nỗi hoài nhớ quê hương, về một quá khứ “vàng son tơi tả” nhưng cứ dịu dàng tha thiết mãi trong trái tim người.
Có thể lấy đoạn văn sau đây của nhà văn Ngự Thuyết, viết về những bài tạp bút của Thư Gửi Bạn Ta, để thấy được những hình ảnh và tình cảm mà Bùi Bảo Trúc đã gợi lên trong chữ nghĩa của mình:
“(…) Hà Nội thời anh còn thơ ấu, mài đũng quần trên ghế nhà trường Tiểu Học, nhớ lớp học bé nhỏ thì ít mà nhớ cây me, cây sấu, cây hoa phượng, con ve mùa hè, và Hồ Tây xa xôi, thì nhiều. Di cư vào Nam, học Trung Học Chu Văn An, đã có trí khôn, biết bao nhiêu kỷ niệm theo anh suốt đời. Hàng xóm, láng giềng, thầy, bạn, cái giếng, kệ sách, thang gác gỗ ọp ẹp bước lên kêu răng rắc, góc phố, cây trứng cá nở hoa trắng, xe bò viên cạnh rạp xi nê, khô bò, nước mía ở các ngã tư, ngã sáu, đu đủ ướp đá bào, khóm miếng Tân An …, và nhất là những hôm trốn học tay ôm sách, mộng ước đầy hồn, đi lang thang trên những lề đường cũ phủ lá me non, hay đạp xe đạp lượn lui lượn tới trước cổng trường con gái, hoặc chui vào những rạp chiếu bóng thường trực Lê Lợi, Vĩnh Lợi, Đại Đồng, miệng cạp bánh mì, mắt say sưa đuổi theo những chân trời xa lạ.”
Bùi Bảo Trúc là như thế.
“Ngày Này Năm Xưa” được anh dùng để kể lại các sự kiện xảy ra trong lịch sử, vào đúng cái ngày chương trình được phát thanh. Người ta nói là anh có một kiến thức uyên bác. Có lẽ. Nhưng, trong cảm nhận của tôi, cái uyên bác ấy nằm ở trí nhớ của anh, một trí nhớ khá “siêu quần”, ở cái cách anh biết tìm kiếm tài liệu, và, quan trọng hơn, ở lòng yêu thích chính sự tìm kiếm ấy. Cách làm “Ngày Này Năm Xưa” không lạ, và ta cũng có thể tự lục tìm những tài liệu trên Net, trên Google để biết được những điều ấy. Nhưng cái làm cho thính giả theo dõi chính là lối dẫn dắt câu chuyện của anh. Duyên dáng, lịch thiệp, pha với chút nghịch ngợm. Và đầy thân tình. Anh tạo được một cầu nối gần gũi với người nghe. Tạo nên một từ trường đầy lôi cuốn. Giọng nói của anh là một giọng nói ấm áp, trầm và dịu, rất “Bắc kỳ”. Có người nói đó là một giọng nói “Trời cho”. Cái giọng nói ấy nó cuốn hút và tạo sự thân mật. Bùi Bảo Trúc được rất nhiều người yêu thích, đặc biệt là các phụ nữ, có lẽ cũng chính là do, ngoài những tài năng riêng của anh, giọng nói này.
Chương trình “Anh Ngữ trong đời sống” đưa lại những kiến thức khá căn bản, đôi khi tinh tế, về cách sử dụng tiếng Anh trong cuộc sống tại Mỹ. Anh có khả năng từ những từ ngữ, những cách nói trong Anh ngữ, giới thiệu cho người nghe một số nét đặc thù của văn hóa Anh Mỹ, giúp cho những người bình thường thấy được cái tế nhị và phong phú của ngôn ngữ.
Và chương trình giới thiệu nhạc ngoại quốc của anh cũng thật tuyệt. Anh giới thiệu đủ loại nhạc Anh, Pháp, Mỹ, đặc biệt những bản nhạc của thập niên ’60 tại Hoa Kỳ và Pháp. Cách anh dẫn dụ, giới thiệu những bản nhạc. “Hương vị” của những bản nhạc ấy. Ca từ và ngôn ngữ thời đó. Vân vân. Tất cả làm nên một cái nền hoài nhớ, một sự tưởng tiếc vàng son. Một thời. Một đời. Nó làm người ta nhớ lại chính cái tuổi trẻ của mình. Cái nao nức mình. Quả tim mình khi mới lớn. Tình yêu đầu đời. Đường phố. Bạn bè. Nụ hôn đầu. Và tóc ta lúc ấy còn xanh quá, bay bay theo gió. Mặt trời trên cao và hoa lá ở ngay trên đầu. Và mênh mang gió hát. Nó làm người ta nhớ lại tất cả mọi sự.
Cũng phải nói đến những người cùng anh lèo lái các chương trình. Đó là các nữ xướng ngôn viên của đài Little Saigon. Mỗi người một vẻ. Mỗi người một phong cách, một giọng nói. Tất cả đã cùng với Bùi Bảo Trúc làm nên những chương trình thật đáng yêu. Tôi không ngạc nhiên khi nghe nhiều thính giả, đủ mọi lớp tuổi, cả nam và nữ, gọi vào đài tưởng tiếc anh. Rất nhiều người đã không giữ được xúc động. Họ nghẹn ngào, tức tưởi, hay òa khóc, cùng với những xướng ngôn viên, khi nhắc lại những điều anh đã làm được trong các vai trò, các chương trình mà anh thực hiện trên đài. Anh đã đem lại nhiều kiến thức hữu ích, nhiều niềm vui, cũng như một chút hạnh phúc nhỏ giữa đời thường cho rất nhiều người. Mỗi ngày. Và trong bao nhiêu năm trời như thế. Anh đã không thể nói tiếp được một câu nói của mình trong chương trình cuối cùng của anh. Vì định mệnh đột nhiên đã đến. Đó cũng là ngày cuối cùng trong cuộc đời anh. Sự gắn bó của Bùi Bảo Trúc với khán, thính giả và độc giả, qua các phương tiện truyền thông, đặc biệt qua truyền thanh và truyền hình, đã làm cho nhiều người thương tiếc anh. Sự tận tụy trong công việc của Bùi Bảo Trúc, cho đến ngày cuối đời, đã để lại một ấn tượng thiết tha trong lòng họ.
5.
“L’Homme est une passion inutile”. Con người là một đam mê vô ích. J. Paul Sartre đã nói thế. Và nếu đúng như lời Sartre nói, để giản lược hóa phát biểu của triết gia này một chút, tất cả chúng ta đều sống với những đam mê. Mỗi chúng ta đều là một khối đam mê lớn. Vô ích hay không, đó là điều có thể còn được, còn phải tiếp tục tranh luận.
Bùi Bảo Trúc đã sống với những đam mê của mình. Mà đã là đam mê thì thường cực đoan. Anh đã sống nhiều lúc cực đoan như thế. Trong không ít trường hợp. Những cực đoan có khi đưa đến những va chạm xích mích, nhỏ hay lớn, với người này hoặc người nọ, lúc này hay lúc khác. Anh sống với những xác tín của mình, có thể có những lúc chủ quan. Nhưng anh đã sống thiết tha và cương quyết.
Tính là mệnh. Amor fati. Như tính của Thúy Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh/Truyện Kiều chính là định mệnh của nàng. Có những lúc cũng mệt mỏi, BBT đã nói với tôi, “Nhiều khi, sáng dậy, tôi cảm thấy rất nản, muốn buông xuôi, buông bỏ tất cả. Nhưng nghĩ mình còn được thức dậy, nhìn mặt trời lên mỗi ngày, gặp lại bạn bè, làm được một số việc mình thích, tôi lại ngồi dậy mặc quần áo, rửa mặt cạo râu, để bước vào một ngày mới. Mình phải tập kiên trì thôi.”
Tôi nghĩ, như Nietzsche đã trình bày về cuộc “quy hồi vĩnh cửu”(eternal recurrence), BBT bạn tôi hẳn sẽ lại sống như thế, trong mỗi một chi tiết sống của mình, nếu anh có dịp trở lại trần gian trong cuộc “quy hồi vĩnh cửu”, “quy hồi cố quận” kia. Anh chấp nhận cái phận của mình. Và vui vẻ, kiên trì sống với nó. Cho đến hết đời.
Death, be not proud, though some have called thee
Mighty and dreadful, for thou art not so;
For those whom thou think’st thou dost overthrow
Die not, poor Death, nor yet canst thou kill me. (…)
(Hỡi Thần Chết, đừng hãnh diện làm gì, cho dù có những kẻ đã gọi người
Là uy dũng và đáng sợ, vì người chẳng hề là thế;
Bởi lẽ những kẻ mà người nghĩ là đã vật ngã, lật đổ
Chẳng hề chết đi, tội nghiệp cho Thần Chết, và người cũng chẳng thể giết được ta (…)
Đó là những câu thơ mở đầu trong bài sonnet thứ X của John Donne, còn được gọi là bài “Death, be not proud” vì câu thơ mở đầu của nó. Tôi nghĩ, nếu có gặp vị thần này, chàng Trúc sẽ cười và nói, “Hey dude, be not proud…” (“Này cái gã kia, mi đừng phởn chí…”).
Trong cái ma-trận (matrix), mà không phải là mê-hồn-trận, của ngôn ngữ và cuộc đời, Bùi Bảo Trúc đã sống hết tâm hồn và thân xác mình. Anh đã gieo, trồng. Và đã hái, gặt. A, mọi sự tân toan trong đời sống này thì chắc cũng như hương vị của một ly Merlot, một ly Pinot Noir thôi. Đắng. Ngọt. Cay. Tê. Nồng. Và đượm. Có đủ cả. Phải không?
Bạn ta, bây giờ, hãy ra đi thanh thản. Với một nụ cười.
“Xin chào nhau giữa con đường. Mùa Xuân phía trước miên trường phía sau” (B.G.)
Hẹn một ngày “quy hồi cố quận”.
Bùi Vĩnh Phúc
Ấm Lạnh Của Cuộc Đời—Nguyễn Thị Hải Hà
Cơn bão Sandy đến vào đêm thứ Hai. Hai cây anh đào bên cạnh nhà của Quê bị trốc gốc nằm chắn ngang đường dẫn vào nhà để xe. Cây sồi gần trăm tuổi trước nhà ông Jack cũng bị đột quị, tàng lá rậm rề của nó khi trườn ngang đường đã lôi theo máy biến điện, làm trụ điện toác làm hai. Tất cả mọi thứ, dây điện trụ điện máy biến điện đều nằm kềnh trên mặt đất. Thế thì phải còn lâu lắm mới trở lại bình thường. Nhà của Quê cũng như tất cả mọi người chung quanh đều bị mất điện, không sưởi, không có nước nóng lẫn nước lạnh.
Một nơi cơn bão Sandy vừa đi qua
Sau cơn bão trời rất đẹp, ban ngày có nắng, khá ấm so với khí hậu mùa thu của New Jersey . Nhiệt độ trong nhà từ giảm từ từ. Đến ngày thứ Năm, trong nhà chỉ còn 45 độ F, bằng với nhiệt độ ngoài trời. Ban ngày Quê ra sân dọn dẹp cành cây, vận động và phơi nắng cho người ấm lên. Buổi tối Quê mặc hai lớp vớ, hai lớp quần, hai lớp áo mỏng cùng với áo len thật dày, bên ngoài mặc thêm cái áo khoác nhung lót nỉ. Áo này Quê thường mặc để xúc tuyết hay làm việc ngoài trời. Cũng may là hồi mùa hè Quê thấy áo mỏng dài tay bán hạ giá ở Old Navy nên mua luôn mấy cái. Chống lạnh cần mặc nhiều lớp nếu áo nào cũng dày quá sẽ không xoay trở được.
Ở Mỹ đã lâu mà Quê vẫn không quen chịu lạnh. Cái lạnh như cắn cấu vào da thịt có khi như chui ra từ trong xương. Con mèo Nora chui vào mền ngủ chung với Quê. Chị co người như con tôm và Nora nằm ngay vào khoảng trống giữa ngực và đầu gối của chị. Mỗi khi chị trở mình nhích ra xa một chút con mèo ngay lập tức bám theo chị. Người và vật cố tìm chút hơi ấm của nhau nhưng nó bé bỏng quá không mang đủ hơi ấm cho chị. Quê ngủ luôn trên ghế sô pha ở phòng khách vì ban ngày có nắng vào, phòng khách ấm hơn phòng ngủ của chị. Quê không hiểu làm cách nào mà những người sống lang thang không nhà chịu được cái lạnh khi ngủ ngoài trời chỉ che thân bằng cái thùng giấy carton. Nhà có lò sưởi nhưng không có củi vì chồng Quê không chịu dùng củi phòng hờ khi mất điện. Anh đưa ra đủ thứ lý do nào là khói, là khí độc, là hơi ấm đốt bằng củi chẳng thấm vào đâu. Quê tin chồng hết mực. Lời anh nói y như vua phán, chị răm rắp tin theo. Chồng chị cẩn thận chu đáo làm gì cũng tính toán suy nghĩ cặn kẽ. Mấy chục năm chị vâng lời chồng mãi thành thói quen. Mọi quyết định của Quê là chờ quyết định của chồng.
Sáng thứ Năm, nắng đã lên nhưng Quê vẫn còn nằm quấn mền trong phòng khách chỗ có ánh nắng tràn vào để sưởi ấm. Ngọn nến vẫn còn cháy trong một cái bình thủy tinh cao. Loại nến này có thể tránh cháy nhà nhưng không đủ ánh sáng để đọc sách. Đêm qua dưới bóng nến leo lét Quê cố đọc sách nhưng chỉ một lúc là đã chịu thua. Làm thế nào nhà thơ Phạm Thiên Thư có thể “đêm về thắp nến làm thơ” hay người xưa có thể bắt đom đóm dùng thay cho ánh sáng. Mấy ông nhà văn nhà thơ chỉ giỏi vẽ chuyện.
Có tiếng gõ cửa, Quê nhỏm dậy. Đó là Lénine, anh hàng xóm.
– Hello! Quê nói.
– Hello! Chào bà! Tôi đến viếng xem bà có cần giúp gì không? Mọi chuyện vẫn bình thường chứ?
– Vâng, cám ơn ông. Bình yên cả. Chỉ hơi lạnh thôi. Nhiệt độ trong nhà chỉ có 45 độ. Thế ông sưởi ấm bằng cách nào?
Hỏi thế nhưng Quê biết là Lénine sưởi bằng củi vì chị thấy ống khói nhà ông tỏa khói. Đứng ở cửa Quê ngửi thấy mùi khói thật thơm. Đây là mùi đặc biệt của mùa Thu vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, khói lò sưởi thường làm cho Quê có cảm giác mơ mộng, như thưở nhỏ đọc truyện thần tiên và xem thiệp Giáng sinh có ảnh củi cháy sáng rực trong lò sưởi.
– Tôi sưởi bằng củi. Trận bão Irene năm ngoái cây ngã nhiều, lại toàn là gỗ cứng như anh đào và sồi, nên tôi để dành làm củi đốt lò sưởi, rất tiện lợi vào những lúc như thế này. Đêm qua nhà tôi ấm đến độ tôi phải mặc quần đùi.
Lénine ra ngước mặt lên trời lật hai lòng bàn tay để xuôi theo người diễn tả một người nằm ngửa như phơi nắng, thảnh thơi.
– Thế còn ăn uống thì ông làm sao? Quê hỏi. Tôi không nấu nướng gì cả, chỉ ăn bánh mì cũ với chuối hay cheese. Chị nói tiếp sau khi hỏi.
– Tôi có một cái nồi có quai những người cắm trại hay dùng. Tôi treo nó vào trong lò sưởi đốt bằng củi. Với cái nồi có quai này tôi có thể hâm nóng súp hộp hay
chiên một quả trứng, pha cà phê, v.v… Tuy có chuẩn bị nhưng không ngờ bị cúp điện lâu như thế nên tôi thiếu nước. Bà có dư nước không?
Trước khi cơn bão đến Quê có mua thêm 6 gallon nước uống dù trong nhà để xe vẫn còn 10 gallon.
– Tôi còn một ít nước để trong garage. Quê nói. Tôi có thể chia cho ông vài gallon.
– Cám ơn bà lắm, tôi sẽ hoàn tiền lại. Lénine nói.
– Chẳng đáng gì. Xin ông đừng bận tâm.
Lénine theo chị ra nhà để xe. Quê phải dùng cửa sau vì mất điện nên chị không thể mở cửa trước của nhà để xe. Muốn mở phải kéo sợi dây để thả chốt nhưng sợi dây cao quá chị không vói tới. Lénine đi theo, bảo rằng không muốn chị phải xách nặng. Quê đưa cho Lénine hai gallon nước. Qua cách anh ta đảo mắt nhìn chung quanh, có vẻ anh ta tò mò muốn biết cách sống của gia đình chị.
– Thế bà có đủ nước dùng cho cầu tiêu không?
Quê chỉ mấy thùng nước chị để phía sau nhà bên cạnh sàn gỗ và mấy cụm rau húng, rau kinh giới chị trồng trong hai thùng nhựa trắng. Lá sồi khô rơi vào trong nước làm nước biến thành màu nâu và có mùi khăm khắm của lá mục.
– Nếu ông cần ông có thể dùng nó.
Anh ta từ chối, có lẽ vì nước bẩn. Quê chợt đoán ra anh ta xin hai bình nước (chị mua để uống) để dội cầu tiêu. Khi ra về, anh ta nấn ná một chút và nói.
– Nếu bà có cần sưởi ấm xin mời bà đến nhà tôi. Tôi nói thật đấy. Đêm qua nhà tôi ấm đến độ tôi phải mặc quần đùi khi đi ngủ.
– Cám ơn ông.
Quê e ngại nếu nấn ná thêm một chút hắn ta dám nói là hắn ta luôn ngủ truồng.
– Đây là số điện thoại của tôi. Nếu bà cần xin cứ gọi hoặc cứ gõ cửa nhà tôi. Đừng ngại gì cả. Đêm nay nhiệt độ sẽ xuống thấp lắm đấy.
Hắn tên Lenn. Quê đặt cho hắn cái tên là Lénine vì trông hắn giống Lénine với cái mặt gãy khi nhìn nghiêng và cái đầu hói chỉ còn một vành tóc mỏng phía sau. Quê không có thiện cảm với hắn kể từ ngày bắt gặp hắn thổi lá khô từ nhà hắn vào đống lá khô nhà chị. Từ xa, mỗi lần nhìn thấy hắn Quê thường nghĩ đến một khúc phim quảng cáo trên Tivi, một phụ nữ trẻ đẹp buổi sáng nhìn ra sân nhìn thấy một người đàn ông đầu hói, bụng bự, mặc quần đùi ra nhặt báo. Ông ta một tay chống nạnh tay kia vẫy chào người đẹp, miệng cười đầy vẻ khả ố. Cô nàng thuê người xây một bức tường để không còn phải nhìn thấy ông láng giềng nữa.
Quê mỉm cười mỗi khi nhớ đến câu ca dao Gái có chồng như gông đeo cổ. Rất yêu chồng, yêu đến độ tự nguyện khuất phục chồng. Nhưng sự hiện diện của chồng luôn làm cho Quê cảm thấy tù túng bó buộc. Khi chồng bảo có việc phải đi Texas hai tuần, Quê vui vẻ chấp nhận, có phần nào khuyến khích. Vắng chồng, Quê thấy tự do thảnh thơi như đứa trẻ vắng cha mẹ trong phim Home Alone, ngủ thức dậy không cần phải gấp chăn trải giường, không cần phải lo bữa ăn hằng ngày. Hai tuần anh vắng nhà là một cái mini vacation cho chị. Nhiều khi chị thầm mong giá mà anh vắng nhà nhiều thêm nữa thì hay biết mấy.
Khổ một điều là mỗi khi anh đi vắng, đồ vật trong nhà không chịu vâng lời Quê. Đầu tiên là cái chốt bật điện trong phòng ngủ. Nó nổ nghe “tách” một tiếng, xẹt lửa, và không thể mở đèn được nữa. Cái chốt xả nước bồn tắm bỗng trở nên lặt lìa, kéo lên đẩy xuống cả chục lần nước vẫn không rút. Nước phòng tắm trên lầu lạnh ngắt. Quê xuống hầm tìm cách tăng nhiệt độ nước nóng nhưng đứng ngắm nghía cái lò nấu nước nóng một hồi lâu không biết cái chốt tăng nhiệt độ ở chỗ nào. Chị sợ mình làm sai sẽ hư bình nước nóng hay tệ hơn nữa làm cháy nhà, nổ ống ga. Chị như một bà nhà quê lên tỉnh lớ ngớ sợ đủ thứ. Sợ nhất là làm sai ý chồng sẽ bị khiển trách. Có cái lò nướng bằng ga để ngoài sân nhưng Quê không nhóm lửa được. Chị vặn nút, hơi ga thoát ra khè khè nhưng lửa không bật cháy. Chị sợ hơi ga độc nên thở dài rồi tắt lò.
Nhiều lần bực mình khi bắt gặp Lénine thổi lá sang nhà mình chị định nói thẳng với hắn ta nhưng ngần ngại cho rằng chuyện không đáng để mất lòng nhau. Cũng may là Quê đã nhịn lời nếu không bây giờ cũng áy náy với láng giềng. Lénine chuẩn bị bán nhà nên lúc nào cũng săn sóc nhà cửa cho tươm tất. Chả bù với nhà của Quê cỏ lên cao đến đầu gối không cắt, bụi rậm đầy gai mọc um tùm. Quê không biết sử dụng máy cắt cỏ cũng không dám hối thúc chồng. Mấy hôm nay nhờ cơn bão, không đi làm, Quê ra sân dùng kéo cắt cành cây tỉa bớt những bụi rậm quanh nhà. Lénine cũng mang máy thổi lá sang giúp chị dọn sạch lá cây rơi vì cơn bão Sandy .
– Chồng bà đâu rồi? Lénine hỏi.
– Ông nhà tôi đi Texas có công việc, dự định thứ Bảy sẽ về. Quê trả lời.
– Hôm nay là thứ Tư, thế còn ba ngày nữa.
– Vâng, tôi hy vọng là người ta sẽ khôi phục điện nhanh chóng ở phi trường. Chứ có lẽ phải mất một hay hai tuần nữa người ta mới có thể khôi phục điện cho xóm mình. Quê nói. Tôi muốn dọn hai cây anh đào trước nhà nhưng lúc này thì chẳng thuê được ai.
Hai cây anh đào không to lắm, đường kính chừng hơn hai tấc, nhưng cành lá um tùm muốn xê dịch hai cây này không phải dễ. Thứ Bảy Quê phải ra phi trường đón chồng nhưng cây ngã trên driveway không thể lấy xe ra. Nhà có cái cưa tay lưỡi nhỏ bằng ngón tay. Nếu dùng lưỡi cưa này chắc phải đến mùa bão năm sau mới xong. Trong nhà kho của chị có máy phát điện nhưng còn nằm trong thùng. Anh mua cái máy phát điện là để dùng những trường hợp như thế này nhưng không có anh ở nhà, Quê không biết sử dụng, thì có cũng như không. Quê không dám nhờ hàng xóm giúp. Tuy sống hòa thuận với láng giềng gia đình chị không quen thân với ai. Chị cũng sợ nếu lỡ làm hư cái máy phát điện thì chẳng biết phải nói sao với chồng.
Chiều thứ Năm, Lénine lại sang sân nhà Quê lúc chị đang cắt những nhánh gai của bụi rậm trước nhà. Anh ta hỏi:
– Tiệm A&P ở Warren mở cửa. Tôi sẽ đi mua nước bà có cần mua gì không?
– Không ạ. Xin cám ơn ông. Nhà tôi còn nước, nếu ông cần xin cứ lấy thêm mà dùng.
Lénine từ chối, nhưng nấn ná trò chuyện.
– Cô con gái của bà đâu rồi?
– Cúp điện lâu quá, nó chịu lạnh không nổi nên mang con mèo đến nhà bạn tạm trú rồi. Quê trả lời. Còn con trai của ông chắc đã ra trường và đã đi làm?
– Vâng. Nó thuê một căn chung cư ở chung với bạn nó. Mẹ nó, vợ cũ của tôi sắp lập gia đình nên nó không thể ở chung với bà ấy. Tôi muốn nó ở chung với tôi cho đỡ tốn kém nhưng nó không chịu điều kiện của tôi.
– Ông đòi điều kiện gì?
– Nó không thể có sex với bạn gái của nó trong nhà tôi. Nếu nó muốn làm chuyện ấy trong nhà tôi thì nó phải giới thiệu một người bạn gái cho tôi.
Lénine vừa nói vừa mỉm cười có vẻ đắc chí tự thưởng thức câu nói tinh ranh của anh ta. Mùi thơm của củi đốt bay thoang thoảng từ nhà Lénine sang sân nhà Quê. Lénine dường như kéo dài câu chuyện. Hắn hỏi:
– Bà có biết đêm qua Christian phải vào bệnh viện không?
Christian là người hàng xóm đối diện với nhà tôi. Hai vợ chồng, Christian và Carmine mới dọn về từ hồi tháng Tám. Đêm bão về Christian sợ cây ngã không ngủ được phải lái xe xuống sân đậu xe của văn phòng bảo hiểm cạnh đường 22, nơi trống trải không cây để ngủ.
– Thế à? Ông ấy bị bệnh gì?
– Huyết áp tăng cao quá. Lénine trả lời.
– Có lẽ ông ấy lo lắng quá.
– Tôi thấy chẳng có gì mà ông ấy phải lo lắng đến mức như thế. Ít ra ông ta còn có bà vợ bên cạnh ngủ cho ấm. Còn tôi, tôi chẳng có ai.
Trong đêm, Quê suy nghĩ. Đã hai lần anh ta nhắc đến chuyện mặc quần đùi đi ngủ, ít ra cũng đã hai lần mời Quê sang nhà anh ta trốn lạnh. Dường như anh ta có ý lẳng lơ. Quê không hiểu chị có thái độ gì khiến anh ta dám đường đột như thế. Quê không phải là người xinh đẹp đến độ ai nhìn cũng thèm muốn. Chị tự hỏi không biết có nên hãnh diện khi được đàn ông chú ý như thế không. Mặt chị dường hơi méo mó. Hai cái răng cửa mấy lúc gần đây có vẻ lung lay không biết lúc nào sẽ rơi. Soi mình trong gương chị nhìn thấy một người đàn bà đầu bù tóc rối. Cái mũ đen trùm trên đầu với mớ tóc cột lỏng lẻo phía sau đã bung ra. Trông chị luộm thuộm già nua. Có thể hắn ta chỉ là một người quan tâm đến hàng xóm trong tình cảnh bất tiện nhưng hở hang trong cách nói. Nếu quả thật anh ta có ý tán tỉnh chị thì anh ta chắc là đang ở trong tình trạng quá tuyệt vọng vì thèm muốn. Đàn ông Mỹ có lẽ dễ dãi. Phụ nữ không cần nhiều nhan sắc chỉ cần không béo phì là tốt rồi. Hay hắn ta tò mò muốn biết mùi phụ nữ Á châu? Giời ạ. Cả mấy ngày nay chị không tắm, không gội đầu. Mùi đã nặng lắm rồi đây. Phụ nữ có chồng cũng chẳng nhằm nhò gì, có ai tính chuyện ăn đời ở kiếp đâu. Chỉ cần chút hơi ấm qua đêm thôi.
Đêm càng lúc càng lạnh. Bóng tối dày đặc. Đứng ở cửa sổ nhìn ra cuối trời không có chút ánh sáng nào. Quê mong mỏi nhìn thấy một bóng đèn điện như một người bạn ở xa và tưởng tượng đến sự cô đơn của những vì sao, hay của những chuyến phi hành liên vũ trụ. Chung quanh im lặng quá đến độ Quê đâm ra nhớ cả tiếng râm ran của máy sưởi, tiếng nước róc rách chảy khi bình nước nóng của lò sưởi bắt đầu, tiếng ngôi nhà chuyển mình răng rắc khi máy sưởi làm ấm căn nhà. Quê thấy thèm một ly trà nóng. Một thèm muốn thật đơn giản nhưng không thể thỏa mãn lúc này.
Nhiều lúc Quê thầm trách chồng. Anh dùng máy móc điện tử tinh vi để điều chỉnh nhiệt độ trong nhà, tinh vi quá đến độ Quê không biết sử dụng. Cứ mỗi lần thấy nước tắm không đủ ấm hay rửa chén không sạch dầu mỡ, Quê lại phải nhờ chồng tăng nhiệt độ lên. Mãi rồi Quê đâm ra chán, ngay cả chuyện ấm lạnh của chị phải tùy thuộc vào quyết định của chồng. Quê đâm ra ghét chồng. Những sự chăm sóc chu đáo của anh thường đưa chị vào vị trí không thể chọn lựa hay phản đối. Anh tùy tiện quyết định chuyện trong nhà không cần biết nhu cầu cũng như ý kiến của chị. Dần dần anh biến chị thành một người đàn bà cần phải tựa vào anh, và càng ngày chị càng trở nên khuất phục.
Quê tí toáy cái ý nghĩ sang nhà Lénine đêm nay để trốn lạnh. Hắn đã mời mọc “nếu bà cần một ly cà phê hay sữa chocolate xin mời sang nhà tôi.” Sao lại không chứ? Đày đọa thân mình để làm gì? Anh ấy có ở nhà để chịu lạnh giống như mình đâu. Hừm, đàn bà có chồng sang nhà đàn ông làm sao tránh khỏi chuyện tai tiếng. Đâu cần hắn dở thói trăng gió, chỉ cần gieo nghi ngờ là chị đã lỗ vốn rồi. Trời, ý nghĩ đó chỉ có ở Việt Nam chứ đàn bà Mỹ họ cóc sợ. Người Tây phương xem nhẹ chuyện ngoại tình. Cứ mở đại một cuốn tiểu thuyết là thấy có chuyện ngoại tình. Thấy cô nàng Francesca Johnson trong phim The Bridges in Madison County không? Chỉ cần ông chồng dẫn con đi hội chợ làng bên cạnh một tuần là đủ cho mối tình của Francesca nảy nở với anh chàng chụp ảnh nghệ thuật. Đàn ông cũng thế. Anh chồng tê liệt của phu nhân Chatterley cho phép vợ có con với người khác miễn là người đàn ông kia thuộc giai cấp chấp nhận được. Phụ nữ Mỹ không nghĩ làm tình với một người đàn ông là ban ân huệ cho người đàn ông ấy. Với họ chuyện xác thịt là phục vụ cho chính bản thân. Nhưng Quê đâu có phải là đàn bà Mỹ. Suốt cuộc đời Quê sống trong dây nhợ vô hình nhưng ràng buộc chặt chẽ của lề lối Khổng Tử. Quê nghĩ đến cái tên mình. Chỉ cần thêm cái dấu sắc là chữ quê biến thành chữ quế. Chị là cây quế giữa rừng. Đâu có phải ai muốn leo cũng được.
Quê lại tự chất vấn mình. Chị cưỡng lại chuyện đi tìm hơi ấm Lénine đã mời mọc vì muốn giữ đạo đức hay vì chị đã già nua đến độ tình dục không còn là một hứng thú nữa? Nếu Quê trẻ hơn năm hay mười tuổi và Lénine là một chàng trai cao ráo bụng lép tóc rậm như rừng thì chị có giữ được đạo đức của người phụ nữ Á Đông không? Có phải người ta dễ lên mặt đạo đức khi không bị cám dỗ hay không có điều kiện thuận lợi để bị cám dỗ. Giá Anna Karenina xấu xí thì chắc nàng đã không bị ánh lửa Vronsky quyến rũ để cuối cùng bị hủy diệt như loài thiêu thân.
Quê bỗng sợ hãi. Hắn đã theo mình vào garage và sân sau. Nhỡ hắn làm càng thì sao? Quê vói lấy cellphone, thấy vẫn còn điện, nhỡ có gì còn gọi 911. Đường dây điện thoại trong nhà vẫn còn hoạt động, mất điện, và internet nhưng đường dây điện thoại vẫn còn. Hắn không phải là mẩu người dám sàm sở. Quê tự trấn an.
Quê chợt nghĩ đến một đoạn trong phim Người Tình của Phu Nhân Chatterley, đôi tình nhân ngồi trần truồng trước lò sưởi. Vị phu nhân quí phái trẻ tuổi với anh thợ săn cùng chạy trần truồng trong cơn mưa rồi sau đó họ ngồi đính hoa dại lên thân thể tràn đầy nhựa sống của nhau. Tưởng tượng hơi lửa ấm nồng trên da làm Quê thấy rạo rực. Một người đàn bà Việt Nam thiếu nhan sắc sẽ nói gì chuyện gì với một anh Mỹ hói đầu bụng phệ? Nói về những cái răng đã bắt đầu lung lay, những sợi tóc bạc, và những quả thận yếu đuối? Không cần phải nói gì, chỉ cần xách theo chai rượu vang và miếng phô mai, làm vài ly thì rượu sẽ nói thay cho người. Hắn sẽ nói về những bất hòa với người vợ cũ và những bất hòa với cô bồ đang ở gần đây. Quê sợ sẽ phàn nàn về chồng vì càng ngày chị càng nhận ra những bất mãn ngấm ngầm của mình. Chị biết chị không thấy hạnh phúc trong hôn nhân nhưng không thể thổ lộ với ai. Người ta sẽ chê trách chị ngu xuẩn dại dột, nhất là gia đình chồng đều nghĩ đàn bà mà có được người chồng như chồng chị là một hạnh phúc lớn nhất trên đời. Những bất mãn của chị chỉ là một thứ Ví dầu tình bậu muốn thôi. Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra đó mà.
Buổi sáng khi Quê hỏi, “ông có người thân nào ở gần đây để ông có thể tạm trú qua cơn lạnh không,” thì Lénine nói.
– Cô bồ của tôi ở Piscataway đã đi tạm trú. Cô ấy không thích ở đây. Cô bảo nhiều cây quá giống như rừng. Ban đêm cô sợ bóng tối, ban ngày sợ sâu bọ. Cô thích ở thành phố hơn.
– Tôi thì khác. Tôi yêu cây cối. Tôi thấy cây khô cũng đẹp, mùa xuân lá xanh nõn, mùa thu lá trổ màu. Tôi thích cái quạnh quẽ yên lặng của rừng. Không phải ở đâu cũng có chim chóc, sóc, nai và gà lôi như ở đây.
– Tôi cũng hợp với bà ở điểm này.
Cái lạnh chừng như tăng thêm từng giây. Quê nhìn về phía cuối đường nơi có căn nhà kiểu cottage của hắn ta. Ánh sáng vàng nhạt lung linh ở cửa sổ làm Quê nghĩ đến ánh lửa ấm cúng trong lò sưởi. Lạnh lùng thay láng giềng ơi, láng giềng lạnh ít sao tôi lạnh nhiều. Quê nghĩ đến chồng. Chắc không ai ngờ chỉ mấy ngày bị lạnh mà một hôn nhân đầy hạnh phúc có thể bị soi mòn khi anh láng giềng đầu hói bụng phệ tòm tem dụ dỗ một phụ nữ có chồng bằng hơi ấm của cái lò sưởi trong nhà. Có lẽ cái vẻ quê mùa thật thà của Quê làm hắn tin là có thể dụ dỗ chị. Biết đâu chừng hắn nghĩ là hắn làm ơn tạo cơ hội cho chị biết mùi đàn ông Mỹ? Quê cũng tự trách mình đã quá nhu nhược ỷ lại vào chồng. Chị phải tự săn sóc chuyện ấm lạnh của bản thân chứ. Đêm qua anh gọi điện thoại hỏi han, nghe chị than lạnh anh nhắc chị còn hơn hai chục pounds than đá trong nhà kho. Nếu lạnh quá chị có thể dùng đỡ đến thứ Bảy anh về anh sẽ tính. Chị e dè hỏi chồng, có an toàn không. Anh trả lời giọng chắc nịch. Sao lại không? Quê nhớ chồng chị đã nhiều lần bảo rằng đốt than đốt củi trong nhà không tốt. Nhưng bây giờ thì chị không muốn gặng hỏi gì nữa. Chị cần hơi ấm, miễn là chị cẩn thận đừng để cháy nhà.
Quê bưng ngọn nến vào trong nhà kho lục lọi, thấy còn một khúc củi nhân tạo anh thường đốt mỗi khi có khách đến chơi vào mùa lạnh, để khoe nhà mình có lò sưởi. Chị thấy bao than đá còn đầy. Hì hục bưng cả than và củi vào nhà, Quê đốt củi cháy bùng lên, rồi chất than barbecue chung quanh củi. Đây là loại mạt cưa được ép chặt có tẩm dầu rất dễ bén lửa nên chẳng mấy chốc than và củi cháy đều, mùi khói hăng hăng dễ chịu. Quê lấy chai rượu vang rót đầy ly nhâm nhi. Quê đóng cửa lò sưởi, trải mền nằm cạnh lò sưởi.
Quê suy nghĩ: “Nếu đừng bị lạnh thì chẳng đến nỗi nào.” Hàng xóm của chị khá tử tế. lúc sẩm tối, có một người lạ mặt dùng máy cưa chạy bằng xăng cắt hai cây anh đào thành từng khúc nhỏ. Quê hỏi chị cần phải trả bao nhiêu tiền để đáp ơn của ông. Người khách lạ mỉm cười nhìn Quê không trả lời. Hỏi thăm láng giềng, Quê biết đó là Dave ở bên đường Brandy Vine. Dave hoạt động trong nhóm Hướng Đạo Sinh với Jack, ông láng giềng của chị. Cậu bé hàng xóm học chung lớp với Ách Cơ dùng máy phát điện của nhà cậu bơm nước từ giếng lên và chia cho mỗi nhà vài thùng nước để dùng. Quê cảm động trước sự giúp đỡ này. Quả thật là chung quanh mình có những vị thiên thần im lặng. Không phải lúc nào mình cũng có thể đền đáp sự giúp đỡ của người chung quanh nên có khi cách đền đáp tốt nhất là giúp người khác khi mình có thể.
– Ông Lévine ơi, tôi sang viếng ông đây.
– Bà nhớ nhầm tên tôi rồi.
– Ồ. Tôi biết chứ. Nhưng tôi thích gọi ông là Lévine vì đó là tên nhân vật tôi rất yêu thích trong truyện Anna Karénina. Chị không thể làm phật ý hắn bằng cách gọi hắn là Lénine tên của ông Trùm Sò Liên Xô nên ngầm lấy lòng hắn bằng cái tên Lévine.
– Tôi có đọc quyển ấy từ lúc tôi còn ở Trung học. Bây giờ thì chẳng còn nhớ gì cả. Bà thích văn chương nhỉ? Tôi thấy trong nhà bà rất nhiều sách. Gã hàng xóm càng nói chuyện càng tỏ ra duyên dáng làm Quê cứ bật cười. Hắn tâm sự:
– Ngày còn trẻ tôi yêu một cô gái người Hoa. Cô ấy tên Muxia. Tôi không hiểu tại sao bố của Muxia không thích tôi dù tôi rất đàng hoàng lễ phép. Mỗi lần tôi muốn đưa Muxia đi chơi chúng tôi phải lén lút như là những người phạm pháp. Ông già ngồi ngay trong phòng khách trông vẻ mặt của ông tôi nghĩ ông có thể ngoạm một phát là rứt đầu tôi ra khỏi cổ. Những câu chào hỏi của tôi chỉ được trả lời bằng những tiếng gầm gừ trong cổ họng. Có phải đàn ông Á châu không thích nhìn thấy con em của họ quan hệ với người ngoại chủng?
Lenn nhìn sâu vào mặt Quê, ánh lửa lò sưởi làm mắt ông ta long lanh. Giọng hắn ta trở nên ngọt ngào quyến rũ.
– Ngày bà mới dọn về tôi thấy ngay bà giống Muxia ở mái tóc dài và khuôn mặt hình trái hạnh nhân. Muxia có làn da rất mềm nhất là ở những vùng kín đáo. Vợ cũ của tôi da trắng tóc vàng, đùi và tay đều có lông nhìn thì không thấy vì chúng có màu bạch kim nhưng sờ vào rất nhám và cứng. Tôi càng thích bà hơn vì bà rất thông minh.
Quê cười. Gã này sành tâm lý lắm. Với đàn bà xấu thì phải khen thông minh. Đàn bà Á châu dễ bị dụ dỗ vì họ đói khát lời khen từ những ông chồng gia trưởng và nghiêm khắc. Chỉ cần vài lời khen là lòng họ trở nên mềm như tơ. Khi hắn định hôn chị thì bất ngờ hai cái răng cửa của chị rơi ra. Hai cái răng lung lay chọn đúng lúc này để tự giải thoát. Quê bụm miệng chạy ra khỏi cửa vấp ngã và tỉnh giấc. Giá mà có đèn sáng Quê sẽ ghi lại giấc mơ ngắn ngủi với gã hàng xóm rồi gởi lên trang mạng Gió O. Quê có thể vẽ vời cho câu chuyện thêm phần lâm ly nhưng chị lại lo sợ. Nhỡ chồng chị tưởng là chuyện có thật đâm ra nghi ngờ ghen tuông với gã hàng xóm thì khổ. Văn ba xu chỉ tổ làm xấu hổ chồng con. Đàn bà có chồng thì chẳng nên dấn bước vào thế giới văn chương.
Hơi ấm của rượu và lò sưởi làm chị thấy dễ chịu. Quê tiếp tục ngủ và lần này nhẹ nhàng bước vào một giấc mơ rất đẹp. Quê bước trên mây bềnh bồng, chung quanh chị là những dải lụa màu sắc rực rỡ bay trong gió. Nắng chiếu trên rừng hoa quì, bên dưới nhìn qua khe hở của mây là đồng cỏ xanh non. Tiếng gió du dương như tiếng vĩ cầm. Chị thấy Lénine đang đẩy cái wagon be bé chở củi sang nhà chị. Con dốc cao quá, hắn ta phải còng lưng đẩy cái wagon theo đường zig-zag. Quê bơi trong gió, lướt mây như cánh chim. Chị nghe âm vang một bài hát xa xưa “và những lạnh ấm riêng của mình đời người ai cũng có. Hãy cho nhau tình yêu. Hãy thương nhau thật nhiều.”
Lần đầu tiên dùng lò sưởi, Quê không biết là chị cần phải kéo cái cần đẩy bên dưới ống khói để khói trong lò sưởi theo ống khói thoát ra ngoài. Trong bóng tối chị không để ý trên bao than có dấu hiệu cái đầu lâu nằm dưới hai gạch tréo màu đỏ và lời cảnh cáo in đậm KHÔNG ĐƯỢC ĐỐT THAN TRONG NHÀ. RẤT NGUY HIỂM. CÓ THỂ GÂY CHẾT NGƯỜI. Quê ấm áp bay hoài trong giấc mơ.
Lời tác giả: Cơn bão Sandy có thật nhưng những chi tiết xảy ra trong truyện phần lớn là tưởng tượng hay phóng đại.
Nguyễn thị Hải Hà
Mặc cảm bị trị – Bùi Bảo Trúc
Mới đây, tại buổi sinh hoạt của hội cựu nữ sinh một trường trung học nọ, tôi được xếp cho ngồi cạnh hai cựu giáo sư của trường. Ðang sung sướng và hân hạnh được gặp hai nhà giáo khả kính, ôn lại một số chuyện cũ của thời đi học, thì niềm vui của tôi bị cắt đứt ngang. Một phụ nữ mà tôi nghĩ là một cựu nữ sinh của trường đến tận nơi, yêu cầu hai vị giáo sư này chuyển xuống ngồi ở một hàng ghế dưới để dành các ghế hàng đầu cho những người khách khác chưa tới. Tuy không biết những người khách chưa tới là ai nhưng tôi chắc không phải là ông bà Obama. Dẫu thế, tôi vẫn thấy rất khó chịu. Hai vị cựu giáo sư này không tự ý chiếm lấy hai chỗ của hàng ghế đầu. Cả hai được một cựu nữ sinh khác dẫn đến tận nơi mời ngồi xuống ghế, để rồi mấy phút sau, hai cụ bị bà cựu nữ sinh yêu cầu đổi xuống hàng ghế dưới, nhường chỗ cho người khác. Tôi bị cản ngay lúc ấy nên đã không nói được vài ba lời phải quấy với người đàn bà ấy. Mãi sau buổi lễ, tại một tiệm ăn, khi ngồi ăn với một số bạn bè, tôi mới nói lên được (thẳng vào mặt của bà ta) việc làm sai quấy của bà ta, việc làm mà tôi chắc chắn bất cứ ai nghe qua cũng thấy rất khó chịu.Trước hết, hai vị cựu giáo sư đã không tự ý ngồi xuống ở hàng ghế đầu, mà hai cụ đều đã được ban tổ chức đưa tới tận nơi. Nếu có lầm lẫn trong việc xếp chỗ (đưa hai cụ lên ngồi hàng ghế đầu) thì việc yêu cầu hai cụ đổi chỗ cũng đã là việc rất không nên. Ðằng này, hai cụ rất xứng đáng được mời ngồi ở hàng ghế đầu. Hai cụ đều là những người có tuổi. Ðã chắc gì những người khách chưa tới đó đáng được nể trọng hơn hai cụ về tuổi tác?
Hai cụ không thể bị đối xử như vậy. Hai cụ phải được dành cho những cách đối xử trân trọng hơn những người khách chưa tới. Giản dị là vì hai cụ đều là những người từng dậy ở cái trường có tổ chức cựu nữ sinh ấy.
Sau ít phút thì những người khách mời được dành cho hàng ghế đầu cũng lục đục kéo tới. Buổi lễ bắt đầu sau đó, và những người khách đó liền cười nói trò chuyện với nhau thoải mái bất kể nỗ lực thông dịch sang tiếng Anh của ban tổ chức. Tôi nhìn sang thì thấy mấy khuôn mặt đã gặp vài ba lần ở mấy buổi sinh hoạt khác. Họ là những đại diện của mấy khu vực thuộc địa phương, chứ chưa phải là cỡ tiểu bang, và lại càng không phải là cấp liên bang. Những người ấy, có người tuổi tác có thể chưa bằng con cái của hai vị cựu giáo sư. Những đóng góp của họ cho ngôi trường trung học cũ ở Việt Nam phải nói ngay là không có gì. Vậy mà họ được dành cho cách đối xử trịnh trọng hơn là cách đối xử mà người cựu nữ sinh kia dành cho hai cựu giáo sư. Bậy hết chỗ nói.
Kế đến, những người này được mời lên nói dăm ba câu và tặng cho hội cựu nữ sinh mấy tấm bằng khen (tiền chế) mà bất cứ một tổ chức nào mời họ đến, họ đều in ra để tặng cho có lệ. Có một tấm tưởng lục tặng cho hội thì in sai cả tên trường, thành trường TRUONG VUONG. Làm việc như thế thì họ coi ngôi trường của hội có ra cái gì đâu, mà họ lại vẫn được trọng vọng hơn là hai cụ giáo cũ của trường? Một phụ nữ dân cử khác thì trọ trẹ vài câu tiếng Việt đánh dấu sai bét, đọc sai lên sai xuống rồi quay ra cười ngặt nghẽo mãi. Hai người phụ nữ được mời lên sân khấu thì phục sức như vừa đi chợ về. Ðôi ba câu hát biểu không sửa soạn trước cùng với lối ăn mặc như vừa kể có phải là thái độ trân trọng đối với ngày hội của trường và cần được đối xử tử tế hơn là cách đối xử dành cho hai cựu giáo sư của trường không?
Tất cả, sau khi xuất hiện cho có lệ thì bỏ về ngay, trong khi đó, hai cô giáo cũ của trường thì ngồi lại đến tận phút chót và lại còn có quà bằng hiện kim không nhỏ cho quĩ hoạt động của trường. Trong khi đó, quà của những ông bà dân cử cho hội chỉ là mấy tờ tưởng lục gọi là ghi nhận việc làm của hội. Rồi liền tất tả biến ngay.
Như vậy, ai là người nên được đối xử tử tế hơn trong dịp này?
Nên nhớ những người đại diện đó cần chúng ta hơn là chúng ta cần họ. Họ cần phiếu của chúng ta. Nếu chúng ta không đi bầu, không bỏ phiếu cho họ thì họ không thể ngồi vào được những chiếc ghế dân cử đó. Bởi thế, không cần dành cho họ những đối xử đặc biệt nào, nhất là không được coi họ cao hơn là những cựu giáo sư của trường.
Thỉnh thoảng đi ngoài đường tôi nhìn thấy những chiếc bumper sticker dán trên cản của những chiếc xe chạy trên đường. Người hút thuốc, chống lại những luật chống hút thuốc thì khẳng định: I SMOKE AND I VOTE. Người chống phá thai thì I AM PRO LIFE AND I VOTE, người ủng hộ quyền sở hữu súng thì I HAVE GUNS AND I VOTE…
Tất cả những cái bumper sticker đó, tuy nghe thì hài hước, nhưng lại chính là những lời hăm dọa nhắm vào các ứng cử viên: chúng tôi có lá phiếu nên các ông các bà phải biết điều với chúng tôi…
Như vậy thì ai cần ai?
Họ mới là người cần và đến với chúng ta là vì họ cần lá phiếu của chúng ta. Nhưng chúng ta thì đã có thời, thời tuổi trẻ đi học của chúng ta, chúng ta đã rất cần các thầy cô của chúng ta. Vậy thì có cần phải quá nịnh bợ những người ấy một cách không cần thiết và quay sang vô lễ với các cựu giáo sư có tuổi của mình như cô cựu nữ sinh kia không?
Tôi nghĩ là không.
Nếu cần phải yêu cầu dời chỗ thì chính tôi mới là người mà bà cựu nữ sinh kia phải chiếu cố. Chứ đuổi hai cô giáo cũ của trường đi ngồi chỗ khác thì vừa bậy vừa hỗn. Không thể tha được.































































































